Đại biểu Quốc hội Hà Nội: Cần giải pháp thiết thực hỗ trợ phục hồi ngay khu vực nông nghiệp

Kinhtedothi- Trong giai đoạn trong và sau Covid-19, Chính phủ cần phải có những giải pháp thiết thực về giống, về logistics, về sản xuất, chế biến… và về nguồn lực tài chính để hỗ trợ phục hồi ngay khu vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân dễ bị tổn thương này. Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Lan- Đoàn ĐBQH TP Hà Nội đề xuất tại Phiên thảo luận về báo cáo công tác phòng, chống dịch Covid-19 và tình hình thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 vào sáng 8/11.

Dành nguồn lực thích đáng cho nông nghiệp
Đại biểu Nguyễn Thị Lan cho biết, năm 2021 là năm rất đặc biệt, đó là năm diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước và là năm đầu thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021 – 2030 và kế hoạch 5 năm 2021 – 2025. Trong bối cảnh đất nước đầy gian khó phải gánh chịu những tổn thất nặng nề chưa từng có do dịch bệnh, do các yếu tố bất lợi và các xung đột địa chính trị gây ra, nhưng với sự đoàn kết toàn dân, sự lãnh đạo thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, sự lãnh đạo thường xuyên, sáng suốt của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội và Chính phủ đã đưa đất nước vượt qua thời khắc khó khăn, kiên định mục tiêu ưu tiên phòng, chống Covid-19 và đảm bảo phát triển kinh tế xã hội.

Báo cáo của Chính phủ đã đề cập đến nhiều nhiệm vụ và giải pháp có tính khả thi cao để vừa sẵn sàng chủ động ứng phó, giảm thiểu những thiệt hại do Covid-19 gây ra và vừa để phục hồi, phát triển kinh tế trong giai đoạn cuối năm 2021 cũng như năm 2022. Tuy nhiên, đại biểu Lan đề nghị Chính phủ, Quốc hội dành sự quan tâm đầy đủ, dành nguồn lực thích đáng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân, coi đây là nền tảng căn cốt và cần xác định rõ bất luận trong hoàn cảnh nào thì nông nghiệp vẫn luôn là trụ đỡ, đảm bảo cho sự phát triển ổn định của xã hội và là tiền đề cho các bước phát triển kinh tế xã hội tiếp theo.
Đặc biệt trong giai đoạn trong và sau Covid-19, Chính phủ cần phải có những giải pháp thiết thực về giống, về logistics, về sản xuất, chế biến, tiêu thụ, khoa học công nghệ, chuyển đổi số và về nguồn lực tài chính để hỗ trợ phục hồi ngay khu vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân dễ bị tổn thương này.
Quốc hội và Chính phủ cần có chương trình hành động, có giải pháp đột phá theo tinh thần của Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 50 của Chính phủ nhằm nâng cao năng lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia. Chính phủ cần quan tâm có chính sách đặc thù để khuyến khích đội ngũ trí thức khoa học đông đảo đến từ các trường đại học và Viện nghiên cứu. Đây chính là lực lượng nòng cốt thúc đẩy đổi mới sáng tạo quốc gia. Chúng ta có 237 trường đại học, 16.500 tiến sĩ, 574 giáo sư và 4.113 phó giáo sư, hàng năm đào tạo khoảng 1.500 tiến sĩ với 36 nghìn thạc sĩ, gần 1,5 triệu sinh viên đại học và khoảng vài ngàn đề tài nghiên cứu khoa học các cấp chỉ được triển khai từ các trường đại học.
Hàng năm, rất nhiều đề tài được thực hiện và rất nhiều quy trình công nghệ, sản phẩm khoa học có tiềm năng ứng dụng vào thực tiễn nhưng chỉ một số khiêm tốn được chuyển giao hay thương mại hóa để tạo ra giá trị gia tăng cao, phục vụ quốc kế dân sinh, gây lãng phí nguồn lực của xã hội. Và để có thể phát huy tiềm năng, lợi thế to lớn về trí tuệ, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo này, trong Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa XIV, đại biểu đã kiến nghị với Quốc hội về một số chính sách chung để thúc đẩy sự phát triển đổi mới sáng tạo trong trường đại học, viện nghiên cứu và đề cập đến tầm quan trọng và lợi ích của mô hình spin-off tạm gọi là mô hình doanh nghiệp khởi nguồn công nghệ.
Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đổi mới sáng tạo khởi nghiệp 
Tại kỳ họp này, đại biểu tiếp tục đề xuất với Quốc hội, Chính phủ một số vấn đề cụ thể để tháo gỡ vướng mắc cho việc hình thành và phát triển các doanh nghiệp spin-off, nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đổi mới sáng tạo khởi nghiệp trong trường đại học và viện nghiên cứu.
Doanh nghiệp khởi nguồn công nghệ là doanh nghiệp được hình thành trong trường đại học để thương mại hóa các kết quả nghiên cứu do chính các nhà khoa học nắm giữ công nghệ hay bằng sáng chế. Mô hình này đã rất thành công ở nhiều nước trên thế giới và đã tạo ra doanh thu khá lớn, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội và đã lan tỏa tinh thần và kỹ năng khởi nghiệp cho sinh viên, thanh niên. Mặc dù mô hình spin-off được cho là phù hợp, có nhiều ưu việt và đầy hứa hẹn như vậy nhưng ở Việt Nam chúng ta chưa được quan tâm đúng mức để phát triển mạnh mẽ, vẫn còn vướng mắc một số quy định trong các luật khác nhau như Luật Giáo dục đại học sửa đổi, Luật Viên chức, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Doanh nghiệp, Luật Khoa học, công nghệ, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Quản lý tài sản công. Rồi các Nghị định như Nghị định số 13, Nghị định số 70 của Chính phủ…. Các luật này cho phép hình thành các doanh nghiệp trong trường đại học nhưng lại không hướng dẫn cụ thể quy định đối với spin-off, cần bổ sung các quy định về góp vốn, góp vốn bằng bản quyền công nghệ quy định về thẩm quyền quyết định chuyển giao góp vốn, sản phẩm của đề tài có sử dụng ngân sách nhà nước vào các spin-off và các nhà khoa học được tham gia vào bộ máy quản lý công ty này để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khu vực trường đại học, viện nghiên cứu…
Bằng kinh nghiệm thực tiễn nghiên cứu phát triển mô hình spin-off của Học viện Nông nghiệp Việt Nam và tham khảo các mô hình spin-off của các nước trên thế giới, đại biểu kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ sớm rà soát, bổ sung các quy định pháp luật, các hướng dẫn thực hiện cho loại hình doanh nghiệp spin-off. Trong thời gian chờ sửa đổi luật, đề nghị Chính phủ cho thực hiện thí điểm cơ chế, chính sách thuận lợi cho mô hình spin-off, trong đó cho phép thứ nhất, cho phép các nhà khoa học được tham gia vào Ban quản lý điều hành doanh nghiệp spin-off để làm chủ công nghệ và đổi mới sáng tạo công nghệ, tạo sản phẩm mới, chất lượng và hiệu quả. Thứ hai, giao quyền cho các cơ sở nghiên cứu, trường đại học quyết định khai thác, sử dụng các sản phẩm đề tài nghiên cứu từ nguồn ngân sách nhà nước và chịu trách nhiệm về nguồn kinh phí thu được cho việc tái đầu tư cho nghiên cứu.
Nguồn: Kinhtedothi

Cứ áp dụng Nghị định 70, dễ làm nhà khoa học nhụt chí

VAAS có 19 đơn vị thành viên, vừa rồi đều rất băn khoăn khi triển khai Nghị định 70 và đã có văn bản kiến nghị phải điều chỉnh hoặc hướng dẫn phù hợp.

GS.TS Nguyễn Hồng Sơn, Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: NVCC. 

Chuyện “lọt sàng xuống nia”

“Cứ áp dụng Nghị định này (Nghị định 70/2018/NĐ-CP) dễ làm cho anh em nản chí, không ra được những sản phẩm tốt”, GS.TS Nguyễn Hồng Sơn, Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS) mở đầu cuộc trò chuyện.

“Tôi từng hỏi nhóm tác giả xây dựng nên Nghị định rằng loại tài sản này là gì? Tài sản cố định, tài sản trí tuệ, tài sản đào tạo hay là các loại tài sản khác nữa, phải thật cụ thể. Và được họ trả lời phải chờ thông tư hướng dẫn của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH-CN) để định dạng cho rõ”, GS.TS Nguyễn Hồng Sơn kể.

Theo hướng dẫn thực hiện Nghị định số 08/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật KH-CN, sản phẩm KH-CN gồm dạng I (mẫu, model, maket), sản phẩm, vật liệu, thiết bị, máy móc, dây chuyền công nghệ, giống cây trồng, giống vật nuôi và các loại khác; dạng II (nguyên lý ứng dụng, phương pháp, tiêu chuẩn, quy phạm, phần mềm máy tính, bản vẽ, báo cáo…và dạng III (bài báo; sách chuyên khảo…).

Như vậy, vì chưa có thông tư hướng dẫn nên việc tổ chức triển khai thực hiện Nghị định 70 này còn nhiều vướng mắc, trong đó quan trọng là xác định loại sản phẩm và định giá tài sản. Các nhiệm vụ khoa học mà Nhà nước hiện hỗ trợ cho các viện nghiên cứu công lập thực hiện thường là các nhiệm vụ mà các doanh nghiệp chưa thể thay thế được.

Hiện có nhiều doanh nghiệp hiện đã hình thành bộ phận nghiên cứu, phát triển giống nhưng thực tế số thành công không nhiều, vẫn phải liên kết với các viện nghiên cứu của Nhà nước để mua bản quyền hay sử dụng giống nhập ngoại.

Ngoại trừ các giống rau lai ta chưa làm chủ được công nghệ nên phần lớn vẫn phải dựa vào nhập ngoại, còn các giống cây trồng khác phần lớn đã làm chủ được, đều do các viện nghiên cứu tạo ra như các giống lúa thuần, cà phê, tiêu, điều và đa số các giống cây ăn quả.

GS.TS Nguyễn Hồng Sơn lội ruộng kiểm tra lúa. Ảnh: NVCC.

“Liên quan đến thực tiễn xác định giá trị của tài sản là kết quả nhiệm vụ KH-CN được ngân sách cấp, hỗ trợ, chúng tôi nhận thấy: Đối với kết quả dạng I mới dừng ở quy mô phòng thí nghiệm, hoặc đánh giá, khảo nghiệm, thử nghiệm ở quy mô hẹp, chưa đáp ứng điều kiện sản xuất, thương mại theo quy định của pháp luật.

Việc xác định giá trị thương mại của chúng không đơn giản vì không đủ cơ sở dữ liệu, ngoại trừ các một số sản phẩm như giống cây trồng đã được công nhận lưu hành hoặc công bố lưu hành. Hơn nữa, để thương mại hóa cần thiết phải tiếp tục đầu tư thời gian, công sức, trí tuệ và kinh phí cho việc phát triển thị trường, sản xuất sản phẩm ở quy mô hàng hóa”, GS.TS Nguyễn Hồng Sơn nêu vấn đề.

Theo ông, trên thực tế, việc định giá các sản phẩm khoa học không thực sự dễ. Cùng mức kinh phí hỗ trợ gần giống nhau nhưng có những giống cây trồng tạo ra được ứng dụng rộng rãi, quy mô có thể tới hàng triệu ha như giống lúa OM5451, có giống chỉ được vài chục ngàn ha. Vậy cái gì tạo nên sự khác biệt đó?

Rõ ràng, bên cạnh nguồn vốn của Nhà nước, còn có sự đầu tư chất xám, sự lao động miệt mài của các nhà khoa học nữa. Như vậy, việc định giá tài sản để giao cho các đơn vị nghiên cứu hay đơn vị nhận chuyển giao khác không đơn giản vì với chu kỳ nghiên cứu của một đề tài từ 3 – 4 năm, chưa đủ để biết được mức độ chấp nhận của sản xuất với một sản phẩm KH-CN, trong đó có sự đầu tư nguồn vốn của Nhà nước và sự đầu tư trí tuệ, công sức của nhà khoa học.

Phòng thí nghiệm của Viện nghiên cứu Ngô. Ảnh: Dương Đình Tường.

Hiện nay, đã có nhiều mô hình liên kết chuyển nhượng, chia sẻ bản quyền tác giả đối với một số giống cây trồng giữa viện nghiên cứu và doanh nghiệp nhưng rất khó định giá, bản thân tác giả và doanh nghiệp đều không biết hết được giá trị đích thực của sản phẩm. Mặt khác, nếu các sản phẩm được tính toán đầy đủ theo đúng giá trị của nó thì nó sẽ được kết tinh vào giá thành, và giá bán sản phẩm sẽ cao, nông dân không được hưởng lợi.

Quay trở lại ví dụ với giống lúa OM5451, nếu cả Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long (đơn vị nghiên cứu ra giống) và Tập đoàn Lộc Trời (đơn vị nhận chuyển giao) khai thác được hết bản quyền thì khoản tiền thu được sẽ rất lớn, có thể tương đương kinh phí nghiên cứu của toàn bộ Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Nhưng thực tế, cả viện và doanh nghiệp đều chỉ thu được một khoản kinh phí rất nhỏ, phần lớn giống do các hợp tác xã, nông dân tự để, tự sản xuất đều không thu được tác quyền.

“Trước kia, Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long có thu tác quyền 100 – 200 đ/kg thóc giống, cũng không đáng kể so với lợi ích mang lại cho xã hội. Tương tự như vậy, hiện nay phần lớn các giống cây ăn quả, cây công nghiệp được nhân giống theo hình thức vô tính đều chưa có đơn vị nhận chuyển giao bản quyền giống vì nó dễ mất bản quyền. Dĩ nhiên trong trường hợp này, nông dân sẽ được lợi.

Như vậy, nếu Nhà nước không thu lại được vốn đã đầu tư thì người được hưởng lợi đầu tiên là nông dân, có thể coi đó là “lọt sàng xuống nia”.

Có lẽ đến lúc này, chức năng, bổn phận của các cơ quan nghiên cứu công lập vẫn còn rất lớn. Nhà nước vẫn nên tiếp tục đặt hàng các nhiệm vụ KH-CN để giúp cho dân nhanh chóng tiếp cận và áp dụng chúng vào sản xuất”.

GS.TS Nguyễn Hồng Sơn.

Để nhà khoa học chỉ việc bước chân vào phòng thí nghiệm

Theo quy định hiện nay, khi các tổ chức khoa học chuyển giao được sản phẩm hình thành từ nguồn ngân sách do Nhà nước hỗ trợ, đều phải nộp một khoản thuế thu nhập doanh nghiệp. Do đó, Nhà nước nên tiếp tục giao sản phẩm khoa học cho các tổ chức khoa học quản lý, khai thác, sử dụng. Nếu cần, có thể bổ sung thêm các khoản trích quỹ phát triển của đơn vị để bù vào phần ngân sách hỗ trợ hằng năm hoặc nâng cao năng lực cho các tổ chức khoa học công lập.

Đối với trường hợp kết quả nghiên cứu ở dạng II và dạng III thì không thể xác định được giá trị thương mại. Trong lĩnh vực nông nghiệp, các quy trình công nghệ, quy trình kỹ thuật phần lớn đang được chuyển giao miễn phí cho nông dân, hợp tác xã nên hầu như không thu hồi được kinh phí.

Như vậy, qua ý kiến của nhiều tổ chức và cá nhân, cần nghiên cứu lại các quy định tại Nghị định 70 để đảm bảo tính khả thi, đồng thời tạo động lực để các tổ chức, các nhà khoa học có nhiều sản phẩm có chất lượng cao hơn.

Cần có những cơ chế, càng tạo thông thoáng, cởi mở càng tốt để động viên cán bộ nghiên cứu tạo ra nhiều giống xuất sắc hơn nữa mới đúng, chứ không phải làm nhụt chí của anh em. Thậm chí họ làm ra nhiều con lai tốt nhưng lại giấu bớt đi, chuyển lén cho tư nhân thì Nhà nước lại càng thiệt hơn. Như vậy, Nhà nước có muốn quản các sản phẩm khoa học cũng khó nếu không nhờ sự tự giác và cái tâm của các nhà khoa học.

Đi cấy ở Viện Cây Lương thực và Cây thực phẩm. Ảnh: Dương Đình Tường.

Trong thời gian qua, nhiều cán bộ khoa học đã không thể thích ứng được với chính sách đãi ngộ và cơ chế quản lý nên đã rời các viện nghiên cứu, mặc dù “chất xám” có chảy thì cũng chảy từ trong ra ngoài, từ đơn vị công lập sang doanh nghiệp tư nhân.

Nhưng dù sao, đây cũng là hồi chuông cảnh báo về chính sách trọng dụng cán bộ khoa học có trình độ tốt, đặc biệt là những người được đào tạo ở nước ngoài. Bởi được đào tạo rất cơ bản nên họ cần có điều kiện làm việc tốt, những phòng thí nghiệm tiêu chuẩn, những chế tài, cơ chế cởi mở để chỉ còn việc bước chân vào phòng thí nghiệm làm việc mà đầu óc không phải suy nghĩ đến những chứng từ tài chính nọ kia.

Phải công bằng đánh giá, hơn ba thập kỷ qua, KH-CN, đặc biệt là khoa học trong nông nghiệp đã có một giai đoạn phát triển rất nhanh, góp phần tạo ra lượng sản phẩm dồi dào, giúp chúng ta thoát đói, giảm nghèo.

Bây giờ, nghiên cứu khoa học trong nông nghiệp đang có nhịp trễ để chuyển sang giai đoạn nghiên cứu về chất lượng, hiệu quả kinh tế thì không thể tiếp tục duy trì tốc độ phát triển nhanh như giai đoạn trước đây được.

Cấy lúa thí nghiệm ở Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm. Ảnh: Dương Đình Tường.

Bởi để tăng trưởng về số lượng, có thể chúng ta chỉ mất một chục năm, nhưng để thay đổi về chất lượng có khi mất cả vài chục, thậm chí hàng trăm năm. Vì vậy, Nhà nước cần tiếp tục tin tưởng, tạo điều kiện và có cơ chế đãi ngộ phù hợp để tiếp sức cho các cán bộ khoa học, giúp họ có cơ hội phát triển để tạo ra sản phẩm đột phá, có chất lượng tốt hơn.

“Hiện mỗi năm, các thành viên của Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam có thể nghiên cứu được vài ba chục giống cây trồng các loại nhưng cũng chỉ có một số giống có thể nhân rộng được trong sản xuất. Phải chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu, mặc dù các sản phẩm giống cây trồng được phát triển và đạt tiêu chuẩn quốc gia nhưng không nhân rộng được trong sản xuất”.

GS.TS Nguyễn Hồng Sơn.

Nguồn: nongnghiep.vn

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc: đề cao nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi trong phát triển hợp tác xã

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã dành trọn ngày 2/11 để khảo sát và làm việc chuyên đề với lãnh đạo chủ chốt của tỉnh Ninh Bình về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã. Cuộc làm việc này diễn ra trong bối cảnh cả nước đang tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Và Bộ Chính trị đang nghiên cứu chủ trương mới để phát triển thành phần kinh tế này.

Như VnBusiness đưa tin, sáng 2/11, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã khảo sát hai mô hình hợp tác xã (HTX Gốm Bồ Bát và HTX Sinh Dược) trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Đây là các HTX phát triển từ kinh tế hộ thành các HTX quy mô, kết nối được chuỗi giá trị từ sản xuất nguyên liệu đến bán lẻ. Đây là những minh chứng tiêu biểu cho sự phát triển thực chất của 421 HTX và 500 tổ hợp tác, đang thu hút hơn 330.000 lao động, chiếm gần 60% tổng số lao động của tỉnh. Nhiều HTX đã giải quyết tốt vấn đề phúc lợi, quyền lợi của thành viên; quan tâm người lao động, có chiến lược phát triển, nhìn nhận về kinh tế thị trường rất tốt.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh Cương lĩnh của Đảng đã khẳng định kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể (KTTT) ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Do đó KTTT nói chung, HTX nói riêng có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta. Đồng thời tác động bao trùm cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, môi trường và an sinh xã hội. Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cho rằng cần tổng kết lý luận, tổng kết mô hình, nhân rộng cách làm hiệu quả trong phát triển KTTT, HTX.

HTX-jpeg-6668-1635880593.jpg

Sự phát triển và nâng cao vai trò của KTTT, HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Trong ảnh: Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo tại cuộc làm việc chuyên đề với tỉnh Ninh Bình về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, chiều ngày 2/11/2021.

Trong chuyến khảo sát của Chủ tịch nước, đại diện các HTX ở Ninh Bình đã mạnh dạn nói lên những tâm tư, nguyện vọng của mình. Đây đồng thời cũng là tiếng nói chung của khu vực kinh tế hợp tác, HTX trên cả nước nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững trong thời gian tới.

Những “tâm tư” của HTX

HTX sản xuất, dịch vụ gốm thương mại Bồ Bát nằm ở xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, nơi có làng gốm cổ Bồ Bát với lịch sử 3000 năm. Nghề gốm được ông Phạm Văn Vang, người con Làng gốm, khôi phục từ 13 năm trước và sau đó tham gia hình thành HTX gốm Bồ Bát.

Tiếp đón Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cùng đoàn cán bộ Liên minh HTX Việt Nam, các ban ngành tỉnh Ninh Bình, Giám đốc Phạm Văn Vang chia sẻ: “Với nền tảng vững vàng, HTX gốm Bồ Bát vẫn có bước đi ổn định trong bối cảnh dịch Covid-19 đầy thách thức và tự tin hoạt động tốt trong thời kỳ bình thường mới”.

Tuy nhiên, theo ông Vang, để phục hồi và bứt tốc, HTX rất cần sự đồng hành của cơ quan quản lý. Đầu tiên cần kể đến chính sách đất đai. Bản thân HTX Bồ Bát đang có nguyện vọng được hỗ trợ thêm 2 ha để mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm việc làm mới. Thực tế cho thấy, mong muốn của HTX Bồ Bát cũng là mong muốn chung của không ít HTX trên cả nước.

Thứ hai là về cơ sở hạ tầng, công nghệ. Một điểm chung của nhiều HTX hiện tại, ngay cả với các HTX chuyên ngành, quy mô lớn, có doanh thu nhiều tỷ đồng mỗi năm như HTX Bồ Bát cũng đang gặp khó khăn về khả năng tiếp cận công nghệ, đổi mới phương thức sản xuất theo hướng hiện đại, chuỗi giá trị.

Thứ ba là về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo vị Giám đốc HTX Bồ Bát, trong những năm qua dù Liên minh HTX Việt Nam, chính quyền địa phương đã dành không ít nguồn lực cho việc đào tạo, nâng cao trình độ lao động, song khu vực HTX so với doanh nghiệp vẫn còn một khoảng trống về năng lực, trình độ chuyên ngành.

Thứ tư, về xúc tiến thương mại. Bắt nhịp với xu thế thị trường, các HTX trên cả nước đang dần tiếp cận với các phương thức bán hàng mới từ thương mại điện tử, chuyển đổi số… Các cơ quan quản lý nhà nước, Liên minh HTX Việt Nam cũng có nhiều hỗ trợ về quảng bá hình ảnh, xây dựng sản phẩm OCOP, tuy nhiên để sản phẩm HTX đủ sức cạnh tranh sòng phẳng với doanh nghiệp, tiếp cận các thị trường lớn thì cần nhiều giải pháp mang tính đột phá.

Đồng tình với quan điểm của đại diện HTX Bồ Bát, ông Vũ Trung Đức – Giám đốc HTX Sinh Dược, xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn nói thêm rằng, chủ trương thực hiện “mục tiêu kép”, chuyển từ “zero Covid” sang sống chung với đại dịch là chìa khoá để HTX nói riêng và đơn vị sản xuất kinh doanh nói chung phục hồi.

“Mong muốn lớn nhất của HTX Sinh Dược lúc này là đại dịch được kiểm soát. Vì vậy, chúng tôi kỳ vọng chính quyền các cấp, địa phương kiểm soát dịch tốt hơn để tình trạng giãn cách, tê liệt hoạt động không còn xảy ra. Với các đơn vị sản xuất, kinh doanh, đây chính là giải pháp cần kíp nhất, bên cạnh các nguồn lực kích cầu”, ông Đức nhấn mạnh.

Cần sự vào cuộc của các cấp ngành

Sau khi lắng nghe tiếng nói của đại diện các HTX, tại cuộc làm việc chuyên đề vào buổi chiều ngày 2/11 với lãnh đạo chủ chốt của tỉnh Ninh Bình về phát triển KTTT, HTX, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cho rằng kinh tế hộ, kinh tế cá thể nhỏ lẻ như kinh tế Việt Nam đi ra thị trường khó có thể cạnh tranh. Nên cần phải tổ chức, sắp xếp lại để có nguồn lực tốt hơn và phải khai thác lợi thế tiềm năng của mô hình HTX. Đó là lợi thế về xã hội, lợi thế về số đông để tạo ra sự thay đổi cơ bản, sâu sắc về phương thức sản xuất trong nông nghiệp cũng như các lĩnh vực của đời sống nông thôn.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nêu ví dụ cụ thể trường hợp HTX gốm Bồ Bát. Từ nguồn vốn ban đầu chỉ có 5 triệu đồng nhưng nhờ được vay vốn hơn 200 triệu đồng từ Quỹ hỗ trợ mà HTX này đã phát triển được như ngày nay. Từ đó Chủ tịch nước nhấn mạnh muốn phát triển HTX mà chỉ hô khẩu hiệu, không có nguồn lực hỗ trợ thì khó thành công. Cách đây 4 năm Thủ tướng Chính phủ đã quyết định bổ sung 1000 tỷ đồng vào Quỹ hỗ trợ phát triển HTX. Tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục bổ sung vốn cho các Quỹ phát triển HTX đi cùng với nguồn vốn vay ưu đãi từ ngân hàng chính sách.

Chủ tịch nước khẳng định Nhà nước hỗ trợ sự phát triển của HTX nhưng tôn trọng nguyên tắc thị trường, không quay lại cơ chế bao cấp, phi kinh tế mà đề cao nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: “Sự phát triển và nâng cao vai trò của KTTT, HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp cần trực tiếp lãnh đạo và coi đây là nhiệm vụ chính trị cần tập trung chỉ đạo. Nếu hệ thống chính trị của chúng ta không quan tâm thì khó có thể thành công trong xây dựng KTTT ở nước ta. Vai trò của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng về phát triển kinh tế hợp tác, HTX là vô cùng quan trọng trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay”.

Chủ tịch nước đặc biệt lưu ý trong thời kỳ hội nhập, tâm thế của các HTX, cụ thể là những người đứng đầu HTX là vô cùng quan trọng. Để tiến lên, các giám đốc HTX tự tin với tâm thế của một doanh nhân thực thụ, cương trực và có trách nhiệm xã hội.

Các HTX cần phát huy được 3 vai trò chính, đầu tiên là một tổ chức kinh tế hoàn thiện, có thể tạo ra nhiều việc làm, thu nhập cao cho thành viên. Thứ hai là đơn vị tự chủ lấy con người là trung tâm trong quá trình toàn cầu hóa, coi trọng việc tạo ra phúc lợi xã hội. Và cuối cùng, HTX là tổ chức dựa vào cộng đồng, đề cao tính dân chủ và nguyên tắc tự nguyện.

22-7668-1635861109.jpg

HTX rất cần sự đồng hành của cơ quan quản lý. Trong ảnh: Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc thăm HTX Sinh Dược sáng ngày 2/11/2021.

Để mô hình kinh tế HTX thành công, Chủ tịch nước khẳng định cần xây dựng một chiến lược phát triển HTX, tổ hợp tác. Để làm được việc đó, các ban, bộ ngành liên quan cần tập trung tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn hiện nay, nhất là những hạn chế, bất cập về pháp luật, chính sách, quản trị; vấn đề tiếp cận đất đai, nguồn vốn, công nghệ, thị trường, phát triển chuỗi giá trị, đào tạo lao động.

Tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch nước, ông Nguyễn Ngọc Bảo – Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cho rằng để bứt tốc, các HTX cần có sự chuyển biến về tư duy sản xuất. Một thực tế là rất nhiều HTX được thành lập sau năm 2012 hiện có những giám đốc trẻ, có trình độ cao, nên khả năng sáng tạo cao, tiếp cận nhanh với chuyển đổi số, thương mại điện tử…

Các HTX thành lập sau năm 2012 cũng đang có xu hướng hoạt động theo chuyên ngành, nghĩa là tập trung vào sản phẩm thế mạnh, có thương hiệu, đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Ở Ninh Bình, HTX Bồ Bát và Sinh Dược là những trường hợp điển hình.

Còn ở góc nhìn của bộ ngành, ông Võ Thành Thống – Thứ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư nhận định, để HTX phát triển cần tiếp tục hoàn thiện 3 điểm, gồm bổ sung, hoàn thiện hành lang pháp lý, hoàn thiện thể chế chính sách đặc biệt về chuyển đổi số, công nghệ cao cho HTX, và nâng cao năng lực quản lý, trình độ lao động HTX.

Ông Nguyễn Duy Hưng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cũng cho rằng, cần có cơ chế mạnh hơn cho công tác đào tạo, nâng cao năng lực quản lý, trình độ nhân lực HTX. Không cần một số tiền quá lớn, chỉ cần mỗi năm từ 10 – 15 tỷ đồng, thì mục tiêu mỗi HTX có một cán bộ trình độ cao là không quá khó.

Bên cạnh đó, theo các chuyên gia, để HTX vươn tầm, cần có một cuộc “cách mạng” cho các HTX hoạt động kém hiệu quả, đặc biệt là các HTX toàn xã, thu hút hàng trăm, thậm chí hàng nghìn thành viên nhưng giá trị mang lại không cao. Nếu không có khả năng thay đổi thì cần dứt khoát giải thể.

Có thể thấy, bên cạnh việc phát huy tối đa nội lực, sự đồng hành của các ban ngành quản lý là vô cùng quan trọng để các HTX phục hồi và kỳ vọng bứt tốc sau dịch. Thực tế là ngay sau khi làn sóng dịch lần thứ tư được kiểm soát, các biện pháp giãn cách được nới lỏng, Liên minh HTX Việt Nam đã tổ chức hàng loạt hội nghị, diễn đàn nhằm tìm giải pháp giúp các HTX và đơn vị thành viên phục hồi, thích ứng với tình hình mới.

Nếu tiếp tục có thêm các chính sách, nguồn lực hỗ trợ, cùng với một tâm thế mới, khu vực HTX hoàn toàn có thể tự tin vươn tầm, cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường.

Hiến Nguyễn

Nguồn: Vnbusiness

Thương mại điện tử toàn cầu tiếp tục bùng nổ trong tháng 10

Tháng 10 mở màn lễ hội mua sắm cuối năm với chuỗi ưu đãi lớn từ các sàn thương mại điện tử, là bước đệm doanh số vững vàng cho Ngày độc thân 11/11.

Quý IV hàng năm với lễ hội Halloween, Ngày độc thân 11/11, Giáng sinh, Tết… là thời điểm “vàng” cho các doanh nghiệp thương mại điện tử đẩy mạnh tăng trưởng doanh thu. Hàng loạt những sự kiện mua sắm với chương trình ưu đãi lớn mạnh với nhiều lợi ích đi kèm thôi thúc người tiêu dùng mạnh dạn mở hầu bao, sắm sửa chuẩn bị cho mùa lễ hội và năm mới 2022.

Đặc biệt, sau khi trải qua hơn nửa năm 2021 với nhiều trở ngại, khó khăn do dịch bệnh, người dân ở những nước bị phong tỏa, giãn cách xã hội trong nhiều tháng có xu hướng chi tiêu mạnh tay hơn. Đa phần, họ tập trung mua sắm các sản phẩm chăm sóc sức khỏe, thiết yếu, tiêu dùng nhanh…; giảm bớt chi phí cho những mặt hàng xa xỉ phẩm, đồ điện tử. Dù có sự chuyển đổi rõ rệt về thói quen tiêu dùng, song doanh số ghi nhận từ các sàn thương mại điện tử trong tháng 10 vẫn tăng trưởng mạnh mẽ.

Thương mại điện tử tiếp tục bùng nổ trong tháng 10/2021. Ảnh: Acowebs

Thương mại điện tử tiếp tục bùng nổ trong tháng 10/2021. Ảnh: Acowebs

Cụ thể, tại châu Âu, số liệu ghi nhận từ Euromonitor cho thấy Amazon tiếp tục giữ vững vị thế nằm trong top 3 sàn thương mại điện tử được yêu thích, có doanh số cao và tăng trưởng ổn định. Hai thị trường nổi trội nhất của ông lớn ngành e-commerce này là Pháp và Tây Ban Nha. Chỉ trong quý III/2021, thời điểm đại dịch bùng phát trở lại tại một số nước châu Âu, doanh số của Amazon giữ nguyên mức tăng trưởng ổn định với 19,3%. Trong khi đó, thị phần của “ông lớn” Alibaba cũng tăng đến 2,9% so với cùng kỳ năm ngoái.

Báo cáo cũng cho thấy ngành hàng tiêu dùng nhanh với các danh mục thực phẩm, thức uống, sản phẩm chăm sóc cá nhân và gia đình ghi nhận doanh số thương mại điện tử tăng gấp đôi tại Italy và Tây Ban Nha trong quý đầu tiên của năm nay và vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ cho đến tháng 10/2021.

Với khu vực châu Á, mạng lưới vận chuyển Cainiao ghi nhận tăng trưởng đến 286% về số lượng mặt hàng thương mại điện tử xuất khẩu từ Nhật Bản sang Trung Quốc. 10 triệu sản phẩm được chuẩn bị từ tháng 10, sẵn sàng cho Ngày hội mua sắm toàn cầu 11/11 lớn nhất năm của quốc gia đông dân nhất thế giới. Điều đó phần nào thể hiện nhu cầu mua sắm online của người dân tại đây chẳng những không suy giảm do dịch, ngược lại còn tăng trưởng mạnh mẽ hơn gấp nhiều lần so với những năm trước.

Người tiêu dùng châu Á, nhất là tại Trung Quốc, đã quen thuộc với Ngày hội mua sắm trực tuyến toàn cầu 11/11. Ảnh: iStock

Người tiêu dùng châu Á, nhất là tại Trung Quốc, đã quen thuộc với Ngày hội mua sắm trực tuyến toàn cầu 11/11. Ảnh: iStock

Trong số các nước Đông Nam Á, Indonesia được đánh giá là mảnh đất màu mỡ của thương mại điện tử khi liên tục ghi nhận tăng trưởng trong những năm gần đây. Mới đây, ông Perry Warjiyo, Thống đốc Ngân hàng Indonesia (BI) đã đưa ra dự báo mới đây rằng giá trị thương mại điện tử của quốc gia này sẽ tăng tới 48,4% trong năm nay.

Ông cho biết các giao dịch thương mại kỹ thuật số tăng trưởng rất cao nhờ sự hỗ trợ từ các dịch vụ thanh toán trực tuyến dễ dàng. Thêm vào đó, như những thay đổi trong thói quen tiêu dùng, mua sắm trực tuyến của người dân trong bối cảnh đại dịch cũng thay đổi mạnh mẽ, chính là lực đẩy khiến thương mại điện tử nước này bùng nổ trong tháng 10 vừa qua.

Phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh đầu tư Tây Java lần thứ ba năm 2021 tổ chức ngày 21/10, vị Thống đốc đã đưa ra các con số ấn tượng về lĩnh vực thanh toán kỹ thuật số và ngân hàng kỹ thuật số. Ông dự đoán cả hai mảng này đều có thể tăng trưởng mạnh mẽ với tỷ lệ lần lượt là 35,7% và 30,1% trong những tháng tiếp theo.

Không kém cạnh về mặt bùng nổ thương mại điện tử tại khu vực Đông Nam Á, thị trường tại Việt Nam cũng sôi nổi với các đợt lễ hội mua sắm 9/9 và 10/10. Việt Nam còn là một trong những quốc gia tăng trưởng mạnh mẽ nhất trong lĩnh vực thương mại điện tử B2B. Số liệu ghi nhận năm 2020 cho thấy Việt Nam đứng đầu về mức độ phát triển trong khu vực và tiềm năng dẫn đầu ngành tại khối Đông Nam Á. Bên cạnh tiềm lực về B2B, thị trường thương mại điện tử bán lẻ B2C tháng 10 vừa qua cũng nhộn nhịp không kém.

Là một trong những sàn thương mại điện tử lớn nhất tại Việt Nam, số liệu từ báo cáo quý III/2021 cho thấy hình thức mua sắm vẫn tiếp tục là lựa chọn tối ưu của phần đông người dân do ảnh hưởng dịch bệnh. Cụ thể, sàn ghi nhận lượng lớn khách hàng truy cập hàng ngày, số lượng đơn hàng và khách mua hàng trên nền tảng đều tăng hơn gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái.

Giao diện mua thực phẩm tươi sống trên một sàn thương mại điện tử. Ảnh: Viễn Thông

Giao diện mua thực phẩm tươi sống trên một sàn thương mại điện tử. Ảnh: Viễn Thông

Doanh số tăng mạnh ở các ngành hàng bách hóa, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, phục vụ nhu cầu giải trí tại nhà… Trong đó, ngành hàng bách hóa trên Lazada đứng đầu doanh thu với mức tăng trưởng hơn gấp 4 lần so với quý III/2019 Riêng thực phẩm tươi sống đạt con số tăng trưởng ấn tượng khi cao gấp 17 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Đây cũng là ngành hàng có lượt tìm kiếm nhiều nhất vào cuối tháng 8 khi chỉ thị 16 được ban hành và liên tục tăng trưởng xuyên suốt quý.

Ngoài hình thức mua hàng online truyền thống, hình thức “săn sale” trên livestream cũng được người tiêu dùng dần quen thuộc và đặc biệt ưa chuộng trong hai tháng 9 và 10. Tổng doanh thu thông qua LazLive tăng gấp 8 lần so với cùng kỳ năm ngoái và lập kỷ lục với doanh thu 700 triệu đồng, được ghi nhận chỉ trong 2 giờ livestream vào “Lễ hội mua sắm 9.9”.

Sắp tới, Lazada cho biết sẽ tiếp tục mang đến Lễ hội mua sắm 11.11 - 1 ngày sale To với ưu đãi lớn từ các thương hiệu đình đám; hàng nghìn sản phẩm chính hãng giảm giá đến 50%; miễn phí giao hàng; 1,1 tỷ voucher ưu đãi kèm những phần quà giá trị lên đến hàng triệu đồng. Ảnh: Lazada Việt Nam

Sắp tới, Lazada cho biết sẽ tiếp tục mang đến “Lễ hội mua sắm 11.11 – 1 ngày sale To” với ưu đãi lớn từ các thương hiệu đình đám; hàng nghìn sản phẩm chính hãng giảm giá đến 50%; miễn phí giao hàng; 1,1 tỷ voucher ưu đãi kèm những phần quà giá trị lên đến hàng triệu đồng. Ảnh: Lazada Việt Nam

Với các số liệu trên từ một số quốc gia ở các châu lục lớn bao gồm cả Việt Nam, thị trường thương mại điện tử vẫn không ngừng lớn mạnh và dự đoán sẽ tiếp tục bùng nổ trong những tháng cuối năm. Ngày độc thân 11/11 hứa hẹn sẽ là đỉnh điểm tăng trưởng khi không chỉ Trung Quốc, quốc gia tiên phong xem ngày này là ngày mua sắm toàn cầu, mà cả thế giới đều hưởng ứng nhiệt tình. Đây hứa hẹn sẽ là bước đệm vững vàng cho ngành thương mại điện tử trong tháng 12 và những tháng đầu năm 2022.

Thiên Khải

Nguồn: Vnexpress

Hội nghị đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Thường trực tháng 10/2021 và triển khai nhiệm vụ tháng 11/2021

Chiều ngày 4/11, cơ quan Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tổ chức “Hội nghị đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Thường trực tháng 10/2021 và triển khai nhiệm vụ tháng 11/2021”. Hội nghị được tổ chức dưới hình thức trực tuyến. Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chủ trì Hội nghị.

Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chủ trì Hội nghị

Phát biểu khai mạc Hội nghị, Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho biết tháng 10/2021, thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ ban hành quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”, Thường trực Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã tập trung chỉ đạo hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam triển khai các hoạt động hỗ trợ thành viên khôi phục sản xuất kinh doanh, tiếp tục hoàn thiện Báo cáo Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 và Tổng  kết 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012; tổ chức Hội nghị sơ kết Chương trình 503/CTr-LMHTXVN ngày 04/8/2021…

Theo báo cáo tại Hội nghị, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Thường trực Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong tháng 10 đã diễn ra trong tinh thần khẩn trương và tập trung. Hội nghị trực tuyến Ban Thường vụ Liên minh HTX Việt Nam lần thứ ba vào ngày 18/10/2021, đã đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trong 9 tháng đầu năm và đề ra nhiệm vụ công tác trọng tâm 3 tháng cuối năm 2021 của hệ thống Liên minh HTX Việt Nam. Hội nghị sơ kết đánh giá kết quả triển khai Chương trình 503 được diễn ra, sau hơn 2 tháng triển khai Chương trình, hệ thống Liên minh HTX Việt Nam đã đạt được những kết quả bước đầu.

Quang cảnh Hội nghị

Bên cạnh đó, trong tháng 10 vừa qua, Thường trực Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã khẩn trương hoàn thiện các báo cáo, tổ chức 06 buổi Tọa đàm về thi hành Luật HTX năm 2012 trong lĩnh vực phi nông nghiệp, và một số các công việc khác liên quan đến Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 về kinh tế tập thể và 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012. Và tiếp tục thực hiện các công tác phòng, chống dịch Covid-19 và hỗ trợ thành viên khắc phục khó khăn….

Phát biểu tại Hội nghị, ông Phạm Ngọc Toại, Chánh Văn phòng Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho biết trong tháng 10 cơ quan Liên minh Hợp tác xã Việt Nam vẫn duy trì và phát huy tối đa chức năng, nhiệm vụ được giao. Như công tác tham mưu cho Đảng, Nhà nước, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức, đoàn thể trong và ngoài nước trong phát triển KTTT, nòng cốt là HTX; công tác tuyên truyền, thông tin; công tác hỗ trợ phát triển KTTT, HTX; công tác quản lý cơ sở vật chất, đơn vị trực thuộc và kinh tế ngành…

 ˝9 tháng đầu năm, trong bối cảnh tình hình dịch bệnh Covid -19 diễn biến phức tạp, theo thống kê sơ bộ Liên minh HTX cấp tỉnh đã tư vấn thành lập mới 221 HTX, trong đó 174 HTX nông nghiệp và 217 HTX phi nông nghiệp; Giải thể 312 HTX; Các Liên minh Hợp tác xã tỉnh vẫn tiếp tục tích cực tham gia tổng kết các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến phát triển KTTT, HTX”, Ông Phạm Ngọc Toại đánh giá.

Phát biểu kết luận hội nghị, ông Nguyễn Ngọc Bảo cho biết trong tháng 10/2021, Thường trực Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã chỉ đạo các ban, đơn vị trực thuộc triển khai các công việc. Tuy nhiên, công việc triển khai vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, nhiều công việc dở dàng, chưa hoàn thành theo tiến độ kế hoạch đề ra.

“Do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, 02 tháng cuối năm, khối lượng công việc phải hoàn thành rất lớn, đòi hỏi phải tập trung tối đa về thời gian, công sức, trí tuệ của tập thể Thường trực trong chỉ đạo, điều hành; sự chủ động, sáng tạo của toàn thể cán bộ và người lao động để triển khai các công việc theo kế hoạch”- Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nhấn mạnh.

Một số các công việc trọng tâm cần thực hiện trong thời gian tới như tổ chức thành công Hội nghị toàn quốc Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 và 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012 lĩnh vực phi nông nghiệp. Hoàn thiện ý kiến tham gia Bộ hồ sơ đề nghị xây dựng Luật HTX sửa đổi gửi Bộ KH&ĐT; Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình số 503/CTr-LMHTXVN ngày 04/8/2021 kết nối cung – cầu, tiêu thụ hàng hóa; Phối hợp Bộ Kế hoạch và Đầu tư triển khai các công việc chuẩn bị tổ chức Diễn đàn Kinh tế hợp tác, HTX năm 2021; phối hợp tổ chức Hội nghị vận động thành lập CLB và kết nối cung cầu của các HTX chăn nuôi gia cầm các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc tại tỉnh Thái Nguyên; Hội nghị kết nối cung cầu, xúc tiến đầu tư và thương mại cho các HTX, liên hiệp HTX dược liệu trên địa bàn cả nước…..

Nhân dịp này, Hội nghị công bố quyết định về công tác cán bộ lãnh đạo tại Trung tâm Phát triển Thương mại và Đầu tư và Ban Hợp tác quốc tế. Chủ tịch Nguyễn Ngọc Bảo trao quyết định bổ nhiệm và tặng hoa chúc mừng cho 2 đồng chí Lê Thị Kim Oanh nhận vị trí Giám đốc Trung tâm Phát triển Thương mại và Đầu tư và đồng chí Chu Tiến Đạt nhận vị trí Phó trưởng Ban Ban Hợp tác quốc tế.

Quỳnh Trang – Quang Trung
Ảnh: Lê Huy
Nguồn: VCA

Nông nghiệp Việt Nam đồng hành doanh nghiệp xây dựng và bảo vệ hành tinh xanh

Bộ trưởng Lê Minh Hoan bày tỏ kỳ vọng các kết quả của COP26 sẽ tạo ra hành tinh xanh hơn, hỗ trợ cho sự sống của trên 7 tỷ người dân toàn cầu.

Toàn cảnh cuộc hội thảo với Thủ tướng Phạm Minh Chính. Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan ngồi ngoài cùng bên phải. Ảnh: Anh Tuấn.

Sáng 1/11, tại Glasgow (Vương quốc Anh), Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan đã tham gia Hội thảo do Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì với chủ đề “Kiến tạo tương lai bền vững và thịnh vượng thông qua đầu tư tư nhân”.

Hội thảo có sự tham dự của hàng chục doanh nghiệp hàng đầu trong và ngoài nước, thảo luận về định hướng và giải pháp thu hút đầu tư doanh nghiệp, hỗ trợ tăng trưởng xanh và bền vững tại Việt Nam, nhân dịp Thủ tướng tham dự Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26).

Mỗi một hành động giúp trái đất xanh hơn đều đáng trân trọng. Ảnh: HA.

Hội thảo còn thu hút hơn 300 lãnh đạo cấp cao của các doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài là khách hàng của Standard Chartered và các doanh nghiệp là thành viên của Hiệp hội Doanh nghiệp Anh Quốc tại Việt Nam (BritCham Việt Nam).

Tại hội thảo, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nêu rõ trong bất cứ hoàn cảnh nào, từ quá khứ đến tương lai, trước, trong hay sau đại dịch Covi-19 thì lương thực thực phẩm đều là  mặt hàng thiết yếu của mỗi quốc gia và toàn cầu. Với lợi thế về nông nghiệp, Việt Nam đang vươn lên thành nước xuất khẩu hàng đầu về các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới, thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ.

Việt Nam khuyến khích sự tham gia của khối tư nhân trong đầu tư, nghiên cứu phát triển và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, ưng dụng công nghệ số và đổi mới sáng tạo trong việc tăng hiệu quả trong sản xuất, năng suất, an toàn thực phẩm và phân phối, tạo khả năng phục hồi tốt hơn cho chuỗi cung ứng nông sản.

Lợi thế về nông nghiệp của Việt Nam đã thu hút được đáng kể doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp và các ngành liên quan. Đến nay đã có hơn 55.00 doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp và những lĩnh vực liên quan, chiếm khoảng 8% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước. Nông nghiệp Việt Nam đã thu hút được các tập đoàn lớn và có tiếng trong lĩnh vực nông nghiệp trên thế giới, và có những dự án FDI trong nông nghiệp trị giá gần 1 tỷ USD.

Tuy nhiên, đứng trước bối cảnh mới với nhiều thách thức, mà rõ nét nhất là biến động thị trường, biển đổi khí hậu và thay đổi trong thói quen tiêu dùng, đặc biệt tại các thị trường xuất khẩu đòi hỏi tiêu dùng cí tính bền vững và xanh hơn, nông nghiệp Việt Nam cần chuyển mình để đáp ứng các yêu cầu mới, trước tiên là của thị trường.

Bộ trưởng chia sẻ, hiện Bộ NN-PTNT đang dự thảo Chiến lược nông nghiệp và phát triển nông thôn đến 2030 và tầm nhìn đến 2050. Bộ đang tham khảo ý kiến của các đối tác quốc tế trong việc xây dựng Chiến lược, đảm bảo Chiến lược mang hơi thở của thời đại, hướng tới một nền kinh tế nông nghiệp, dựa trên nền tảng đổi mới sáng tạo, thúc đẩy tăng trưởng xanh trong nông nghiệp.

Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan (ngoài cùng bên phải) cùng các Bộ trưởng tham dự cuộc Hội thảo do Thủ tướng chủ trì. Ảnh: Anh Tuấn.

Trên cơ sở đó, nông nghiệp Việt Nam sẽ chuyển mình để trở thành nhà cung ứng lương thực thực phẩm minh bạch – trách nhiệm – bền vững cho toàn cầu. Bộ trưởng kêu gọi các nhà đầu tư tập trung vào phát triển nông nghiệp tri thức, chế biến nông lâm thủy sản, đa dạng hóa sản phẩm có giá trị gia tăng cao, và logistics phục vụ chuỗi giá trị nông nghiệp.

Chia sẻ với các nhà đầu tư về tác động của biến đổi khí hậu tới phát triển nông nghiệp, đặc biệt tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Bộ trưởng Lê Minh Hoan chia sẻ Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu và thiên tai, Việt Nam đang phải đối mặt với tổn thất và thiệt hại, những mất mát vượt ra ngoài khả năng ứng phó ngay cả khi đã áp dụng các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.

Biến đổi khí hậu đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, trong đó, nông nghiệp là lĩnh vực dễ bị tổn thương nhất.

Trong 30 năm qua, bình quân thiệt hại kinh tế do biến đổi khí hậu khoảng 1,5% GDP/năm và ước tính thiệt hại có thể từ 3 – 5% GDP/năm trong thời gian tới. Đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất là người dân ở khu vực miền núi và ven biển, nhất là nhóm người nghèo, phụ nữ và trẻ em.

Theo kịch bản biến đổi khí hậu của Việt Nam, đến năm 2100, nhiệt độ trung bình của vùng ĐBSCL có thể tăng từ 2,5 – 3,7oC, nước biển dâng trung bình từ 0,8 – 1m, dẫn đến khoảng 39% diện tích ĐBSCL có nguy cơ bị ngập, ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp.

Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích khoảng 40,5 ngàn kilômét vuông, dân số hiện nay là hơn 21,5 triệu người, là vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm của cả nước, đóng góp chủ yếu cho việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và đóng góp trên 50% xuất khẩu nông sản, thủy sản ra thế giới.

Tuy nhiên, Việt Nam xem biến đổi khí hậu vừa là thách thức nhưng cũng là cơ hội để thay đổi định hướng chính sách, tối ưu hoá các nguồn lực đầu tư, thu hút hỗ trợ công cho ngành nông nghiệp.

Nông nghiệp Việt Nam cần chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng “tích hợp đa giá trị”, theo hướng “công nghệ cao, sinh thái, trách nhiệm, bền vững”. Đổi mới và phát triển “thuận thiên”. Đẩy mạnh chuyển đổi hệ thống lương thực, thực phẩm theo hướng “xanh”, giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Chú trọng phát triển kinh tế nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên, duy trì và bảo tồn đa dạng sinh học.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan bày tỏ kỳ vọng đối với các kết quả của COP26 sẽ tạo ra hành tinh xanh hơn, hỗ trợ cho sự sống của trên 7 tỷ người dân toàn cầu. Thế giới có trách nhiệm tạo ra các hành động tập thể cho phát triển bền vững, trong đó đặc biệt lưu ý tới các vùng, quốc gia dễ bị tổn thương do thiên tai và biến đổi khí hậu. Bộ trưởng kêu gọi các nhà đầu tư, các tổ chức quốc tế chung tay cùng Chính phủ Việt Nam đầu tư phát triển đồng bộ hạ tầng nông nghiệp, vừa phục vụ sản xuất, vừa phục vụ phát triển kinh tế nông thôn, sẵn sàng ứng phó với biến đổi khí hậu.

Standard Chartered dành 8,5 tỷ USD giúp Việt Nam phát triển các dự án xanh

“Các lãnh đạo trên thế giới đang thúc đẩy các hành động liên quan đến phòng chống biến đổi khí hậu tại COP26. Đông Nam Á tiếp tục là khu vực đối mặt với nhiều rủi ro từ biến đổi khí hậu. Việt Nam đã đưa ra các mục tiêu đầy tham vọng về năng lượng tái tạo và nguồn vốn cần thiết để giúp Việt Nam chuyển đổi sang một nền kinh tế phát thải các-bon bằng 0 là rất lớn.

Chúng tôi cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ nỗ lực phát triển bền vững của Việt Nam và rất mong được hợp tác với Chính phủ Việt Nam trong quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế phát thải các-bon bằng 0”, ông Jose Vinals, Chủ tịch Ngân hàng Standard Chartered chia sẻ.

Trước sự chứng kiến của Thủ tướng Phạm Minh Chính, các bộ trưởng và ông Jose Vinals, Chủ tịch Ngân hàng Standard Chartered, Standard Chartered đã trao các biên bản ghi nhớ với tổng giá trị 8,5 tỷ USD cho 3 doanh nghiệp Việt Nam nhằm hỗ trợ các dự án phát triển bền vững.

Cụ thể, với Tập đoàn T&T, Standard Chartered tài trợ vốn cho các dự án về môi trường, xử lý chất thải, các dự án điện khí LNG và các dự án năng lượng tái tạo; với Tập đoàn Geleximco, Standard Chartered tài trợ vốn cho các dự án giấy, bột giấy và trồng rừng, dự án nhà máy điện khí LNG, dự án khu du lịch quốc tế và dự án khu logistics và cảng biển; với Công ty cổ phần Tập đoàn Đầu tư và quản lý giáo dục Văn Lang, Standard Chartered tài trợ vốn chazo dự án xây dựng trường đại học đạt tiêu chuẩn xanh.

“Lĩnh vực tư nhân đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nỗ lực phòng chống biến đổi khí hậu – thông qua việc cung cấp những nguồn vốn cần thiết để hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng thân thiện với môi trường, năng lượng sạch và các lĩnh vực trọng yếu khác. Đến năm 2030, nhu cầu vốn tại châu Á là 210 tỷ USD mỗi năm và tổng số vốn cần thiết để đáp ứng nhu cầu này là 3.100 tỷ USD. Tại hầu hết các quốc gia Đông Nam Á, nhu cầu vốn mỗi năm là 100 tỷ USD. Đó là lý do vì sao chúng tôi đầu tư vào Việt Nam để thúc đẩy quá trình phát triển bền vững và xây dựng tương lai thịnh vượng”, ông Jose Vinals chia sẻ.

Để hợp tác xã là nền tảng vững chắc cho ‘tam nông’

Hợp tác xã đang làm tốt vai trò hỗ trợ thành viên phát triển sản xuất, từ đó thúc đẩy “tam nông” phát triển. Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập và kinh tế số, muốn hợp tác xã (HTX) phát triển hiệu quả, bền vững rất cần có những chính sách thông thoáng, phù hợp với đặc thù của mô hình kinh tế tập thể (KTTT).

Phát biểu tại Tọa đàm khoa học “Một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua thực hiện Nghị quyết TW 7, khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Nghị quyết TW 5, khóa IX về kinh tế tập thể”, GS.TS Nguyễn Quang Thuấn, Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương cho biết, phát triển KTTT, HTX là một trong những lực đẩy quan trọng phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân thông qua việc xây dựng các mô hình nông nghiệp xanh, sạch, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao, thông minh, nông nghiệp số, thích ứng với biến đổi khí hậu…

Vẫn còn nhiều điểm nghẽn về đất đai

Theo thống kê của Liên minh HTX Việt Nam, đến nay, khu vực KTTT, HTX đã thu hút 65 triệu thành viên (cả THT và quỹ tín dụng nhân dân). Các HTX sản xuất theo chuỗi, chú trọng chế biến chiếm 25%, từ đó giúp nâng cao giá trị sản phẩm và thu nhập cho thành viên.

Đặc biệt, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết TW 7 khóa X và 20 năm thực hiện Nghị quyết TW 5 khóa IX, các HTX đã góp phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, xây dựng nông thôn mới thông qua việc hoàn thành tiêu chí 13, phát triển nguồn nhân lực và các đặc sản địa phương thông qua tham gia chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP)…

Đến nay, các HTX đã đóng góp 15-70% các mặt hàng cung cấp ra thị trường. Tiêu biểu như HTX nông nghiệp đang cung ứng ra thị trường khoảng 70% lúa gạo, 20-30% thủy sản, 40-55% rau màu…

Có thể thấy, các HTX đã góp phần giảm chi phí sản xuất, đa dạng hóa hoạt động, giảm thiểu những rủi ro trong sản xuất, tăng thu nhập cho kinh tế hộ gia đình. HTX đã giải quyết những vấn đề mà những hộ nhỏ lẻ khó thực hiện được như: Liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm ngành hàng ở địa phương. Chẳng hạn như, HTX Sinh Dược (Ninh Bình) chuyên sản xuất tranh từ lá bồ đề và chế biến các sản phẩm từ dược liệu; HTX rau an toàn Tự Nhiên (Sơn La) chuyên trồng, tiêu thụ các nông sản như rau màu theo chuỗi giá trị hàng hóa…

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, khu vực KTTT, HTX vẫn còn những điểm nghẽn cần được tháo gỡ để thúc đẩy khu vực này phát triển, đáp ứng nhu cầu thị trường. Điểm nghẽn lớn nhất được các đại biểu tham dự buổi Toạ đàm nhìn nhận chính là vấn đề đất đai.

Số liệu dẫn tại Toạ đàm cho thấy hiện nay chỉ có 3% HTX được nhận đất từ địa phương để phát triển sản xuất theo đúng chủ trương về phát triển KTTT của Nhà nước, còn tỷ lệ HTX góp đất vào làm vốn là 8,3%, đặc biệt, tỷ lệ HTX được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ chiếm 9,5-18,5% (tùy khảo sát từng vùng). Điều này gây khó khăn cho HTX phát triển sản xuất.

Như HTX đồ gỗ Mỹ nghệ Hiệp Thắng (Bắc Ninh) đã có 4 cơ sở sản xuất với tổng diện tích 600m2, gồm: xã Song Giang (huyện Gia Bình) 180m2; xã Nghi Khúc (Thuận Thành) 190m2; thị trấn Từ Sơn 110m2; xã Dục Tú – Đông Anh (Hà Nội) 120m2.

Tuy nhiên, theo chia sẻ của ông Nguyễn Trần Hiệp, Giám đốc HTX, hiện HTX muốn mở thêm một cơ sở sản xuất quy mô lớn nữa tại Bắc Ninh, HTX nhiều lần kiến nghị lên chính quyền để được hỗ trợ đất phát triển sản xuất nhưng đến nay vẫn chưa được hỗ trợ.

“Bắc Ninh là địa phương đất chật người đông nên bây giờ HTX muốn có đất để làm cơ sở sản xuất phải tự bỏ tiền túi ra thuê hoặc mua. Điều này gây khó khăn cho HTX vì hiện nguồn vốn để mua các loại gỗ đạt chuẩn rất đắt”, ông Hiệp bày tỏ.

Nhận thấy đất đai là một trong những khó khăn lớn của các HTX hiện nay, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng nếu không có đất để sản xuất, xây dựng trụ sở, nhà xưởng thì HTX không thể thu hút được doanh nghiệp. Trong khi hiện nay ở một số tỉnh, thành, nhất là các tỉnh thành ở phía Bắc vẫn còn tình trạng đất đai để hoang hóa do thiếu nguồn lao động để sản xuất hay do ô nhiễm, thoái hóa mà chưa được cải tạo.

“Mô hình HTX hiện đã phát triển theo đúng quy luật khách quan của thị trường. Nếu quy mô của HTX càng lớn thì càng quyết định được giá cả. Tuy nhiên do thiếu đất nên việc thực hiện sản xuất theo quy mô lớn rất khó khăn. Từ đó, HTX không xây dựng được vùng nguyên liệu đủ lớn nên giá cả bị phụ thuộc thị trường”, Chủ tịch Nguyễn Ngọc Bảo phân tích.

Không chỉ khó khăn về đất đai, hiện nay, đầu ra cho quá trình sản xuất của HTX còn gặp khó khăn. Nguyên nhân một phần là do dịch Covid-19 đang diễn biến hết sức phức tạp, đi cùng với đó là các chính sách tuy đã được ban hành nhưng chưa đi vào thực tiễn.

Duy-Thinh-2-87dfee2558d74d1491-7018-6796

HTX đang hỗ trợ “tam nông” phát triển thông qua xây dựng các mô hình sản xuất hiệu quả, bền vững.

HTX khó khăn cả đầu vào và đầu ra

Hiện ngoài các chính sách hỗ trợ chung, HTX nông nghiệp còn được hưởng một số chính sách đặc thù riêng được quy định tại khoản 3 Điều 6 Luật HTX, như hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ vốn, giống khi gặp khó khăn, thiên tai, dịch bệnh… Tuy nhiên, theo Liên minh HTX Việt Nam, trong giai đoạn 2015-2020, mới có 508 HTX được hỗ trợ với kinh phí (chỉ chiếm khoảng 3,5% tổng số HTX nông nghiệp)… Ngoài ra còn các chính sách như hỗ trợ HTX chế biến, xúc tiến thương mại hay gần đây nhất là Nghị quyết 105/NQ-CP cũng chưa đến được với hầu hết các HTX bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.

Do các chính sách này chưa đến được với các HTX nên hoạt động sản xuất kinh doanh của các HTX gặp rất nhiều khó khăn. Đến nay, 85% nông sản của các HTX nông nghiệp vẫn phải tiêu thụ qua chợ truyền thống, trong đó, chi phí logistics chiếm khoảng 19-25% quy trình sản xuất nên ảnh hưởng đến thu nhập của thành viên và người dân.

Không chỉ khó khăn về đầu ra mà ngay cả đầu vào, các HTX cũng đang bị phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài. Chẳng hạn như giống cây trồng, vật nuôi hay các vật tư như phân bón, thức ăn chăn nuôi, các HTX đều phải nhập từ nước ngoài.

Chia sẻ về vấn đề này, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cho biết, hiện nay, các HTX trồng cây ăn quả ở Sơn La đều phải nhập giống từ Trung Quốc về trồng hay ghép các giống lai ở nước ngoài để nâng cao năng suất. Còn về giá phân bón liên tục tăng cao từ 30-60% so với cùng kỳ năm ngoái nên ảnh hưởng trực tiếp đến vấn để mở rộng quy mô, tái phục hồi kinh tế sau dịch của các HTX.

Ngoài ra, các HTX vẫn còn gặp khó khăn vì Luật HTX 2012 tuy đã ban hành gần 10 năm nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Chẳng hạn như Luật HTX 2012 hiện quy định doanh nghiệp tư nhân, tổ hợp tác không phải là thành viên HTX. Tuy nhiên, theo Phó Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Mạnh Cường cả tổ hợp tác và doanh nghiệp tư nhân đều là những nhân tố không thể thiếu trong chuỗi giá trị và đang góp phần không nhỏ thúc đẩy KTTT, HTX về thành viên, nguồn vốn…

Bên cạnh đó, Luật HTX năm 2012 còn hạn chế vốn góp đối với thành viên HTX là không quá 20%, quy định về kiểm toán còn chung chung. Các quy định về thành lập mới hay giải thể HTX còn chưa rõ ràng, phức tạp. Ngay như việc thành lập HTX tuy đã được rút ngắn nhưng thời gian hoàn thiện thủ tục vẫn còn tới 21 ngày. Hay như hiện nay, dù công nghệ thông tin rất phát triển nhưng việc nộp hồ sơ thành lập vẫn chưa được triển khai theo hình thức online là chưa phù hợp thực tiễn.

Phát triển mô hình KTTT, HTX là hướng đi đúng đắn nhằm xây dựng các chuỗi giá trị hàng hóa chuyên nghiệp, thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, nhìn nhận từ thực tế cho thấy những khó khăn HTX đang gặp phải một phần là do các chính sách hỗ trợ khu vực này còn phân tán.

Hiện nay, chưa có nguồn ngân sách chính thống nào hỗ trợ trực tiếp cho khu vực KTTT, HTX mà các nguồn hỗ trợ đều thông qua các nguồn từ các chương trình mục tiêu quốc gia như xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo, phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số…

Bên cạnh đó, công tác dự báo thị trường đầu vào và đầu ra vẫn chưa được quan tâm thích đáng nên gây khó khăn cho các HTX trong việc lên kế hoạch sản xuất. “Giá đầu vào vật tư nông nghiệp tăng nhanh hơn rất nhiều lần so với giá của các loại sản phẩm nông nghiệp. Trong khi ngay cả những mặt hàng chủ lực phục vụ xuất khẩu như cà phê, tiêu, cây ăn trái, lúa gạo cũng chưa được dự báo cụ thể. Công tác khí hậu cũng chưa được quan tâm thì các HTX chưa thể yên tâm sản xuất”, Chủ tịch Nguyễn Ngọc Bảo cho biết.

Untitled-design-8-min-6090-1635985610.pn

Gỡ khó các chính sách về đất đai, xúc tiến thương mại, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển đổi số… sẽ tạo đà cho HTX phát triển.

Tạo đà cho HTX phát triển

Để tạo điều kiện cho khu vực KTTT, HTX phát triển hiệu quả, bền vững trong thời kỳ mới, Phó Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Văn Thịnh, cho biết Nghị quyết TW 5 khóa IX đã ban hành 20 năm. Trong bối cảnh mới đòi hỏi Hội đồng lý luận Trung ương nghiên cứu nghị quyết mới về KTTT, HTX sao cho phù hợp với tình hình kinh tế mới.

Hiện nay, phát triển KTTT, HTX phải xuất phát từ thực tiễn, lấy thành viên làm trung tâm. Để bảo đảm lợi ích cho thành viên và hỗ trợ HTX phát triển, theo Phó Chủ tịch Nguyễn Văn Thịnh, cần bố trí nguồn ngân sách hàng năm để phát triển KTTT, HTX. Bên cạnh đó, một loạt các chính sách như quy hoạch, khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực cho HTX, đất đai, chuyển đổi số cần ban hành kịp thời và cần có bố trí ngân sách đi kèm.

Để phát triển được mô hình KTTT, HTX, cần sự vào cuộc của các cấp ngành từ trung ương và địa phương. Theo Phó Chủ tịch Nguyễn Văn Thịnh, thực tế nơi nào cấp ủy chính quyền quan tâm thì nơi đó HTX phát triển. Chính vì vậy, bên cạnh việc nâng cao nhận thức về mô hình KTTT, các địa phương cần quan tâm đúng mức đến các HTX.

“Hiện nay, vẫn có những HTX ra đời chỉ để thực hiện theo tiêu chí 13 của chương trình xây dựng nông thôn mới nên nhiều địa phương can thiệp quá sâu vào quá trình hoạt động của HTX. Điều này vô tình kìm hãm sự phát triển của mô hình này”, Phó Chủ tịch Nguyễn Văn Thịnh dẫn chứng.

Để HTX phát triển cần có khung khổ pháp lý, vậy nên việc hoàn thiện thể chế chính sách, trong đó có sửa đổi, bổ sung Luật HTX năm 2012 sao cho phù hợp với nhu cầu phát triển của từng loại hình HTX trong thời kỳ kinh tế hiện nay là rất cần thiết.

Cùng chia sẻ quan điểm tháo gỡ khó khăn cho các HTX, Phó Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Lê Văn Nghị cho biết, Nhà nước đang khuyến khích phát triển HTX quy mô lớn. Để làm được điều này, HTX cần phải tích tụ ruộng đất, đầu tư nhà xưởng chế biến chuyên nghiệp. Chính vì vậy, các nghị quyết về đất đai cần theo kịp nội dung này để hỗ trợ thành viên, người dân góp đất vào HTX, từ đó mới có thể phát triển các HTX có quy mô lớn cấp huyện, cấp tỉnh.

“Cần quan tâm cấp giấy chứng nhận sử dụng đất cho các HTX. Vì đây chính là tài sản đảm bảo để các HTX có tài sản thế chấp để vay vốn từ các ngân hàng”, Phó Chủ tịch Lê Văn Nghị nhấn mạnh.

GS.TS Nguyễn Quang Thuấn, Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương cho biết, phát triển KTTT, HTX là một trong những lực đẩy quan trọng phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân thông qua việc xây dựng các mô hình nông nghiệp xanh, sạch, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao, thông minh, nông nghiệp số, thích ứng với biến đổi khí hậu…

Chính vì vậy, Hội đồng lý luận Trung ương sẽ nghiên cứu các vướng mắc của HTX về cơ chế, chính sách, từ đó tháo gỡ để tạo điều kiện cho khu vực KTTT, HTX tiếp tục phát triển gắn với các chương trình mục tiêu quốc gia và đưa HTX phát triển theo chiều sâu, hiệu quả, bền vững…

Huyền Trang

Nguồn: vnbusiness

Toạ đàm khoa học “Một số vấn đề thực tiễn qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về kinh tế tập thể

Chiều ngày 3/11, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phối hợp cùng với Hội đồng Lý luận Trung ương đã tổ chức Toạ đàm khoa học “Một số vấn đề thực tiễn qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về kinh tế tập thể”.

Quang cảnh tọa đàm

Tham dự toạ đàm, về phía Hội đồng Lý luận Trung ương có đồng chí GS.TS Nguyễn Quang Thuấn, Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương, Đồng chí TS Bùi Trường Giang, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội đồng cùng các đồng chí trong Tổ Biên tập, Ban Thư ký khoa học. Về phía Liên minh Hợp tác xã Việt Nam có các đồng chí Uỷ viên Đảng đoàn, Thường trực Liên minh Hợp tác xã Việt nam, nguyên Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Tổ trưởng và Trưởng các Nhóm biên tập, xây dựng các Báo cáo Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX và 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012.

Toạ đàm được các nhà khoa học, chuyên gia của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đại diện cho khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã bàn luận một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Đồng chí GS.TS Nguyễn Quang Thuấn, Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương phát biểu tại tọa đàm

Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn cũng được Đảng nhấn mạnh và nêu rõ, trong đó có những nội dung quan trọng như: Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Văn kiện Đại hội Đảng cũng đề cập đến việc khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, sạch, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao, thông minh, nông nghiệp số, thích ứng với biến đổi khí hậu; tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với quá trình đô thị hóa, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững; thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và xây dựng nông thôn mới cấp thôn, bản…

Đồng chí Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phát biểu tại tọa đàm

Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002, nhận thức trong hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã được nâng lên. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách được quan tâm xây dựng, hoàn thiện. Tổ chức bộ máy và công tác quản lý nhà nước từng bước được củng cố. Ban chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã các cấp được thành lập từ Trung ương đến địa phương. Khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã, nhất là những năm gần đây có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, cơ bản khắc phục được tình trạng yếu kém kéo dài; đã xuất hiện thêm nhiều loại hình, mô hình kinh tế tập thể, hợp tác xã hoạt động hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo cho các thành viên, góp phần xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, từng bước khẳng định vị trí, vai trò nền tảng của khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã trong nền kinh tế quốc dân.

 Quỳnh Trang – Quang Trung
Ảnh: Lê Huy
Nguồn: VCA

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc: đề cao nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi trong phát triển hợp tác xã

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã dành trọn ngày 2/11 để khảo sát và làm việc chuyên đề với lãnh đạo chủ chốt của tỉnh Ninh Bình về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã. Cuộc làm việc này diễn ra trong bối cảnh cả nước đang tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Và Bộ Chính trị đang nghiên cứu chủ trương mới để phát triển thành phần kinh tế này.

Như VnBusiness đưa tin, sáng 2/11, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã khảo sát hai mô hình hợp tác xã (HTX Gốm Bồ Bát và HTX Sinh Dược) trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Đây là các HTX phát triển từ kinh tế hộ thành các HTX quy mô, kết nối được chuỗi giá trị từ sản xuất nguyên liệu đến bán lẻ. Đây là những minh chứng tiêu biểu cho sự phát triển thực chất của 421 HTX và 500 tổ hợp tác, đang thu hút hơn 330.000 lao động, chiếm gần 60% tổng số lao động của tỉnh. Nhiều HTX đã giải quyết tốt vấn đề phúc lợi, quyền lợi của thành viên; quan tâm người lao động, có chiến lược phát triển, nhìn nhận về kinh tế thị trường rất tốt.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh Cương lĩnh của Đảng đã khẳng định kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể (KTTT) ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Do đó KTTT nói chung, HTX nói riêng có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta. Đồng thời tác động bao trùm cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, môi trường và an sinh xã hội. Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cho rằng cần tổng kết lý luận, tổng kết mô hình, nhân rộng cách làm hiệu quả trong phát triển KTTT, HTX.

HTX-jpeg-6668-1635880593.jpg

Sự phát triển và nâng cao vai trò của KTTT, HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Trong ảnh: Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo tại cuộc làm việc chuyên đề với tỉnh Ninh Bình về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, chiều ngày 2/11/2021.

Trong chuyến khảo sát của Chủ tịch nước, đại diện các HTX ở Ninh Bình đã mạnh dạn nói lên những tâm tư, nguyện vọng của mình. Đây đồng thời cũng là tiếng nói chung của khu vực kinh tế hợp tác, HTX trên cả nước nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững trong thời gian tới.

Những “tâm tư” của HTX

HTX sản xuất, dịch vụ gốm thương mại Bồ Bát nằm ở xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, nơi có làng gốm cổ Bồ Bát với lịch sử 3000 năm. Nghề gốm được ông Phạm Văn Vang, người con Làng gốm, khôi phục từ 13 năm trước và sau đó tham gia hình thành HTX gốm Bồ Bát.

Tiếp đón Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cùng đoàn cán bộ Liên minh HTX Việt Nam, các ban ngành tỉnh Ninh Bình, Giám đốc Phạm Văn Vang chia sẻ: “Với nền tảng vững vàng, HTX gốm Bồ Bát vẫn có bước đi ổn định trong bối cảnh dịch Covid-19 đầy thách thức và tự tin hoạt động tốt trong thời kỳ bình thường mới”.

Tuy nhiên, theo ông Vang, để phục hồi và bứt tốc, HTX rất cần sự đồng hành của cơ quan quản lý. Đầu tiên cần kể đến chính sách đất đai. Bản thân HTX Bồ Bát đang có nguyện vọng được hỗ trợ thêm 2 ha để mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm việc làm mới. Thực tế cho thấy, mong muốn của HTX Bồ Bát cũng là mong muốn chung của không ít HTX trên cả nước.

Thứ hai là về cơ sở hạ tầng, công nghệ. Một điểm chung của nhiều HTX hiện tại, ngay cả với các HTX chuyên ngành, quy mô lớn, có doanh thu nhiều tỷ đồng mỗi năm như HTX Bồ Bát cũng đang gặp khó khăn về khả năng tiếp cận công nghệ, đổi mới phương thức sản xuất theo hướng hiện đại, chuỗi giá trị.

Thứ ba là về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo vị Giám đốc HTX Bồ Bát, trong những năm qua dù Liên minh HTX Việt Nam, chính quyền địa phương đã dành không ít nguồn lực cho việc đào tạo, nâng cao trình độ lao động, song khu vực HTX so với doanh nghiệp vẫn còn một khoảng trống về năng lực, trình độ chuyên ngành.

Thứ tư, về xúc tiến thương mại. Bắt nhịp với xu thế thị trường, các HTX trên cả nước đang dần tiếp cận với các phương thức bán hàng mới từ thương mại điện tử, chuyển đổi số… Các cơ quan quản lý nhà nước, Liên minh HTX Việt Nam cũng có nhiều hỗ trợ về quảng bá hình ảnh, xây dựng sản phẩm OCOP, tuy nhiên để sản phẩm HTX đủ sức cạnh tranh sòng phẳng với doanh nghiệp, tiếp cận các thị trường lớn thì cần nhiều giải pháp mang tính đột phá.

Đồng tình với quan điểm của đại diện HTX Bồ Bát, ông Vũ Trung Đức – Giám đốc HTX Sinh Dược, xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn nói thêm rằng, chủ trương thực hiện “mục tiêu kép”, chuyển từ “zero Covid” sang sống chung với đại dịch là chìa khoá để HTX nói riêng và đơn vị sản xuất kinh doanh nói chung phục hồi.

“Mong muốn lớn nhất của HTX Sinh Dược lúc này là đại dịch được kiểm soát. Vì vậy, chúng tôi kỳ vọng chính quyền các cấp, địa phương kiểm soát dịch tốt hơn để tình trạng giãn cách, tê liệt hoạt động không còn xảy ra. Với các đơn vị sản xuất, kinh doanh, đây chính là giải pháp cần kíp nhất, bên cạnh các nguồn lực kích cầu”, ông Đức nhấn mạnh.

Cần sự vào cuộc của các cấp ngành

Sau khi lắng nghe tiếng nói của đại diện các HTX, tại cuộc làm việc chuyên đề vào buổi chiều ngày 2/11 với lãnh đạo chủ chốt của tỉnh Ninh Bình về phát triển KTTT, HTX, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cho rằng kinh tế hộ, kinh tế cá thể nhỏ lẻ như kinh tế Việt Nam đi ra thị trường khó có thể cạnh tranh. Nên cần phải tổ chức, sắp xếp lại để có nguồn lực tốt hơn và phải khai thác lợi thế tiềm năng của mô hình HTX. Đó là lợi thế về xã hội, lợi thế về số đông để tạo ra sự thay đổi cơ bản, sâu sắc về phương thức sản xuất trong nông nghiệp cũng như các lĩnh vực của đời sống nông thôn.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nêu ví dụ cụ thể trường hợp HTX gốm Bồ Bát. Từ nguồn vốn ban đầu chỉ có 5 triệu đồng nhưng nhờ được vay vốn hơn 200 triệu đồng từ Quỹ hỗ trợ mà HTX này đã phát triển được như ngày nay. Từ đó Chủ tịch nước nhấn mạnh muốn phát triển HTX mà chỉ hô khẩu hiệu, không có nguồn lực hỗ trợ thì khó thành công. Cách đây 4 năm Thủ tướng Chính phủ đã quyết định bổ sung 1000 tỷ đồng vào Quỹ hỗ trợ phát triển HTX. Tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục bổ sung vốn cho các Quỹ phát triển HTX đi cùng với nguồn vốn vay ưu đãi từ ngân hàng chính sách.

Chủ tịch nước khẳng định Nhà nước hỗ trợ sự phát triển của HTX nhưng tôn trọng nguyên tắc thị trường, không quay lại cơ chế bao cấp, phi kinh tế mà đề cao nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: “Sự phát triển và nâng cao vai trò của KTTT, HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp cần trực tiếp lãnh đạo và coi đây là nhiệm vụ chính trị cần tập trung chỉ đạo. Nếu hệ thống chính trị của chúng ta không quan tâm thì khó có thể thành công trong xây dựng KTTT ở nước ta. Vai trò của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng về phát triển kinh tế hợp tác, HTX là vô cùng quan trọng trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay”.

Chủ tịch nước đặc biệt lưu ý trong thời kỳ hội nhập, tâm thế của các HTX, cụ thể là những người đứng đầu HTX là vô cùng quan trọng. Để tiến lên, các giám đốc HTX tự tin với tâm thế của một doanh nhân thực thụ, cương trực và có trách nhiệm xã hội.

Các HTX cần phát huy được 3 vai trò chính, đầu tiên là một tổ chức kinh tế hoàn thiện, có thể tạo ra nhiều việc làm, thu nhập cao cho thành viên. Thứ hai là đơn vị tự chủ lấy con người là trung tâm trong quá trình toàn cầu hóa, coi trọng việc tạo ra phúc lợi xã hội. Và cuối cùng, HTX là tổ chức dựa vào cộng đồng, đề cao tính dân chủ và nguyên tắc tự nguyện.

22-7668-1635861109.jpg

HTX rất cần sự đồng hành của cơ quan quản lý. Trong ảnh: Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc thăm HTX Sinh Dược sáng ngày 2/11/2021.

Để mô hình kinh tế HTX thành công, Chủ tịch nước khẳng định cần xây dựng một chiến lược phát triển HTX, tổ hợp tác. Để làm được việc đó, các ban, bộ ngành liên quan cần tập trung tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn hiện nay, nhất là những hạn chế, bất cập về pháp luật, chính sách, quản trị; vấn đề tiếp cận đất đai, nguồn vốn, công nghệ, thị trường, phát triển chuỗi giá trị, đào tạo lao động.

Tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch nước, ông Nguyễn Ngọc Bảo – Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cho rằng để bứt tốc, các HTX cần có sự chuyển biến về tư duy sản xuất. Một thực tế là rất nhiều HTX được thành lập sau năm 2012 hiện có những giám đốc trẻ, có trình độ cao, nên khả năng sáng tạo cao, tiếp cận nhanh với chuyển đổi số, thương mại điện tử…

Các HTX thành lập sau năm 2012 cũng đang có xu hướng hoạt động theo chuyên ngành, nghĩa là tập trung vào sản phẩm thế mạnh, có thương hiệu, đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Ở Ninh Bình, HTX Bồ Bát và Sinh Dược là những trường hợp điển hình.

Còn ở góc nhìn của bộ ngành, ông Võ Thành Thống – Thứ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư nhận định, để HTX phát triển cần tiếp tục hoàn thiện 3 điểm, gồm bổ sung, hoàn thiện hành lang pháp lý, hoàn thiện thể chế chính sách đặc biệt về chuyển đổi số, công nghệ cao cho HTX, và nâng cao năng lực quản lý, trình độ lao động HTX.

Ông Nguyễn Duy Hưng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cũng cho rằng, cần có cơ chế mạnh hơn cho công tác đào tạo, nâng cao năng lực quản lý, trình độ nhân lực HTX. Không cần một số tiền quá lớn, chỉ cần mỗi năm từ 10 – 15 tỷ đồng, thì mục tiêu mỗi HTX có một cán bộ trình độ cao là không quá khó.

Bên cạnh đó, theo các chuyên gia, để HTX vươn tầm, cần có một cuộc “cách mạng” cho các HTX hoạt động kém hiệu quả, đặc biệt là các HTX toàn xã, thu hút hàng trăm, thậm chí hàng nghìn thành viên nhưng giá trị mang lại không cao. Nếu không có khả năng thay đổi thì cần dứt khoát giải thể.

Có thể thấy, bên cạnh việc phát huy tối đa nội lực, sự đồng hành của các ban ngành quản lý là vô cùng quan trọng để các HTX phục hồi và kỳ vọng bứt tốc sau dịch. Thực tế là ngay sau khi làn sóng dịch lần thứ tư được kiểm soát, các biện pháp giãn cách được nới lỏng, Liên minh HTX Việt Nam đã tổ chức hàng loạt hội nghị, diễn đàn nhằm tìm giải pháp giúp các HTX và đơn vị thành viên phục hồi, thích ứng với tình hình mới.

Nếu tiếp tục có thêm các chính sách, nguồn lực hỗ trợ, cùng với một tâm thế mới, khu vực HTX hoàn toàn có thể tự tin vươn tầm, cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường.

Hiến Nguyễn