Phát triển hợp tác xã sẽ tạo ra sức mạnh đa chiều

Sáng 19/10, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức hội nghị trực tuyến Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012 trong lĩnh vực nông nghiệp. Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đến dự và phát biểu tại Hội nghị.

Chú thích ảnh
Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN

Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan, cùng với sức mạnh của doanh nghiệp, cần quan tâm đến kinh tế tập thể và hợp tác xã. Các địa phương phải thực sự quan tâm đến sự phát triển của hợp tác xã, coi đó là một phần không thể tách rời của kinh tế nông thôn.
Việc đầu tư cho nông nghiệp sẽ không thành công nếu không có hợp tác xã. Phát triển hợp tác xã sẽ tạo ra sức mạnh đa chiều trong hợp tác và liên kết, bảo tồn giá trị văn hóa, bảo vệ môi trường ở nông thôn, góp phần quan trọng vào cơ cấu lại nông nghiệp.
“Có thể hợp tác xã không mang lại nhiều về tăng trưởng cho địa phương và ngân sách Nhà nước, nhất là hợp tác xã trong khu vực nông nghiệp, nhưng nó chính là nền tảng cho sự liên kết, hợp tác, chia sẻ trong chuỗi ngành hàng. Hợp tác xã chính là nơi để huy động sức mạnh cộng đồng, nông dân cùng với sự hỗ trợ của nhà nước để tạo ra một sức mạnh đa chiều hơn. Sự kết nối tạo ra sự bền vững hơn”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho hay.
Theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, qua 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể (Nghị quyết 13) và 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012, cả nước có 34.871 tổ hợp tác nông nghiệp, giảm hơn một nửa so với năm 2001. Nhiều tổ hợp tác hoạt động hiệu quả đã phát triển lên thành các hợp tác xã.
Đến ngày 31/12/2021, cả nước có khoảng 18.327 hợp tác xã nông nghiệp và 79 liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp. Như vậy, sau 20 năm thực hiện Nghị quyết 13, số lượng hợp tác xã nông nghiệp tăng 12.569 hợp tác xã; còn so với thời điểm 31/12/2013, khi Luật Hợp tác xã có hiệu lực thì số lượng hợp tác xã nông nghiệp cả nước tăng khoảng 7.917 hợp tác xã.
Không chỉ tăng nhanh về số lượng, mà chất lượng và hiệu hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp cũng đã được cải thiện. Tỷ lệ các hợp tác xã nông nghiệp  được đánh giá xếp loại khá, tốt đã tăng từ 10% (năm 2013) lên 33% (hết năm 2016) và trên 60% năm 2020.
Cả nước có khoảng 3,23 triệu thành viên, tăng 473 nghìn thành viên so với năm 2001 nhưng giảm khoảng 1,87 triệu thành viên so với năm 201). Trung bình 1 hợp tác xã nông nghiệp có 176 thành viên. Số lượng thành viên giảm do các hợp tác xã giải thể đa số là các hợp tác xã kiểu cũ, đông thành viên, trong khi các hợp tác xã mới thành lập quy mô thành viên ít.
Chất lượng và hiệu quả hoạt động của hợp tác xã còn thể hiện qua việc có 2.297 hợp tác xã nông nghiệp đã thành lập doanh nghiệp trong hợp tác xã. Cùng với đó còn có 2.200 hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số trong sản xuất, tương ứng bằng 13% và 12% tổng số hợp tác xã nông nghiệp cả nước. Đặc biệt đã có trên 4.339 hợp tác xã nông nghiệp đảm nhận bao tiêu nông sản, bằng 24,5% tổng số hợp tác xã nông nghiệp; tỷ lệ này trước năm 2015 chỉ từ 5-7%.
Từ thực tế làm đầu mối thực hiện liên kết ngành hàng chủ lực của Bến Tre là bưởi da xanh, ông Nguyễn Quốc Bảo, Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã Nông nghiệp bưởi da xanh Bến Tre chia sẻ, khó khăn với hợp tác xã hiện nay không phải là vận động người dân tham gia, mà là tìm được người lãnh đạo, quản lý hợp tác xã. Muốn cho nông dân gắn bó thì hợp tác xã phải kinh doanh có hiệu quả, có lợi nhuận đáp ứng được những mong muốn của các thành viên. Như vậy thì mới thu hút thành viên tham gia và gắn bó với hợp tác xã. Nếu chưa làm được điều này rõ ràng hợp tác xã chưa thể làm tốt được vai trò và rất khó nâng cao được hiệu quả của mình trong việc tổ chức sản xuất và cơ cấu lại nông nghiệp.

Theo ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, triển khai Nghị quyết số 13 trong ngành nông nghiệp đã làm chuyển đổi nhận thức về vai trò, vị trí và tính cấp thiết của việc phát triển hợp tác xã trong nông nghiệp, mô hình hợp tác xã kiểu mới trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Xây dựng được môi trường thể chế, hệ thống các cơ chế, chính sách phù hợp và đặc thù trong nông nghiệp.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xác định, kinh tế tập thể, hợp tác xã là công cụ, giải pháp trụ cột để thực hiện các mục tiêu cơ cấu lại ngành nông nghiệp và phát triển nông, nông thôn.
Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết 13 còn chậm, tại nhiều thời gian, thời điểm chưa quyết liệt. Nghị quyết số 13 đặt ra mục tiêu 10 năm sau (đến năm 2010) là đưa kinh tế tập thể, hợp tác xã thoát khỏi những yếu kém. Tuy nhiên, đến nay (chậm 10 năm so với yêu cầu của Nghị quyết) mục tiêu này mới cơ bản được hoàn thành.
Số lượng hợp tác xã thành lập mới tăng mạnh, nhưng số hợp tác xã hoạt động có hiệu quả còn thấp, thiếu bền vững; quy mô thành viên và doanh thu của các hợp tác xã nông nghiệp còn nhỏ bé. Các dịch vụ sơ chế, chế biến, bảo quản, số lượng các hợp tác xã có khả năng liên kết hiệu quả với doanh nghiệp, chế biến và tiêu thụ nông sản cho thành viên hợp tác xã và nông dân cũng chưa nhiều, mới đạt 24% tổng số hợp tác xã.
Trước xu thế phát triển mới, có những thách thức và thời cơ; trong đó có vấn đề tiếp cận thị trường rộng mở trong nước và thế giới; biến đổi khí hậu; dịch bệnh đang là thách thức, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam cho rằng, vấn đề này đòi hỏi các hợp tác xã phải nâng cao năng lực nội sinh của mình để chủ động trong kinh tế thị trường và ứng phó với thiên tai, dịch bệnh.

Chú thích ảnh
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN

Theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, quan điểm phát triển của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong thời gian tới là lấy hợp tác xã và thành viên của hợp tác xã là trung tâm để hỗ trợ chính sách và huy động nguồn lực cộng đồng để hợp tác xã tổ chức lại sản xuất trong điều kiện mới.
Để hợp tác xã đủ sức hoạt động cần tạo cơ chế để họ phát huy nội lực, đó là nguồn nhân lực, tạo ra nguồn vốn từ nội lực, vốn liên doanh liên kết. Các hợp tác xã cần thu hút được nhiều thành viên và đảm bảo các dịch vụ cho thành viên thì mới hiệu quả, do đó cần tăng các dịch vụ lên trong thời gian tới.
“Hợp tác xã phải tổ chức mô hình đa dịch vụ, hợp tác xã không chỉ sản xuất nông nghiệp như trồng rau, chăn nuôi… mà hợp tác xã nông nghiệp phải cung ứng theo chuỗi giá trị – hợp tác xã làm dịch vụ là chính nên cần đa dịch vụ, đa mục tiêu thì mới đảm bảo thu nhập cho các thành viên. Đồng thời định hướng đa chức năng cho hợp tác xã trong kinh tế thị trường. Theo đó, hợp tác xã cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, kiến thức thị trường, quản trị hợp tác xã, ứng dụng khoa học công nghệ,” Thứ trưởng Trần Thanh Nam nhấn mạnh.

Bích Hồng (TTXVN)

Làm sao để hợp tác xã không bỏ lỡ ‘chuyến tàu’ chuyển đổi số

Bộ trưởng NN&PTNT: Săn đón ‘đại bàng’ nhưng phải ‘lót ổ’ cho hợp tác xã, tổ hợp tác

Thủ tướng: Chuyển nông nghiệp sản lượng cao sang nông nghiệp công nghệ cao, sinh thái

(Chinhphu.vn) – Kết luận buổi làm việc với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh quan điểm, định hướng phát triển ngành nông nghiệp là tập trung chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chuyển tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp, từ chuỗi liên kết cung ứng nông sản sang liên kết giá trị ngành hàng, chuyển từ nền nông nghiệp sản lượng cao sang nông nghiệp công nghệ cao, sinh thái…

Theo Thủ tướng, nông nghiệp – nông thôn – nông dân phải tiếp tục góp phần ổn định chính trị, xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp về tình hình thực hiện nhiệm vụ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các khó khăn, vướng mắc và nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới.

Thông báo kết luận nêu rõ: Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn luôn đóng vai trò hết sức quan trọng, góp phần ổn định xã hội, ổn định tình hình đất nước, đặc biệt là trong những lúc kinh tế khó khăn, nông nghiệp khẳng định vai trò bệ đỡ cho nền kinh tế. Đồng thời, nông nghiệp, nông thôn góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Giai đoạn 2016-2020 toàn bộ 15/15 chỉ tiêu tăng trưởng chủ yếu của ngành đều đạt và vượt mục tiêu đề ra, năm 2020 xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt trên 41,5 tỷ USD, xây dựng nông thôn mới đạt 62% về đích sớm trước 2 năm, thu nhập bình quân của người dân nông thôn đạt 43 triệu đồng/người, tăng 1,92 lần so với đầu nhiệm kỳ. Những thành quả đạt được đó của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn góp phần làm cho diện mạo, cảnh quan, môi trường nông thôn được cải thiện rõ rệt, đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn ngày càng được nâng cao.

Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng còn một số tồn tại, hạn chế, trong đó, nông nghiệp phát triển chưa ổn định, bền vững, phụ thuộc vào thiên tai, thời tiết, thị trường tiêu thụ, trong khi thị trường xuất khẩu ngày càng khó khăn; dự báo cung cầu, thị trường còn hạn chế, công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch chưa phát triển mạnh nên vẫn còn tình trạng được mùa mất giá, giải cứu nông sản; sản xuất chủ yếu vẫn là kinh tế hộ, manh mún, nhỏ lẻ; quan hệ sản xuất đổi mới còn chậm, các hình thức tổ chức và liên kết sản xuất hình thành chủ yếu là tự phát, hiệu quả chưa thực sự ổn định; kết nối liên vùng còn rời rạc, kết nối thị trường chưa thông suốt, chi phí logistics còn cao…

Thủ tướng thống nhất các mục tiêu chủ yếu đến năm 2025 được nêu tại báo cáo của Bộ: Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành 2,5-3,0%/năm; tổng kim ngạch xuất khẩu từ 48-50 tỷ USD; tỉ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới ít nhất 80%; thu nhập của cư dân nông thôn gấp 1,5 lần năm 2020; tỉ lệ che phủ rừng duy trì 42%, nâng cao chất lượng rừng. Đồng thời, cần sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng trên đất nông nghiệp và đẩy mạnh phát triển hợp tác xã nông nghiệp.

Quan điểm, định hướng phát triển ngành nông nghiệp

Thông báo nêu rõ quan điểm, định hướng phát triển ngành nông nghiệp: Ba trụ cột chính của ngành là nông nghiệp, nông thôn và nông dân, trong đó người nông dân phải là trung tâm, là chủ thể, nông thôn là nền tảng, là cơ sở và nông nghiệp là động lực. Hoạt động phát triển nông nghiệp phải xoay quanh người nông dân nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, chất lượng sống cho người nông dân; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước, xã hội và thị trường. Nông nghiệp-nông thôn-nông dân phải tiếp tục góp phần ổn định chính trị, xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tập trung chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chuyển tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp, từ chuỗi liên kết cung ứng nông sản sang liên kết giá trị ngành hàng, chuyển từ nền nông nghiệp sản lượng cao sang nông nghiệp công nghệ cao, sinh thái, trách nhiệm, bền vững, khởi tạo chuyển đổi số, chuyển từ phát triển đơn ngành sang tích hợp đa ngành, từ đơn giá trị sang tích hợp đa giá trị, từ hỗ trợ đầu vào sang vừa hỗ trợ đầu vào, vừa chú trọng hỗ trợ, kết nối đầu ra, quan tâm phát triển thị trường xuất khẩu đi đôi với chú trọng phát triển thị trường nội địa.

Phát huy tinh thần tự lực tự cường, chọn lọc kế thừa, nhưng phải đổi mới sáng tạo để phát triển, không trông chờ ỷ lại, phải chủ động tiến công, linh hoạt sáng tạo để biến không thành có, biến khó thành dễ, biến không thể thành có thể. Lấy nguồn lực bên trong là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá cho phát triển.

Tăng cường phân cấp, phân quyền, đi đôi với đẩy mạnh kiểm tra, giám sát. Bộ cần làm tốt công tác quản lý nhà nước, tập trung quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, cơ chế, chính sách, xây dựng các công cụ quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực hiện.

Tăng cường huy động nguồn lực cho đầu tư, phát triển ngành thông qua hợp tác công tư (nghiên cứu các mô hình lãnh đạo công, quản trị tư, đầu tư tư, sử dụng công và đầu tư công, quản lý tư) trên cơ sở bảo đảm cân bằng, hài hòa hợp lý lợi ích và chia sẻ rủi ro giữa nhà nước, người dân và doanh nghiệp. Tập trung nguồn lực cho ba đột phá chiến lược, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, làm đến đâu dứt điểm đến đó để mang lại hiệu quả.

Khai thác, sử dụng, quản lý đúng quy định nhưng thực hiện phải linh hoạt, hiệu quả đất nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp; chú trọng hiệu quả khai thác trên đất.

Thực hiện đồng bộ, hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo 3 nhóm trục sản phẩm chủ lực

Về nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới, Thủ tướng thống nhất với các nhiệm vụ được đề cập tại báo cáo của Bộ, yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động cần chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, phát huy thành tích, khắc phục hạn chế để ngành nông nghiệp tiếp tục phát triển nhanh và bền vững. Thời gian tới Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tập trung một số nhiệm vụ sau:

Xây dựng và tổ chức triển khai có hiệu quả Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII của ngành nông nghiệp và Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 2021-2025. Quán triệt, tổ chức triển khai các Nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các Nghị quyết số 01/NQ-CP và số 45/NQ-CP của Chính phủ.

Tập trung rà soát hoàn thiện thể chế, xây dựng cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, có giải pháp cụ thể tháo gỡ những nút thắt về chính sách tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp hàng hóa và xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh xã hội hóa, phân cấp mạnh mẽ đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát, nguyên tắc là việc gì doanh nghiệp, người dân làm được, làm tốt hơn thì để doanh nghiệp, người dân làm, việc gì địa phương làm được và làm tốt hơn thì để địa phương làm, Bộ tập trung quản lý vĩ mô, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế chính sách huy động nguồn lực, tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy trình chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát.

Thực hiện đồng bộ, hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo 3 nhóm trục sản phẩm chủ lực, theo các ngành, lĩnh vực và cơ cấu lại sản xuất theo vùng; đẩy mạnh thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) để góp phần xóa đói giảm nghèo, làm giàu và thúc đẩy sản xuất lớn trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế của vùng.

Tổ chức lại sản xuất, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả gắn với quá trình chuyển đổi số, kinh tế số, phát triển mạnh mẽ, hợp lý, phù hợp hệ thống hợp tác xã, gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp; tổng kết, sơ kết để xây dựng lý luận và thực tiễn về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, bám sát thực tiễn, nhu cầu thị trường, nhân rộng các mô hình hiệu quả cao, cách làm hay để góp phần điều chỉnh sản xuất phù hợp nhằm mang lại giá trị gia tăng và thu nhập cho người sản xuất.

Đẩy mạnh cơ giới hóa và ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp; phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, công nghiệp chế biến, bảo quản, tăng tỷ trọng chế biến sâu để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm; phát triển các cụm liên kết sản xuất gắn với vùng nguyên liệu, các hình thức hợp tác liên kết sản xuất, chế biến kết nối với hệ thống tiêu thụ trong nước và quốc tế.

Đổi mới công tác khuyến nông, làm tốt dự báo cung cầu, thông tin về tình hình thị trường, kết nối giữa người sản xuất với tiêu dùng, tranh thủ lợi thế từ các FTAs, nhất là EVFTA, CTPPP để cơ cấu lại thị trường xuất khẩu, giảm phụ thuộc vào một số thị trường, tháo gỡ rào cản để thâm nhập thị trường, coi trọng thị trường nội địa, đưa hàng hóa từ nông thôn về thành thị, xây dựng thương hiệu nông sản.

Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Đẩy mạnh nuôi biển và khai thác hải sản bền vững

Phát huy tiềm năng, lợi thế từ biển, phát triển kinh tế biển, đẩy mạnh nuôi biển và khai thác hải sản bền vững; quyết liệt thực hiện các biện pháp giải quyết dứt điểm các khuyến nghị của EC để gỡ “Thẻ vàng”, ngăn chặn và xử lý nghiêm tàu cá khai thác trái phép ở nước ngoài; nghiên cứu, đề xuất trích lập Quỹ phát triển hạ tầng thủy sản để huy động được nguồn lực đầu tư phát triển hạ tầng thủy sản.

Phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề ở nông thôn để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho nông dân, chuyển dịch lao động nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ để từng bước thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị; đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế để phát triển nông nghiệp, nông thôn, đồng thời chủ động đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích của quốc gia, bảo vệ hàng hóa nông sản Việt Nam.

Hoàn thiện thủ tục, trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư và triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, gắn với phát triển kinh tế nông thôn, tạo điều kiện nâng cao đời sống, thu nhập của người dân, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá của từng vùng miền, gắn với đô thị hóa, tránh làm theo phong trào, hình thức, lãng phí; xác định rõ mục tiêu, đối tượng, phạm vi, nội dung của Chương trình, tránh chồng chéo, trùng lắp với các Chương trình, đề án khác, tập trung ưu tiên hỗ trợ các xã, huyện chưa đạt chuẩn nông thôn mới.

Tăng cường quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, nhất là rừng tự nhiên, rừng phòng hộ; khẩn trương rà soát kiểm kê rừng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc, tạo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội phù hợp.

Theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, thiên tai, chủ động chỉ đạo sản xuất và triển khai ứng phó thiên tai kịp thời, hiệu quả, không để bị động, bất ngờ, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra; chủ trì, cùng Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo, triển khai thực hiện Dự án di dời dân cư tại các khu vực có nguy cơ sạt lở đất, lũ ống, lũ quét để bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản cho người dân.

Làm tốt công tác xây dựng Đảng, công tác tổ chức, cán bộ, thực hiện nghiêm các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh (Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII), gắn với việc thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với trách nhiệm nêu gương, kiểm soát quyền lực; xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, số 19-NQ/TW của Trung ương, xóa bỏ tư duy bao cấp đối với các đơn vị sự nghiệp, nghiên cứu chuyển đổi thành trung tâm cung ứng dịch vụ, tổ chức lại để có sự kết nối, không manh mún, chồng chéo; xây dựng đội ngũ cán bộ theo tinh thần Nghị quyết 26-NQ/TW; đặc biệt chú ý xây dựng người đứng đầu phải tiêu biểu, xứng đáng về đạo đức, năng lực, phẩm chất và uy tín.

Làm tốt công tác thi đua, khen thưởng, đi đôi với siết chặt kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm các sai phạm; kịp thời động viên, khen thưởng những tấm gương tốt, những người làm việc hiệu quả, bảo vệ người dám nghĩ, dám làm, dám nói vì sự nghiệp chung, tạo môi trường khuyến khích đổi mới sáng tạo.

Chí Kiên

Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phát hành sách Điều lệ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam khóa VI nhiệm kỳ 2020 – 2025

Thực hiện Kế hoạch số 576/KH-LMHTXVN ngày 25/8 về Kế hoạch Tổ chức thực hiện Điều lệ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, trong tháng 10/2021, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã in và phát hành sách Điều lệ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam khóa VI nhiệm kỳ 2020 – 2025. Điều lệ được in với nội dung song ngữ: tiếng Việt – tiếng Anh.

Sách Điều lệ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam khóa VI nhiệm kỳ 2020 – 2025

Điều lệ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam thông qua, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1328/QĐ-TTg ngày 23/7/2021, thay thế Điều lệ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 105/QĐ-TTg ngày 24/01/2017 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký 23/7/2021.

Điều lệ Liên minh HTX Việt Nam gồm phần mở đầu, 08 chương, 29 điều; tăng 02 điều so với Điều lệ cũ; trong đó, chuyển 01 chương về Ủy ban Kiểm tra thành một điều; bổ sung 01 chương về Liên minh HTX cấp tỉnh. Cụ thể: Chương I: Quy định chung (05 điều); Chương II: Chức năng, nhiệm vụ (02 điều); Chương III: Thành viên (05 điều); Chương IV: Tổ chức hoạt động (09 điều); Chương V: Liên minh HTX cấp tỉnh (02 điều); Chương VI: Tài sản, tài chính (02 điều); Chương VII: Khen thưởng, kỷ luật (02 điều); Chương VIII: Điều khoản thi hành (02 điều).

Cuốn sách được in song ngữ: Tiếng Việt và Tiếng Anh

Nội dung cuốn sách Điều lệ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam khóa VI nhiệm kỳ 2020 – 2025 gồm có Quyết định số 1328/QĐ-TTg ngày 23/7/2021 về Phê duyệt Điều lệ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam của Thủ tướng Chính phủ và toàn bộ 8 chương 29 điều có trong Điều lệ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam được in song song 2 ngôn ngữ: Tiếng Việt và Tiếng Anh.

Lê Huy

‘Cầu nối’ cho trái cây của hợp tác xã đi Tây

Một trái thanh long bán ở thị trường Pakistan giá gần 120.000 đồng, quả vải tươi được bày trên kệ siêu thị ở Nhật với giá 500.000 đồng/kg. Thấy được tiềm năng trái cây Việt Nam và không để sản phẩm trái cây của hợp tác xã chỉ phân phối ở “sân nhà”, Liên minh HTX Việt Nam đang tìm cách “mai mối”, đưa trái cây của hợp tác xã ra nước ngoài tìm thị trường xuất khẩu. 

Ngày 8/10, Liên minh HTX Việt Nam tổ chức Hội nghị “Kết nối tiêu thụ, xúc tiến xuất khẩu trái cây của HTX với thị trường nước ngoài tiềm năng”. Hội nghị diễn ra dưới hình thức trực tuyến, với sự tham dự của 300 đại biểu là tham tán thương mại các nước, hơn 200 HTX sản xuất trái cây trong nước và 40 doanh nghiệp xuất nhập khẩu trái cây trong và ngoài nước.

Tiềm năng lớn

Ông Nguyễn Ngọc Bảo- Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nhận định, Hội nghị sẽ là cầu nối cho các hợp tác xã sản xuất trái cây và các sản phẩm từ trái cây có cơ hội được mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nắm bắt được thông tin chính xác và nhanh nhất về các thị trường xuất khẩu tiềm năng, gặp gỡ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trái cây trong và ngoài nước, vừa duy trì các thị trường xuất khẩu truyền thống như Trung quốc, Nhật Bản, châu Âu, vừa đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường mới như Tây Á, Nam Á… Qua đó, có định hướng cho các hợp tác xã từ khâu sản xuất nhằm đảm bảo quy cách về sản lượng và chất lượng sản phẩm.

Chia sẻ tại Hội nghị, ông Nguyễn Mạnh Cường, Phó Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam, cho biết tổng sản lượng trái cây của Việt Nam hiện nay đạt khoảng 12,6 triệu tấn/năm, được xuất khẩu đến 60 quốc gia, chiếm gần 1% tổng trị giá nhập khẩu mặt hàng này trên thế giới. Cục Bảo vệ thực vật – Bộ NN&PTNT đã cấp được 998 mã số vùng trồng các loại trái cây để xuất khẩu vào các thị trường chất lượng cao như Mỹ, Australia, Nhật Bản, EU…

Dự báo nhu cầu thị trường toàn cầu cho trái cây tăng 8,2% mỗi năm từ 2019 đến năm 2025 và đạt tới 585,25 tỷ USD vào năm 2025. Điều này cho thấy, cơ hội đang rộng mở để đưa trái cây Việt Nam ra với thị trường thế giới. Thông qua kết quả của hội nghị sẽ góp phần giúp các HTX sản xuất trái cây Việt Nam tiếp cận và dần đưa cơ hội thành hiện thực.

Đặc biệt, nhận thức được tầm quan trọng trong quản lý chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm, các HTX đã kết hợp hiệu quả giữa kinh nghiệm sản xuất và ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ để tạo ra các sản phẩm đa dạng (trái cây được cấp đông, nước trái cây tươi, đóng hộp, cô đặc…), đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng như: HACCP, Halal… Nhiều sản phẩm của HTX như vải, nhãn, thanh long, chôm chôm, dứa, dưa, xoài… có tiềm năng xuất khẩu lớn, rất cần tiếp cận thị trường tiêu thụ quốc tế.

Đơn cử, HTX Tiên Châu Phố Hiến (Hưng Yên) đang có 25 ha nhãn sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, sản lượng đạt khoảng 400-500 tấn/năm. Hiện, ngoài bán nhãn tươi, HTX còn đẩy mạnh chế biến để mở rộng đầu ra. Dù ảnh hưởng bởi dịch bệnh, HTX đã đẩy mạnh bán nhãn qua các sàn thương mại. Sản phẩm không chỉ bán trong nước mà còn xuất khẩu sang Trung Quốc, Nhật Bản…

DSC06068-9589-1633692018.jpg

Liên minh HTX Việt Nam cho biết, nhiều HTX trồng trái cây đã đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của các thị trường lớn trên thế giới.

Hay như HTX trái cây sinh học (Hậu Giang) đang sản xuất và bao tiêu 200ha các loại trái cây như chanh không hạt, bưởi, cam, dưa hấu, khóm… Trong đó, riêng chanh không hạt là 150ha, bình quân mỗi ngày HTX thu mua trái cây của nông dân từ 10 tấn trở lên, mỗi tháng từ 300 tấn, mỗi tháng HTX xuất khẩu ra thị trường nước ngoài được 176 tấn. Sắp tới, HTX sẽ mở rộng diện tích bao tiêu chanh không hạt, bưởi da xanh, bưởi năm roi của người dân trên địa bàn tỉnh Hậu Giang.

Một trong những thị trường lớn xuất khẩu trái cây của Việt Nam thời gian qua là Liên Bang Nga. Năm 2020, thị trường này đã nhập khẩu hạt điều của Việt Nam với tổng trị giá 80,3 triệu USD, chuối 1,12 tỷ USD, xoài, ổi, măng cụt tươi (chủ yếu là xoài) 73,6 triệu USD. Ngoài ra là xoài, ổi, măng cụt sấy (chủ yếu là xoài) 9,9 triệu USD, bưởi sấy 76,2 triệu USD, chanh sấy 228 triệu USD…

Ngoài Nga, Mỹ cũng là thị trường tiềm năng cho xuất khẩu rau quả của Việt Nam. Năm 2020, kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Mỹ đạt 168 triệu USD. Chỉ tính riêng 7 tháng đầu năm 2021, dù chịu tác động nặng nề của dịch Covid-19 nhưng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Mỹ vẫn đạt 134,306 triệu USD, tăng hơn cùng kỳ năm ngoái 49% (chỉ 89,947 triệu USD). Theo thương vụ Việt Nam tại Mỹ, năm 2020 nước này nhập khẩu tới 14,1 tỷ USD trái cây. Ước tính của Bộ Nông nghiệp Mỹ, đến hết năm 2021, giá trị nhập khẩu trái cây vào Mỹ có thể lên tới 15,1 tỷ USD, tương đương với Trung Quốc.

Nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu thị trường

Ông Nguyễn Phú Hòa, Phó Tổng lãnh sự quán tại Sydney, Trưởng cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Australia, cho biết chất lượng trái cây của Việt Nam được đánh giá cao trong những năm gần đây. Sầu riêng ri6 của Việt Nam có chất lượng tốt nên được Úc thu mua với giá cao hơn so với các loại khác. Hay sản phẩm quả sấu, lá dong… hiện cũng được tiêu thụ tốt tại Úc.

Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy hiện nay là việc xuất khẩu trái cây của Việt Nam sang các nước vẫn còn nhiều khó khăn. Ông Huỳnh Bài, Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Đắk Lắk cho biết, các HTX ở Đắk Lắk đang đẩy mạnh xuất khẩu bơ và sầu riêng nhưng hiện nay, chất lượng sản phẩm của một số HTX mới chỉ dừng ở tiêu chuẩn VietGAP nên khó đáp ứng được yêu cầu của một số thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, EU. Việc xuất khẩu cũng chủ yếu thực hiện qua đường tiểu ngạch và thông qua thương lái nên giá cả và tiêu thụ bị phụ thuộc vào thị trường.

Bên cạnh đó, kể từ khi Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á –  Âu mà Nga là thành viên chủ chốt có hiệu lực từ tháng 10/2016, kim ngạch xuất khẩu trái cây và các sản phẩm trái cây của Việt Nam sang Nga dù tăng nhanh, nhưng vẫn còn chiếm thị phần khiêm tốn.

Ông Dương Hoàng Minh, Tham tán thương mại Việt Nam tại Nga, cho biết nguyên nhân chủ yếu khiến trái cây Việt Nam chưa cạnh tranh cao trên thị trường nước ngoài là do chất lượng, kích cỡ trái cây chưa đồng đều, khó có thể thu mua được với khối lượng lớn. Công nghệ bảo quản sau thu hái chưa đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất lượng để xuất khẩu, tiêu thụ tại thị trường thế giới.

Bên cạnh đó, chi phí vận tải cao, mặt hàng chưa đa dạng, 90% nông sản xuất khẩu ở dạng tươi, sấy, còn sản phẩm dạng nước chưa có nhiều nên chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng ở nhiều nước trên thế giới.

Bà Trà My, đại diện cho Hiệp hội Doanh nghiệp Việt Nam tại Trung Quốc cho biết, hiện nay tại các siêu thị ở Trung Quốc, trái cây của Thái Lan xuất hiện nhiều hơn so với trái cây Việt Nam. Nguyên nhân là do việc xuất khẩu sản phẩm chủ yếu qua đường tiểu ngạch, Trung Quốc thu mua về chủ yếu để chế biến rồi xuất ngược lại sang Việt Nam nên giá trị sản phẩm chưa cao. Bên cạnh đó, do quá trình thu mua, vận chuyển chưa bảo đảm yêu cầu nên chất lượng trái cây khi xuất khẩu sang thị trường này chưa đáp ứng được yêu cầu.

“Biết người, biết ta”

Ông Lý Minh Phương, Giám đốc HTX Chuối Thanh Bình (Đồng Nai), cho biết chuối của HTX được sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ và đã xuất khẩu sang Hàn Quốc, Nhật Bản, Anh, Hà Lan. Dù dịch bệnh đang diễn ra nhưng HTX vẫn muốn đẩy mạnh xuất khẩu chuối sang Nga. Vì sau quá trình nghiên cứu, HTX nhận thấy đây là một thị trường tiềm năng, có nhu cầu nhập khẩu chuối lớn.

DSC06107-2723-1633692018.jpg

Có nhiều doanh nghiệp nước ngoài quan tâm và đã kết nối với các HTX ở Việt Nam để thu mua và xuất khẩu trái cây thành công.

Nhu cầu của HTX Thanh Bình cùng là mong muốn của nhiều HTX hiện nay nhằm mở rộng đầu ra cho nông sản. Để tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng mặt hàng trái cây Việt Nam sang các thị trường tiềm năng, theo các chuyên gia, còn rất nhiều việc mà các HTX, doanh nghiệp ở Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện.

Điều đầu tiên là về thị trường, các HTX cần chủ động khảo sát thị trường, tham quan/tham gia các triển lãm chuyên ngành thực phẩm tại các nước để nắm tình hình thị trường, xu hướng tiêu thụ trái cây và sản phẩm trái cây của người dân bản địa. Qua đó có thể tìm kiếm khách hàng tiềm năng cho sản phẩm của doanh nghiệp, HTX.

Thực tế cho thấy, phần lớn doanh nghiệp, HTX đã thành công trong thâm nhập một số thị trường tiềm năng như Nga, Anh, EU, Pakistan, Trung Quốc.. Tuy nhiên, để gia tăng kim ngạch xuất khẩu và cạnh tranh sòng phẳng cần làm tốt hơn nữa công tác thăm dò, khảo sát thị trường.

“Mặc dù là một kênh xúc tiến tiêu thụ nông sản rất tốt nhưng chúng tôi chưa thấy có HTX, doanh nghiệp xuất khẩu trái cây nào sang Nga dự triển lãm”, ông Dương Hoàng Minh, Tham tán thương mại Việt Nam tại Nga cho biết.

Ngoài thị trường, một vấn đề nữa mà các HTX cần quan tâm là nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng các tiêu chuẩn cũng như tâm lý, nhu cầu sử dụng phù hợp ở từng thị trường. Bà Võ Thị Ngọc Diệp, Tham tán thương mại Việt Nam tại Hà Lan cho biết, người Hà Lan tiêu dùng rất tiết kiệm và đang chú trọng các sản phẩm tiện lợi như nước ép, hoa quả cắt lát nên muốn xuất khẩu, các sản phẩm phải đáp ứng các tiêu chuẩn “ngon, bổ, rẻ” nhưng phải bảo đảm chất lượng vệ sinh thực phẩm, không có dư lượng thuốc bảo vệ thực phẩm.

Để làm được điều này, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích để các HTX mở rộng quy mô sản xuất, đảm bảo trái cây có kích cỡ, màu sắc tương đồng, chất lượng đồng đều. HTX cũng cần đầu tư vào khâu kỹ thuật đóng gói, công nghệ bảo quản sau thu hoạch từ thu hái, bảo quản, vận chuyển, tiêu thụ để đảm bảo chất lượng trong cả chuỗi cung ứng, để trái cây Việt có thể giữ được chất lượng lâu hơn so với hiện nay.

Chia sẻ về vấn đề này, ông Dương Hoàng Minh, Tham tán thương mại Việt Nam tại Nga chia sẻ kinh nghiệm của Peru – nước xuất khẩu lớn nhất một số các loại trái cây tươi vào Nga như xoài, bơ, chanh leo. Thời gian vận chuyển từ Peru sang Nga lâu hơn từ Việt Nam sang Nga khoảng 5-7 ngày, nhưng chất lượng trái cây của Peru được giữ rất tốt, đảm bảo cho việc tiêu thụ tại thị trường. Nguyên nhân chính là vì nước này chú trọng vào công tác hậu thu hoạch, việc vận chuyển lạnh được đầu tư hết sức chuyên nghiệp. Điều này giúp hạn chế thiệt hại sau thu hoạch và đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe của Nga.

“Các HTX cần đầu tư máy móc, tiếp tục mở rộng các mặt hàng đặc biệt là các sản phẩm sấy, nước quả với chất lượng, mẫu mã đẹp, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng Nga”, ông Minh nói.

Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nói rằng, qua hội nghị, có thể thấy nhu cầu kết nối tiêu thụ nông sản để xuất khẩu của các HTX rất lớn. Để làm được điều này, các HTX sẽ đẩy mạnh kết nối trên các cổng thông tin vcamart.com (sắp ra mắt) để kết nối đầu ra cho các HTX. Liên minh HTX Việt Nam cũng sẽ đẩy mạnh hỗ trợ các HTX kết nối với các doanh nghiệp và các sàn thương mại điện tử, đặc biệt là sàn Alibaba.

“Đây là một trong những kênh tiêu thụ, xuất khẩu hiện đại, phù hợp với nhu cầu hiện nay”, Chủ tịch Nguyễn Ngọc Bảo nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, để việc xuất khẩu được thuận lợi hơn, Liên minh HTX Việt Nam sẽ nhanh chóng thành lập các Liên hiệp HTX trái cây nhằm tạo thuận lợi trong việc kết nối tiêu thụ và mở rộng chế biến sâu, từ đó đáp ứng nhu cầu của các thị trường trên thế giới. Bên cạnh đó, Liên minh HTX Việt Nam cũng sẽ kết hợp với cơ quan Tham tán thương mại Việt Nam tại các nước, Bộ Công Thương… để tiếp cận thị trường, hoàn thiện các thủ tục pháp lý để hỗ trợ HTX tiêu thụ, xuất khẩu trái cây một cách thuận lợi.

Huyền Trang

Ông Đỗ Thanh Hiệp, Giám đốc HTX thanh long Hòa Lệ (Bình Thuận): Thanh long là một trong những đặc sản ở Bình Thuận, ngoài sản xuất theo tiêu chuẩn GlobalGAP, HTX còn đẩy mạnh chế biến thanh long thành các sản phẩm như: rượu, kem, thanh long sấy, tinh dầu… Mong muốn của HTX là được liên kết với các doanh nghiệp ở trong và ngoài nước để đẩy mạnh xuất khẩu trái thanh long và các sản phẩm chế biến từ thanh long.

Ông Nguyễn Đức Hiền, Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Bắc Giang: Mặc dù chịu ảnh hưởng từ những diễn biến bất lợi do dịch Covid-19, song nhờ sự hỗ trợ của Liên minh HTX Việt Nam, năm 2021, vải thiều Bắc Giang được đánh giá có chất lượng tốt nhất và có sản lượng lớn nhất trong những năm gần đây. Tổng sản lượng tiêu thụ đạt 215.852 tấn, tăng trên 50.850 tấn so với năm 2020), giá bán luôn được duy trì ổn định, bình quân đạt 19.800 đồng/kg.

Ông Đặng Nguyên Phúc, Tổng thư ký Hiệp hội rau quả Việt Nam: Hệ thống phân phối trái cây tại Mỹ rất phát triển, đa dạng, nhiều kênh và hiện đại. Với đặc điểm của người Mỹ là ưa  sản phẩm “dùng ngay” hoặc sản phẩm “đa năng” nên ngoài tuân thủ tuyệt đối các nguyên tắc sản xuất và Kiểm dịch thực vật, các HTX cần chú trọng đầu tư nhà máy chế biến hoặc liên kết với doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu của thị trường Mỹ.

 

Nguồn: ‘Cầu nối’ cho trái cây của hợp tác xã đi Tây (vnbusiness.vn)

Phải đáp ứng được chính sách nhập khẩu trái cây rất khắt khe

“Để các HTX sản xuất trái cây tiếp cận trực tiếp với thị trường thế giới, Liên minh HTX Việt Nam tổ chức Hội nghị trực tuyến kết nối tiêu thụ, xúc tiến xuất khẩu trái cây của các HTX với các thị trường xuất khẩu tiềm năng năm 2021; kết nối đồng thời với nhiều thị trường trong nước và nước ngoài. Hội nghị sẽ là cầu nối cho các HTX sản xuất trái cây và các sản phẩm từ trái cây có cơ hội được mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nắm bắt được thông tin chính xác và nhanh nhất về các thị trường xuất khẩu tiềm năng, gặp gỡ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trái cây trong và ngoài nước, vừa duy trì các thị trường xuất khẩu truyền thống như Trung quốc, Nhật bản, châu Âu, vừa đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường mới như Tây Á, Nam Á, để từ đó có định hướng cho các HTX từ khâu sản xuất nhằm đảm bảo quy cách về sản lượng và chất lượng sản phẩm’ – Ông Nguyễn Ngọc Bảo chia sẻ tại Hội nghị “Kết nối tiêu thụ, xúc tiến xuất khẩu trái cây của hợp tác xã với các thị trường nước ngoài tiềm năng” vào ngày 8/10.

Lê Huy – Quỳnh Trang

Nền Nông nghiệp cần phát triển tích hợp “Đa Giá Trị”

LTS: Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan có bài phát biểu quan trọng tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII diễn ra từ 4-7/10/2021. Báo Nông nghiệp Việt Nam trân trọng giới thiệu tới độc giả. Tựa trong bài do tòa soạn đặt.

Bối cảnh vô cùng khó khăn do đại dịch Covid-19 khiến kinh tế đất nước rơi vào giai đoạn khủng hoảng nhất trong nhiều năm, dù đã được dự báo phần nào từ những diễn biến phức tạp, khó lường của dịch bệnh toàn cầu. Có thể nhận định rằng, ngay từ năm đầu tiên của nhiệm kỳ mới, khó khăn nhiều hơn thuận lợi, thách thức nhiều hơn cơ hội, tác động sâu rộng không chỉ trong ngắn hạn, mà kéo dài qua trung hạn, thậm chí đến dài hạn.

Song, luôn còn đấy tín hiệu lạc quan, tích cực đến từ điểm tựa niềm tin của doanh nghiệp và người dân về sự phục hồi kinh tế sau đại dịch trong điều kiện bình thường mới: “kinh tế vĩ mô vẫn ổn định, lạm phát ở mức thấp, các cân đối lớn được bảo đảm”. Mục tiêu kép, dù không dễ thực hiện, không dễ cân bằng các giải pháp, nhưng không còn sự lựa chọn nào khác. Với sự chỉ đạo sát sao của Đảng, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, sự đồng hành của Quốc hội, sự chia sẻ, thấu hiểu từ cộng đồng doanh nghiệp và người dân, dịch bệnh dần được kiểm soát, sản xuất, kinh doanh từng bước khôi phục, đời sống xã hội bắt nhịp bình thường mới.

Trước nhiều thách thức, ngành Nông nghiệp tiếp tục là “trụ đỡ” của nền kinh tế. Luỹ kế 9 tháng đầu năm 2021, tốc độ tăng trưởng đạt 2,74%. Riêng trong quý ba, mặc dù dịch bệnh diễn ra trên diện rộng ở 19 tỉnh, thành phía Nam, giá trị gia tăng của ngành vẫn tăng 1,04%, so với quý ba năm 2020. Lương thực, thực phẩm vẫn đảm bảo nguồn cung và góp phần vào an sinh xã hội ở các đô thị lớn trong điều kiện giãn cách xã hội. Kim ngạch xuất khẩu nông – lâm – thuỷ sản đạt trên 35,5 tỷ đô la Mỹ, tăng 17,7% so với cùng kỳ, và dự báo có thể đạt và vượt mục tiêu cả năm. Khi các đô thị lớn thực hiện giãn cách xã hội, nhiều lực lượng lao động cùng lúc trở về quê, nhất thời tạo ra áp lực dịch chuyển, bảo đảm san sinh lớn, nhưng đồng thời, cũng cho thấy vai trò hậu phương quan trọng của nông thôn.

Tuy nhiên, cũng như các ngành, lĩnh vực khác, ngành Nông nghiệp cũng đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn, khó tránh khỏi, từ các vấn đề nội tại lẫn các yếu tố khách quan: biến đổi khí hậu, biến động thị trường và biến chuyển xu thế tiêu dùng của thế giới. Giá vật tư, nguyên liệu đầu vào, chi phí logistics tăng mạnh, khiến lợi nhuận của nông dân và doanh nghiệp không tương xứng với giá trị tăng trưởng của ngành.

Thực tế cho thấy, nền nông nghiệp vẫn phụ thuộc nhiều vào nước ngoài, tính tự chủ chưa cao, năng lực, trình độ của doanh nghiệp trong nước, hợp tác xã nông nghiệp chưa theo kịp ưu thế, tìm lực của các nhà đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài.

Việc đứt gãy chuỗi cung ứng khiến giá cả sụt giảm do đầu cầu bị thu hẹp. Trước những quy định mới của các thị trường nhập khẩu, nông sản trong nước cần thời gian để điều chỉnh, thích ứng. Thị trường rộng mở, nhờ các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới, nhưng vẫn còn đấy những rào cản kỹ thuật lẫn phi kỹ thuật.

Để ngành Nông nghiệp tiếp tục đảm trách vai trò trụ đỡ bền vững, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030 đang được dự thảo và lấy ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước và sẽ trình trong cuối quý tư năm 2021. Chiến lược này sẽ hiện thực hoá các quan điểm chỉ đạo và định hướng của Đại hội XIII của Đảng. Đó là, Chiến lược nhấn mạnh đến đổi mới mô hình tăng trưởng trong nông nghiệp dựa trên động lực “Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”. Đó là, Chiến lược hướng đến mục tiêu cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới. Đó là, Chiến lược xoay quanh ba trụ cột: “Nông nghiệp sinh thái”, “Nông thôn hiện đại”, “Nông dân thông minh”.

Chiến lược cũng tiếp tục đưa ba đột phá chiến lược từ Nghị quyết Đại hội XII và được bổ sung trong Nghị quyết Đại hội XIII về: (1) Thể chế: Tập trung “Tháo gỡ thể chế – Khơi thông nguồn lực” như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Tăng cường hợp tác công tư trong tổng thể phát triển gắn kết, hài hoà “Nhà nước – Thị trường – Xã hội”(2) Nguồn nhân lực trong nông nghiệp, trong đó có lực lượng nông dân, hướng đến nông dân thông minh, chuyên nghiệp, được huấn luyện nghề nông và cả ngành nghề phi nông nghiệp; (3) Hạ tầng: Phát triển hệ thống hạ tầng phục vụ chuyển đổi nông nghiệp, kinh tế nông thôn, vừa hạn chế đứt gãy chuỗi cung ứng, vừa hạn chế tình trạng tổn thất sau thu hoạch.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư dựa trên trí tuệ nhân tạo, kết nối vạn vật và dữ liệu lớn, chứng kiến người máy, dây chuyền tự động hoá thay thế con người làm trong rất nhiều lĩnh vực. Khi ấy, đã có nhiều dự báo về sự thay đổi ngành nghề trong tương lai, nghề nào sẽ biến mất, nghề nào tồn tại, nghề nào mới ra đời.

Trong đại dịch Covid-19, theo một luận điểm thì: “Khi mọi người tranh luận xem ngành nào là thiết yếu và không thiết yếu, thì có một điều không cần phải tranh cải: Nông nghiệp. Bởi lẽ, Nông nghiệp đạt đủ các chuẩn mực của một ngành thiết yếu. Không có thức ăn chúng ta không có gì cả”.

“Tình trạng thiếu hụt lương thực, thực phẩm, nhất là sản phẩm tươi sống khuyến khích nhiều người quan tâm tham gia vào nghề nông, vào lĩnh vực nông nghiệp”. Bên cạnh những khó khăn gây ra tình trạng đứt gãy tạm thời chuỗi cung ứng nông sản do ảnh hưởng của dịch bệnh mở ra cơ hội cho việc cân nhắc, xem xét cơ chế hợp tác công – tư trong đầu tư, quản lý, vận hành, khai thác hạ tầng phục vụ nông nghiệp như: hạ tầng logistics, trung tâm phân loại, bảo quản nông sản, cảng cá, sàn giao dịch nông sản,…

Sự tham gia, phối hợp giữa nhà nước và tư nhân có thể giúp tối ưu hoá nguồn lực, hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ khó khăn, nâng cao năng lực thích ứng linh hoạt trong các điều kiện, tình huống khác nhau. Cùng với đó, có thể từng bước thực hiện thí điểm mô hình cụm liên kết ngành hàng nông sản, để không chia tách nông nghiệp, công nghiệp và du lịch thành 3 lĩnh vực riêng lẻ, mà tạo thành các mảnh ghép chặt chẽ, hài hoà trên từng không gian sản xuất, không gian sinh hoạt cộng đồng dân cư nông thôn.

Tín hiệu đáng mừng là các đối tác quốc tế bày tỏ sự sẵn lòng đồng hành với ngành nông nghiệp trong việc nâng cao năng lực quản trị, dịch vụ, hạ tầng, các khâu hậu cần, logistics ở cấp độ nhỏ tại các hợp tác xã, liên hợp tác xã, như Vương quốc Bỉ đang hỗ trợ những kho bảo quản, sơ chế… tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tại buổi làm việc gần đây với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Đại sứ, Trưởng Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam, cũng bày tỏ thiện ý sẵn sàng cung cấp những hỗ trợ kĩ thuật, như chuỗi kho bảo quản lạnh cho nông sản Việt Nam để hướng đến thị trường châu Âu đang rộng mở nhờ Hiệp định EVFTA.

Đây cũng là tiền đề khuyến khích liên kết vùng, mở ra không gian kinh tế vùng, với sự tham gia tích cực và vai trò năng động của cộng đồng doanh nghiệp. Các địa phương tương đồng về điều kiện, đặc điểm, ngành hàng có thể liên kết liên địa giới hành chính, trong không gian kết nối kinh tế mở như một thực thể kinh tế hoàn chỉnh thay vì bó hẹp trong không gian hành chính từng địa phương. Không gian phát triển càng lớn quy mô kinh tế càng lớn và khi ấy chúng ta sẽ nghĩ lớn hơn và hành động mạnh mẽ hơn. Cùng với vai trò kiến tạo nền tảng, không gian phát triển của chính quyền các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp đảm trách vai trò đề xuất, đóng góp chính sách, tư vấn kinh tế, kết nối thị trường, dẫn dắt xu hướng phát triển, lan toả sự thay đổi, giá trị tích cực đến người dân và cộng đồng.

Nhiều dự báo, sau đại dịch, sẽ xuất hiện việc “Gia tăng sự quan tâm dành cho an ninh lương thực, an ninh dinh dưỡng”. Đây là cơ hội cho một quốc gia có tiềm năng phát triển nông nghiệp như Việt Nam. Nghị quyết Đại hội XIII xác định tầm nhìn: “đến năm 2025, Việt Nam là nước đang phát triển có nền công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 là nước đang phát triển có nền công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.

Với tầm nhìn như vậy, chúng ta cần tiếp cận khái niệm an ninh lương thực theo hướng “An ninh lương thực, thực phẩm và cân bằng dinh dưỡng”. Đây là vấn đề đã được Bộ Chính trị khẳng định trong Kết luận 81-KL/TƯ, phù hợp với quá trình chuyển đổi cây trồng vật nuôi thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan và giữ gìn hệ sinh thái bền vững. Trong đó, cần bảo đảm khả năng và quyền tiếp cận của người dân đối với lương thực, thực phẩm an toàn, chất lượng, bảo đảm dinh dưỡng.

Gợi mở từ “Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050” vừa được Chính phủ ban hành, ngành Nông nghiệp xác định yêu cầu chuyển đổi từ “tư duy sản xuất” sang “tư duy kinh tế”, hướng tới những “giá trị xanh” được tạo nên từ “chuyển đổi xanh, tiêu dùng xanh, kinh tế xanh”. Song song với mục tiêu duy trì, cải thiện năng suất, sản lượng, nền nông nghiệp cần phát triển tích hợp “đa giá trị”.

Tích hợp đa giá trị là tạo ra giá trị gia tăng tối ưu trên một đơn vị diện tích canh tác, trong điều kiện đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp diện tích và chịu tác động từ biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh. Tích hợp đa giá trị là tạo ra giá trị tăng thêm dựa trên khai thác hiệu quả các nguồn lực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, thay cho thực trạng ngành nông nghiệp tăng trưởng dựa trên thâm dụng lao động, thâm dụng tài nguyên thiên nhiên. Tích hợp đa giá trị là kết tinh tài nguyên bản địa, với các kỹ thuật, công nghệ chế biến tiên tiến, và cả những bản sắc văn hoá – xã hội, tạo thành thương hiệu cho sản phẩm nông nghiệp, nông thôn. Tích hợp đa giá trị là kết nối hài hoà nông nghiệp truyền thống với các mô hình nông nghiệp hữu cơ, thông minh, tuần hoàn,…

Với cách thức tiếp cận “đa giá trị”, các công trình hạ tầng, các đề án, kế hoạch phục vụ, hỗ trợ phát triển nông nghiệp, hay mở rộng ra đến tất cả các vấn đề của ngành nông nghiệp, đều có thể được quan sát, nhìn nhận trong tổng thể của sự kết nối, của tính đa công dụng, đa chức năng, đa mục tiêu.

Ví dụ như ở ngành lâm nghiệp, một khu rừng không chỉ có giá trị từ ngành khai thác, chế biến gỗ, mà còn được xem là một nguồn lực thiên nhiên, với tính “đa dụng” của nó. Cùng với giá trị từ cây gỗ thô, rừng còn là không gian bảo tồn các động vật hoang dã, những loài thảo mộc tự nhiên, dược liệu có giá trị dinh dưỡng cao, là nơi trải nghiệm cảnh quang thiên nhiên, là nơi gìn giữ tính đa dạng sinh học, hấp thụ khí carbon, giúp cân bằng hệ sinh thái.

Những giá trị gần như vô hình đó tạo ra không gian sống hài hoà, thân thiện giữa con người với thiên nhiên. Phải chăng đấy mới chính là ý nghĩa của khái niệm “rừng vàng” được gửi gắm với nhiều hàm nghĩa sâu sắc?

Quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong nông nghiệp còn đặt ra yêu cầu nhất định về khả năng tiếp cận, trình độ ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Khoa học, kỹ thuật có ý nghĩa quan trọng trong nông nghiệp, nhưng chưa phải tất cả. Khi chưa thể ứng dụng được ngay những thành tựu tiên tiến nhất, chúng ta vẫn có thể nhìn nhận những điều đang có theo một cách nhìn mới, góc độ mới. Người đi sau luôn có lợi thế của người đi sau. Đó là rút ra những bài học để tận dụng thời gian, thu gần khoảng cách. Đó là tận dụng tối đa nguồn lực hiện hữu, để mang đến những giá trị mới cho những điều vốn tưởng chừng không có nhiều giá trị – những điều sẵn có trong tự nhiên, gần gũi với sinh hoạt ngày thường, thân thiện với môi trường. Từ đấy, những phụ phẩm nông nghiệp không còn bị lãng phí, mà được làm mới giá trị, trở thành một sản phẩm hiện diện trong vòng kinh tế nông nghiệp tuần hoàn.

Một trong những nguồn lực quan trọng đóng góp vào quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong nông nghiệp nằm ở các mô hình kinh tế hợp tác, các hợp tác xã nông nghiệp. Nhiều nền nông nghiệp phát triển là đều quan tâm, đầu tư vào hợp tác xã nông nghiệp. Có ý kiến khẳng định rằng: “Hợp tác xã, hợp tác xã, hợp tác xã, hay không là gì cả!”. Sức mạnh của “mua chung, bán chung” giúp tối ưu hoá chi phí đầu vào, giảm thiểu thất thoát, lãng phí, chia sẻ rủi ro mùa vụ,… Nhân Hội nghị này, tôi đề nghị các đồng chí lãnh đạo địa phương thật sự quan tâm đến Hợp tác xã, một thiết chế kinh tế – xã hội nông thôn. Khi nói về Hợp tác xã, Bác Hồ đã đúc kết: “Nhóm lại thành giàu, chia ra thành khó”.

Nếu tất cả trông chờ vào nguồn vốn hữu hạn của Nhà nước thì sẽ không bao giờ đáp ứng đủ cho nhu cầu vô hạn của xã hội. Huy động vốn từ cộng đồng, hợp tác xã, doanh nghiệp đối tác sẽ là một giải pháp cơ bản, bền vững trong nền kinh tế thị trường mà cả thế giới đã làm trăm năm nay thay vì chỉ trông cậy vào sự hỗ trợ từ Nhà nước.

Vấn đề cần quan tâm là những chương trình, chính sách hỗ trợ phù hợp, giúp nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động của các mô hình kinh tế hợp tác, của các hợp tác xã nông nghiệp. Theo đấy, hợp tác xã, nông dân – thành viên hợp tác xã được trang bị đầy đủ kiến thức lập phương án sản xuất kinh doanh, mang tính khả thi, xây dựng bảng cân đối tài chính minh bạch, thuyết phục được người tham gia góp vốn và thu về lợi nhuận, lợi ích.

Để đạt được những mục tiêu đề ra, bên cạnh sự vào cuộc tích cực, chủ động của toàn Ngành, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn luôn cần đến sự định hướng, lãnh đạo của Đảng, của Chính phủ, sự đồng hành, ủng hộ của các bộ, ban ngành, địa phương. Để không chỉ là “trụ đỡ” của nền kinh tế khi đất nước ở vào thời điểm khó khăn, ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quyết hướng đến khát vọng vươn tầm, đủ sức trở thành “thước đo mức độ bền vững của quốc gia”.

Lê Minh Hoan
Trọng Toàn
Tùng Đinh – Lê Hoàng Vũ – CTV

Thủ tướng: ‘Thiết kế chính sách để khoa học là động lực phát triển’

Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định vai trò dẫn dắt của Bộ Khoa học và Công nghệ khi xây dựng chính sách thúc đẩy phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo.

Tại buổi làm việc với Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) sáng 27/5, Thủ tướng Phạm Minh Chính ghi nhận những thành tựu thời gian qua ngành KHCN cùng đội ngũ cán bộ, nhà khoa học với vai trò nòng cốt của Bộ đã làm được nhiều việc, góp phần vào thành tích chung của cả nước sau 35 năm đổi mới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng năng suất lao động, tăng cường hội nhập quốc tế.

Thủ tướng Phạm Minh Chính tại buổi làm việc sáng 27/5. Ảnh: Nhật Bắc/VGP.

Thủ tướng Phạm Minh Chính tại buổi làm việc sáng 27/5. Ảnh: Nhật Bắc/VGP.

Bộ trưởng Bộ KHCN Huỳnh Thành Đạt minh họa một số kết quả thể hiện KHCN trở thành động lực trong phát triển kinh tế xã hội. Trong đó chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011-2015 lên 45,2% giai đoạn 2016-2020 (vượt mục tiêu 35%).

Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam những năm gần đây liên tục tăng vượt bậc, năm 2020 xếp thứ 42/131 quốc gia, dẫn đầu nhóm quốc gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 trong ASEAN, sau Singapore và Malaysia.

Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Việt Nam bắt đầu được hình thành và phát triển. Nguồn lực tài chính từ xã hội cho KHCN tăng mạnh, nếu 10 năm trước chủ yếu dựa vào ngân sách (chiếm 70 đến 80%) thì nay đầu tư từ ngân sách nhà nước và doanh nghiệp đã tương đối cân bằng với tỷ lệ tương ứng 52% và 48%.

Số lượng bài báo công bố quốc tế ISI của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020 tăng trung bình 20%, riêng năm 2020 tăng 45% so với năm 2019.

Một số lĩnh vực như toán học, vật lý, hóa học tiếp tục giữ thứ hạng cao trong khu vực ASEAN. Hệ thống các tổ chức KH&CN phát triển mạnh, đội ngũ nhân lực có khoảng 72.290 cán bộ nghiên cứu, nhiều nhà khoa học có uy tín, được thế giới công nhận.

Ông cũng khẳng định, để KHCN và đổi mới sáng tạo thực sự là động lực chính trong tăng trưởng kinh tế, có 6 phương hướng trọng tâm, trong đó tập trung hoàn thiện thể chế; tăng cường đầu tư cho KHCN và đổi mới sáng tạo; phát triển thị trường KHCN và đổi mới sáng tạo; tập trung cho đổi mới công nghệ; chú trọng phát triển nguồn nhân lực; nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp.

Bộ trưởng đề xuất nhiều nội dung với mục tiêu là hoàn thiện hệ thống pháp luật về cơ chế, chính sách thúc đẩy hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo, trong đó có pháp luật về đầu tư, đầu tư công, ngân sách Nhà nước, về tài sản công và các văn bản hướng dẫn về xử lý tài sản hình thành từ nhiệm vụ KHCN, về chính sách thuế….

Ông cho rằng, phải đổi mới thực sự cơ chế, phương thức quản lý các chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học. Xây dựng cơ chế Bộ KHCN chịu trách nhiệm về chất lượng nghiên cứu để tháo gỡ vướng mắc quy trình, thủ tục liên quan đến các đề tài, nhiệm vụ KHCN sử dụng ngân sách Nhà nước theo hướng chấp nhận nguyên tắc rủi ro trong khoa học, tin các nhà khoa học thay vì quản lý theo hướng chống thất thoát. Công khai, minh bạch tất cả các nhiệm vụ, đề tài nghiên cứu để chính các nhà khoa học và cộng đồng giám sát.

Bộ cũng kiến nghị tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp trong việc sử dụng Quỹ phát triển KHCN đầu tư cho đổi mới công nghệ, trong đó đề nghị Bộ Tài chính sớm ban hành Thông tư sửa đổi Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BKH&CNBTC hướng dẫn nội dung chi và quản lý Quỹ… Bộ trưởng kiến nghị việc phân bổ nguồn vốn sự nghiệp KHCN vốn đầu tư phát triển KHCN trong năm 2020 và các năm tiếp theo để có đủ nguồn lực triển khai thực hiện hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo; bổ sung cấp vốn điều lệ (2.000 tỷ đồng) cho Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia trong nguồn vốn đầu tư công trung hạn 2021-2025…

PTT Vũ Đức Đam (phải) và Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt (trái) tại buổi làm việc sáng 27/5. Ảnh: Nhật Bắc/VGP.

PTT Vũ Đức Đam (phải) và Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt (trái) tại buổi làm việc sáng 27/5. Ảnh: Nhật Bắc/VGP.

Đánh giá cao những thành tựu của ngành, Thủ tướng khẳng định, KHCN “giai đoạn nào cũng cần” và quốc gia nào muốn phát triển đột phá cũng phải có KHCN đóng vai trò dẫn dắt, đột phá. Thủ tướng mong muốn Bộ KHCN đóng vai trò trung tâm điều phối, kết nối phát triển KHCN tại các bộ, ngành, địa phương và truyền cảm hứng cho các nhà khoa học.”Phải thiết kế thể chế, cơ chế, chính sách để hàng trăm nghìn doanh nghiệp, cả xã hội cùng vào cuộc để thúc đẩy KHCN tiếp tục phát triển”, Thủ tướng nói.

Tán thành với những hạn chế, bất cập được chỉ ra, Thủ tướng cũng thẳng thắn nhìn nhận ngành còn phát triển manh mún, chia cắt, chưa thực sự có trọng tâm, trọng điểm. Một trong những nguyên nhân là do thiếu mạnh mẽ, quyết liệt; cơ chế, thể chế, chính sách còn hạn hẹp; chưa đi đúng trọng tâm, trọng điểm, đúng hướng; nguồn lực đầu tư chưa xứng tầm…

Cho rằng cần kế thừa, phát huy những thành tựu, bài học kinh nghiệm, Thủ tướng yêu cầu cần ngành xác định đúng trọng tâm, trọng điểm: “Nghiên cứu, ứng dụng KHCN phải đi vào cái ta cần chứ không phải cái ta có; lấy khó khăn, thách thức là động lực vươn lên, trưởng thành, phát triển”, Thủ tướng nói và nhấn mạnh đầu tư KHCN phải tập trung cho 3 khâu đột phá chiến lược và phù hợp với tiềm năng, thế mạnh từng vùng miền, góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao chỉ số phát triển con người.

Đồng tình với các kiến nghị, Thủ tướng giao Bộ KHCN, Bộ Tài chính xây dựng cơ chế, chính sách ưu tiên, khuyến khích nghiên cứu KHCN phục vụ phòng chống dịch và sản xuất vaccine ngừa Covid-19, trong đó có quy định về đầu tư rủi ro. Đồng thời, sửa đổi các quy định về tài chính cho nghiên cứu, ứng dụng KHCN. Ông lưu ý: “đừng thiết kế một quy trình mà chứng từ thanh toán dày hơn cả công trình nghiên cứu”. Cần xây dựng cơ chế, tạo động lực phát triển KHCN, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo gắn với phát triển kinh tế, xã hội theo chiều sâu, bền vững, phát triển KHCN gắn với phát triển văn hóa và con người.

Hải Minh

Nguồn: Thủ tướng Phạm Minh Chính: ‘Thiết kế chính sách để khoa học là động lực phát triển’ (vnexpress.net)