Thay đổi tư duy trong phát triển nông nghiệp giai đoạn tới

Chiều 29/11, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức hội thảo tham vấn “Dự thảo Chiến lược Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2050″. Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo tham dự Hội thảo và phát biểu ý kiến tham luận.
Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phát biểu tại Hội thảo tham vấn “Dự thảo Chiến lược Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2050″. Ảnh: Bích Hồng/BNEWS/TTXVN
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan, hiện nay ngành nông nghiệp Việt Nam đang tồn tại hai vấn đề lớn. Đó là, ngành nông nghiệp vẫn phát triển dựa trên đơn ngành; sử dụng nhiều đất đai, chi phí đầu vào thay vì sử dụng yếu tố khoa học công nghệ hay những mô hình nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ. Muốn phát triển bền vững, ngành nông nghiệp cần chuyển đổi quan niệm và cấu trúc dựa trên việc phát triển những giá trị khác ngoài sản lượng.
“Những năm gần đây GDP đóng góp cho ngành nông nghiệp tăng nhưng chi phí đầu vào cũng tăng theo nên giá trị gia tăng bị giảm đi, thu nhập trực tiếp của người nông dân không đồng hành với sự tăng trưởng của ngành”, Bộ trưởng cho hay.
Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, thị trường hiện không chỉ mua nông sản dựa trên giá cả mà dựa trên nhiều giá trị khác như: không tác động tới biến đổi khí hậu, môi trường, sức khỏe của chính người nông dân… Đó là câu chuyện ngành cần định vị lại những giá trị cối lõi, tiếp cận xu thế tại tất cả những ngành hàng. Chiến lược phải hướng đến sự tăng trưởng bao trùm, tạo ra bao nhiêu việc làm, người nông dân được thụ hưởng sự phát triển của ngành nông nghiệp.

Ông Cao Đức Phát – nguyên Phó Ban Kinh tế Trung ương cũng cho rằng, chiến lược cần có tư duy mới và hoàn toàn khác. Bối cảnh hiện nay đặt ra nhiều yêu cầu thay đổi tư duy. Sản phẩm nông nghiệp ngày càng không chỉ đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm của người tiêu dùng còn nhiều yêu cầu mới như: sản phẩm phát thải carbon thấp. Nông nghiệp Việt Nam không thể không thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Ngành nông nghiệp đang đóng góp 20% phát thải nên không thể đứng ngoài. Do đó, ngành phải thích ứng và tham gia tích cực để giảm phát thải khí ngày kính.

Theo ông Cao Đức Phát, trong nông nghiệp muốn có 1 đồng tăng trưởng thì cần 5 đồng đầu tư. Vậy nếu muốn tăng trưởng tăng 3% thì đầu tư tăng 15%. Bởi vậy, phải duy trì cơ cấu đầu tư; đầu tư của doanh nghiệp có thể tăng nhưng quan trọng là ngân sách và tín dụng.
Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho rằng một số mục tiêu trong chiến lược chưa đề cập đến. Ví dụ, thu nhập bình quân đầu người nước ta năm 2030 là 7.500 USD/năm, vậy thu nhập đầu người ở khu vực nông thôn là bao nhiêu. Đây là chỉ tiêu đầu ra rất quan trọng để tính chỉ tiêu đầu vào.
Về dự thảo chiến lược, ông Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn cho biết, trong bối cảnh mới, cần có một chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn mang tính hệ thống, có định hướng bao quát, dài hạn trong 10 năm và có thể có những tầm nhìn dài hạn hơn nữa.
Chiến lược này hiện thực hóa định hướng của Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XIII; trong đó, quá trình tái cơ cấu nông nghiệp cần gắn chặt hơn với xây dựng nông thôn mới thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững gắn với những cơ hội về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, thị trường. Từ đó, hướng tới xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh.
Mục tiêu đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng GDP nông lâm thủy sản đạt bình quân từ 2,5-3%/năm, tốc độ tăng năng suất lao động nông lâm thủy sản đạt bình quân từ 5,5-6%/năm giai đoạn 2021-2030. Đến năm 2050, phấn đấu Việt Nam trở thành một trong 10 nước có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới.

Theo đó, đổi mới tư duy về quản lý, quản trị nông nghiệp dựa trên các quy luật của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức và hành động xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại.

Chuyển đổi mạnh mẽ từ nhận thức tới hành động về phát triển nền nông nghiệp bền vững theo hướng nông nghiệp xanh, nông nghiệp sinh thái. Cùng đó, chuyển đổi tư duy của nông dân về phát triển kinh tế nông nghiệp, tập trung nâng cao giá trị, chất lượng, hiệu quả sản xuất; chuyển từ phát triển đơn ngành sang tích hợp đa ngành, từ “đơn giá trị” sang “tích hợp đa giá trị”.
Ngoài ra, đẩy mạnh tư duy gắn kết chặt chẽ giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ. Đồng thời, đổi mới, đa dạng hình thức, phương pháp nhằm thay đổi nhận thức và tư duy, tập trung phổ biến những cách làm hay, mô hình tốt trong phát triển nông nghiệp, ông Trần Công Thắng cho hay.
Theo Bnews
Nguồn VCA

‘Cần khuyến khích phát triển thị trường quyền sử dụng đất’

Khuyến khích phát triển thị trường quyền sử dụng đất sẽ tạo điều kiện tích tụ ruộng đất, phát triển vùng chuyên canh, theo Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã.

Chiều 26/11, Ban Kinh tế Trung ương và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đồng chủ trì Hội thảo “Cơ chế chính sách huy động nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, nông thôn”.

Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo cho biết, số hộ cá thể tham gia các HTX nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay quá thấp, khoảng 30%, trong khi con số này ở các nước hầu hết là 100%.

“Nếu hộ nông dân tập hợp vào HTX sẽ tạo ra chuỗi giá trị, hạn chế rủi ro, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng, hạn chế thủ tục cho các tổ chức tín dụng”, ông Bảo nói.

Ông cũng cho rằng, điều kiện cần thiết để phát triển các chuỗi giá trị nông sản chủ lực quốc gia còn nhiều hạn chế. Quy hoạch vùng nguyên liệu trong liên kết vùng, tích tụ và tập trung ruộng đất, kết cấu hạ tầng sản xuất và thông tin… còn bất cập. Do đó, ông đề nghị, cần sớm sửa đổi Luật Đất đai và ban hành chính sách khuyến khích phát triển thị trường quyền sử dụng đất.

“Khi đó sẽ tạo điều kiện tích tụ và tập trung ruộng đất phát triển vùng chuyên canh nông sản lớn. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cho quy hoạch và phát triển chuỗi giá trị sản phẩm nông sản”, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam khẳng định.

Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo. Ảnh: TTX

TS. Nguyễn Như Quỳnh (Phó Viện trưởng phụ trách Viện Chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài chính) đánh giá, chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp chưa khuyến khích người nông dân sử dụng đất hiệu quả. Định hướng, giải pháp về cơ chế, chính sách tài chính phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 nêu rõ phải hoàn thiện các chính sách thuế, hướng đến mục tiêu khuyến khích, hỗ trợ phát triển nông nghiệp bền vững.

Cụ thể, sẽ giảm 50% thuế thu nhập cá nhân với thu nhập từ tiền lương, tiền công của nhân lực công nghệ cao làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông sản… Đồng thời, kéo dài thời gian cho thuê đất đối với khu vực kinh tế tư nhân; ưu đãi trong chuyển nhượng, thế chấp quyền sử dụng đất; giá thuê đất ở mức thấp nhất và miễn tiền thuê đất cho các cơ sở ngành nghề nông thôn, nhất là cơ sở sản xuất nông nghiệp sạch.

Ông Nguyễn Thanh Dương (Vụ trưởng Vụ Kinh tế nông nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thông tin, trong giai đoạn vừa qua, để tạo nên 1 đồng tăng trưởng GDP thì trung bình toàn nền kinh tế phải đầu tư 7,2 đồng vốn. Trong khi đó, để tạo nên 1 đồng tăng trưởng GDP, ngành nông nghiệp chỉ cần đầu tư 5,5 đồng vốn.

Tuy nhiên, cơ chế chính sách đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn vẫn còn chồng chéo, môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thuận lợi. Chính sách đầu tư cũng thiếu đồng bộ, chưa đủ mạnh và bố trí nguồn vốn còn bất hợp lý như nặng về thủy lợi (khoảng 60%), ưu tiên cho cây lúa, một số cây khả năng đem lại lợi nhuận cao lại ít được đầu tư…

Vì vậy, ông Dương kiến nghị đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh, giảm gánh nặng thuế, phí… cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt, tiếp tục đẩy mạnh đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, xác định doanh nghiệp đóng vai trò “bà đỡ” để đưa công nghệ, quản lý, vốn và thị trường vào sản xuất nông nghiệp.

Thứ trưởng Bộ Tài chính Võ Thành Hưng cho biết hiện có khoảng 14.000 doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, chính sách bảo hiểm nông nghiệp có khó khăn do rủi ro lớn. Do đó, Bộ Tài chính sẽ xây dựng chính sách thuế theo hướng mở rộng đối tượng bảo hiểm nông nghiệp để chia sẻ rủi ro. “Đầu tư ngân sách nhà nước cho khu vực nông nghiệp, nông thôn có thể tăng gấp đôi so với giai đoạn trước để đáp ứng nhu cầu phát triển”, ông Hưng nói.

Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung Nguyễn Duy Hưng. Ảnh: Hiếu Duy

Phó trưởng Ban Kinh tế Trung Nguyễn Duy Hưng cho hay, Nghị quyết Đại hội Đảng XIII đặt ra nhiệm vụ xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Do đó, Nghị quyết 26 về nông nghiệp, nông thôn, nông dân năm 2008 sẽ được tổng kết để xem những kết quả đã làm được, những việc còn nợ người dân.

Phó trưởng Ban chỉ đạo trung ương tổng kết thực hiện Nghị quyết 26 ghi nhận ý kiến đề xuất của các chuyên gia. Ông nói, tất cả sẽ được tập hợp, làm cơ sở nghiên cứu xây dựng dự thảo chính sách mới, đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn, tạo động lực phát triển cho nông nghiệp.

Thống kê cho thấy, sau hơn 13 năm thực hiện Nghị quyết 26, nông nghiệp có bước phát triển vượt bậc, trở thành trụ đỡ của nền kinh tế trong những thời điểm kinh tế gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong giai đoạn chịu nhiều tác động của Covid-19. Thu nhập bình quân năm ở nông thôn tăng nhanh hơn đô thị, từ 12,8 triệu đồng một người năm 2010 lên trên 42 triệu đồng một người năm 2020, vượt mục tiêu đề ra. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều ở nông thôn giảm nhanh, bình quân giảm khoảng 1,5% mỗi năm và đến hết 2020 còn 4,2%.

“Thực tế cho thấy nợ xấu trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn lại thấp nhất trong các ngành kinh tế. Thời gian tới cần tăng cường hơn nữa nguồn vốn tín dụng cho khu vực này”, ông Hưng nhấn mạnh.

Theo Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương, ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Để hiện thực hóa Nghị quyết Đại hội XIII về “nông dân thông minh”, các Bộ ngành chức năng phải đẩy mạnh chuyển đổi số, sử dụng trí tuệ nhân tạo, xây dựng cơ sở dữ liệu số lớn của ngành nông nghiệp từ đất đai, thổ nhưỡng, cây trồng, vật nuôi… đến thị trường. Đồng thời, quan tâm các gói bảo hiểm mùa màng cho người nông dân bên cạnh bảo hiểm khoản vay…

Theo Ban Kinh tế Trung ương, giai đoạn 2008-2020, nông nghiệp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao (2,94% một năm) và phát triển khá toàn diện, chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện hơn. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tăng trưởng 8,17% một năm, cán cân thương mại liên tục xuất siêu, nông sản Việt Nam có mặt trên 196 quốc gia và vùng lãnh thổ, đưa Việt Nam thành một trong những cường quốc nông sản; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, giảm nghèo bền vững. Năm 2020, sản lượng lúa gạo bình quân đầu người đạt 438,2 kg, cao hơn Thái Lan và gấp 3,5 lần Ấn Độ.

Nguồn: Vnexpress

Nâng cấp tiêu chuẩn hữu cơ để mở rộng thị trường cho HTX

Sản xuất nông nghiệp hữu cơ đang là hướng đi của không ít người dân, HTX, doanh nghiệp. Tuy nhiên, làm sao để hạn chế được chi phí và bảo đảm đáp ứng yêu cầu thu mua của các quốc gia trên thế giới vẫn là mong muốn của HTX.

Liên đoàn quốc tế các phong trào nông nghiệp hữu cơ (IFOAM) cho biết năm 2020, đã có không ít người dân, HTX và doanh nghiệp tại 46/63 tỉnh thành ở Việt Nam tham gia sản xuất hữu cơ. Diện tích canh tác hữu cơ đã tăng từ 53.000 ha năm 2016 lên 240.000 ha và có khoảng 60 doanh nghiệp xuất khẩu nông sản hữu cơ đi các thị trường Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản… với mức kim ngạch 335 triệu USD.

Chưa tự tin với tiêu chuẩn Việt Nam?

Với mong muốn phát triển bền vững và nâng cao thu nhập cho thành viên và người dân, thời gian qua đã có không ít HTX đầu tư sản xuất theo hướng hữu cơ. Tiêu biểu như HTX nông sản sạch canh tác tự nhiên Triệu Phong (Quảng Trị) đã được chứng nhận tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ quốc gia (TCVN 11041-1:2017).

Tuy nhiên, theo Giám đốc Nguyễn Hữu Đạt, sản phẩm gạo hữu cơ của HTX mới chỉ đáp ứng được thị trường trong nước thông qua các hệ thống siêu thị Coop.mart, hệ thống cửa hàng Bác Tôm và các kênh phân phối khác ở TP.HCM, Đà Nẵng, Hà Nội và một số tỉnh, thành khu vực miền Trung. Còn việc xuất khẩu ra nước ngoài thì rất khó vì hiện mỗi thị trường yêu cầu một chứng nhận khác nhau.

Tương tự như HTX Triệu Phong, HTX dịch vụ nông nghiệp sạch hữu cơ Thanh Xuân (Hà Nội) sản xuất rau theo tiêu chuẩn PGS (được xây dựng dựa trên tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ quốc gia) nhưng nông sản của HTX chỉ tiêu thụ trong nước, trong đó tập trung vào hệ thống cửa hàng nông sản sạch ở Hà Nội.

3914-nha-kinh-2-9886-1637578288.jpg

Dù dạt tiêu chuẩn hữu cơ của Việt Nam nhưng nhiều HTX vẫn chưa thể xuất khẩu.

Chia sẻ với VnBusiness, bà Hoàng Thị Hậu, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX Thanh Xuân, cho biết đã có doanh nghiệp Nhật về khảo sát vùng trồng rau của HTX nhưng họ không thu mua với lý do dù sản xuất theo hướng hữu cơ nhưng tiêu chuẩn HTX đang áp dụng chưa đủ nghiêm ngặt. Muốn xuất khẩu sang nước này, HTX phải đáp ứng sản xuất theo tiêu hữu cơ nông nghiệp Nhật Bản- JAS.

Thực trạng của hai HTX trên cho thấy, tiêu chuẩn sản xuất hữu cơ trong nước là TCVN 11041-1:2017 dù đã được chính thức ban hành vào năm 2019, tuy nhiên khi áp dụng vào thực tiễn sản xuất của các HTX cho thấy vẫn còn bộc lộ những nhược điểm nhất định.

Chẳng hạn như hiện nay, bộ tiêu chuẩn này mới chỉ quy định khi sản xuất, người dân, HTX, doanh nghiệp phải sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hữu cơ. Tuy nhiên, đó là những loại phân nào, thuốc nào thì lại không nêu cụ thể nên gây khó cho HTX trong quá trình sản xuất.

“Không biết tất cả các phân hữu cơ trong danh mục của Bộ NN&PTNT có được dùng cho sản xuất hữu cơ theo tiêu chuẩn của Việt Nam hay không? Trong khi trên thị trường hiện có nhiều sản phẩm ghi nhãn là hữu cơ nhưng chưa chắc đã đạt tiêu chuẩn trong sản xuất” là băn khoăn của bà Hoàng Thị Hậu.

Không chỉ vậy, do mới được ban hành vào năm 2019 nên việc áp dụng hệ thống tiêu chuẩn TCVN 11041-1:2017 vào sản xuất vẫn chưa lâu nên quá trình kiểm tra, giám sát và chứng nhận vẫn chưa được chặt chẽ. Chia sẻ vấn đề này, ông Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, cho biết việc tính phí để một tổ chức làm chứng nhận hữu cơ vẫn còn chưa rõ ràng nên mỗi nơi làm một kiểu. Có nơi thì thu theo sản lượng nông sản, có nơi thì đóng theo số lượng thành viên, có nơi thì đóng theo diện tích sản xuất.

Nguyên nhân là do trong bộ tiêu chuẩn hữu cơ chưa có quy định mức chi phí cụ thể  cho diện tích sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ nên không có căn cứ cho các tổ chức chứng nhận thu phí của nông dân, HTX. Chính vì vậy, việc thu phí làm chứng nhận hữu cơ hiện nay vẫn bị thả nổi. Trong khi HTX, người dân chỉ làm theo cảm tính.

Chính vì chưa có những quy định chặt chẽ, rõ ràng nên việc áp dụng tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam đang gây ra những khó khăn cho các HTX. Mà điều rõ ràng nhất là nông sản dù được chứng nhận tiêu chuẩn hữu cơ nhưng không đáp ứng được các hàng rào kỹ thuật của các nước trên thế giới.

Nâng cấp tiêu chuẩn, giảm chi phí chứng nhận

Vì chưa đảm bảo các yêu cầu nhất định trong quy trình sản xuất nên bộ tiêu chuẩn hữu cơ quốc gia của Việt Nam vẫn chưa thu hút nhiều HTX thực hiện. Thay vào đó, nhiều HTX đã áp dụng các tiêu chuẩn hữu cơ phổ biến khác như: JAS (Nhật Bản),  USDA ORGANIC (Mỹ), EcoVeg (Đức)…

HTX Phước Hưng (Bình Phước) chuyên sản xuất hạt điều hữu cơ đạt tiêu chuẩn quốc tế (FLO). Tiêu chuẩn này không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn đáp ứng yêu cầu của các thị trường “khó tính” như Đức, Hà Lan, Hàn Quốc…  Điều đó đã khẳng định chất lượng điều của HTX trên thị trường và bảo đảm thu nhập cao cho người nông dân.

HTX-Nga-Hai-2-5714-1587281071-9984-2109-

Nâng cấp tiêu chuẩn hữu cơ quốc gia sẽ thu hút nhiều HTX mở rộng sản xuất theo hướng này.

Thế nhưng, điều lo lắng của các HTX sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế là chi phí chứng nhận rất cao. Chia sẻ với VnBusiness, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX Phước Hưng Vũ Đức Bộ, cho biết với 1.400 ha điều sản xuất theo tiêu chuẩn FLO, mỗi năm HTX phải đóng tiền tỷ để làm chứng nhận.

“Chỉ có chứng nhận hữu cơ quốc tế mới có thể xuất khẩu được. Nhưng hiện, HTX phải tự lo liệu trong khi chi phí chứng nhận rất cao, năm nào cũng phải chứng nhận lại. Chính vì vậy, việc duy trì chứng nhận hữu cơ chính là gánh nặng đối với HTX”, ông Bộ nói.

Để giải quyết những khó khăn này, theo các chuyên gia, việc làm cần thiết lúc này là cần hoàn thiện tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam để làm sao tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam sẽ tương đồng và được các tổ chức hữu cơ quốc tế chứng nhận. Điều này vừa giúp nông sản sản xuất ra có thể xuất khẩu, vừa giúp các HTX giảm bớt gánh nặng về chi phí.

Ông Phạm Văn Duy, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN-PTNT), cho biết tại Đề án  885/QĐ-TTg của Chính phủ về phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 – 2030, nhiều cấp ngành đã nhận ra những điểm chưa hợp lý trong bộ tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, việc hoàn thiện bộ tiêu chuẩn  này là cần thiết để thu hút người dân, HTX sản xuất theo hướng hữu cơ.

“Hiện, Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản đang làm việc với Nhật Bản và Nhật Bản cũng đang hỗ trợ Việt Nam “nâng cấp” chứng nhận hữu cơ sao cho tương đương với chứng nhận hữu cơ của Nhật Bản”, ông Duy chia sẻ.

Còn đối với các nước khác, Việt Nam phải tiếp cận với các tổ chức chứng nhận của họ, từ đó mời chuyên gia của các nước cùng đánh giá, tìm hiểu những vướng mắc trong bộ tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam. Nếu chúng ta đáp ứng đủ về chuyên môn, tài chính, công nghệ, nhân lực… thì họ sẽ chấp nhận hỗ trợ Việt Nam nâng cao tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam

Tuy nhiên, dù như thế nào thì theo ông Duy, việc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn hữu cơ quốc gia phải hài hoà với tiêu chuẩn quốc tế và phù hợp với tiêu chuẩn đã thống nhất trong ASEAN để đảm bảo yêu cầu hội nhập, đồng thời phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, cũng cần tiếp tục xem xét việc tổ chức xây dựng tiêu chuẩn hữu cơ quốc gia phải đảm bảo hướng dẫn chi tiết quá trình sản xuất cụ thể ở từng lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản… và gắn với một số sản phẩm cụ thể có tiềm năng xuất khẩu lớn như gạo, cà phê, tôm… Điều này sẽ giúp người dân, HTX dễ dàng áp dụng, đồng thời sẽ phát triển sản phẩm nông nghiệp mang thương hiệu quốc gia.

Theo khảo sát mới nhất do Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam thực hiện, có đến hơn 40% người tiêu dùng sẵn sàng trả thêm tiền cho thực phẩm sạch. Chính vì vậy, phát triển nông nghiệp theo hướng hữu cơ chính là hướng đi đúng đắn của các HTX để vừa nâng cao được giá trị vừa đáp ứng được nhu cầu thị trường. Để làm được điều này, các cơ quan chức năng của Việt Nam cần nhanh chóng nâng cấp tiêu chuẩn hữu cơ riêng cho thị trường trong nước. Đi kèm với đó là có những chính sách hỗ trợ bằng nhiều cách để  HTX bớt tốn kém chi phí trong việc xin chứng nhận hữu cơ từ các tổ chức quốc tế.

Huyền Trang 

Nguồn: vnbusiness.vn

Bắt kịp xu thế tăng trưởng xanh

(NLĐO) – Đứng trước 3 biến động lớn là biến đổi khí hậu, biến động thị trường và sự dịch chuyển xu thế tiêu dùng, Việt Nam có cơ hội thúc đẩy tăng trưởng xanh nhằm thích ứng với bối cảnh mới.

Tại Nghị quyết 124 về Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2021, Quốc hội giao Chính phủ nhiệm vụ thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn theo nhu cầu thị trường, ứng dụng công nghệ cao, gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị; chuyển đổi cây trồng, vật nuôi phù hợp, thích ứng với biến đổi khí hậu… Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025 cũng nêu nhiệm vụ phát triển nông nghiệp xanh, sạch, sinh thái, hữu cơ, công nghệ cao, thông minh và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Không thể đứng ngoài xu thế

Theo Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) Lê Minh Hoan, nền nông nghiệp Việt Nam đang “giằng xé” giữa những con số về sản lượng trên báo cáo với giá trị gia tăng thu được trên thực tế. Trong đó, tư duy kinh tế lấy giá trị gia tăng làm mục tiêu chứ không phụ thuộc vào sản lượng lớn hay nhỏ. “Một thời nông dân nghĩ sản xuất được sản lượng nhiều thì thu nhập cao hơn. Điều đó là phi thị trường, phi kinh tế. Có những lúc được mùa mất giá, nông dân càng bán lại càng lỗ, cho thấy có sự khập khiễng trong tư duy về sản xuất nông nghiệp. Làm sao để chuyển đổi tư duy từ phía nông dân đến cộng đồng doanh nghiệp (DN), địa phương và cơ quan quản lý thì mới có thể xây dựng được nền sản xuất nông nghiệp hiệu quả” – Bộ trưởng Lê Minh Hoan đặt vấn đề.

Thay đổi sản xuất nông nghiệp theo hướng xanh, sạch, tuần hoàn là đòi hỏi bắt buộc – Trong ảnh: Nhà sơ chế rau hữu cơ tại Nhà Bè – TP HCM (Ảnh: NGỌC ÁNH)

Phân tích rõ hơn về nguyên nhân buộc nền sản xuất nông nghiệp phải thay đổi, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nói Việt Nam đang đứng trước 3 biến động lớn là biến đổi khí hậu, biến động thị trường và sự dịch chuyển xu thế tiêu dùng. Theo đó, người tiêu dùng không còn cần ăn đủ, ăn nhiều mà chuyển sang nhu cầu ăn ngon, sạch, dinh dưỡng hài hòa. Tương tự, nếu trước kia câu chuyện an ninh lương thực chỉ gắn với lúa gạo thì nay cần tiếp cận tư duy bảo đảm an ninh lương thực, thực phẩm và cân bằng dinh dưỡng. Không dừng ở đó, xu thế mới hiện nay trên thế giới là tiêu dùng xanh, tức quá trình sản xuất sản phẩm không tác động tới biến đổi khí hậu, không làm tăng lượng CO2… “Tại Hội nghị lần thứ 26 các Bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP26), tất cả các quốc gia cam kết cắt giảm khí thải CO2 vào năm 2030. Ngoài ra, Ngân hàng Thế giới mới đây cũng đưa ra cảnh báo trong tương lai, bao bì sản phẩm nông nghiệp sẽ ghi rõ tiêu chuẩn không phát thải CO2” – Bộ trưởng Lê Minh Hoan nêu những áp lực cụ thể để nền nông nghiệp Việt Nam thay đổi.

Theo Bộ trưởng Bộ NN-PTNT, nông nghiệp xanh là nền nông nghiệp sản xuất áp dụng đồng bộ các quy trình, công nghệ sử dụng hợp lý, tiết kiệm vật tư đầu vào, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Để làm được điều này, ông cho rằng cần phải thay đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, bảo đảm hài hòa trên 3 trụ cột là kinh tế, xã hội và môi trường.

Tại Hội nghị triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) tổ chức sáng 29-10, Bộ trưởng Bộ KH-ĐT Nguyễn Chí Dũng cho hay chiến lược này nhằm đưa Việt Nam “đi tắt đón đầu”, bắt kịp, hướng tới khát vọng thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội. Khát vọng này thể hiện ở việc Việt Nam quyết tâm lựa chọn cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo định hướng tăng trưởng xanh.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, các ngành kinh tế, sản xuất xanh sẽ từng bước hạn chế phát sinh chất thải lớn, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường; phát triển công nghệ xanh, hệ thống quản lý, kiểm soát hoạt động sản xuất theo kinh nghiệm thực hành tốt để tiết kiệm tài nguyên, giảm phát thải, cải thiện môi trường sinh thái…

“Xanh hóa” để tăng giá trị gia tăng

PGS-TS Tạ Văn Lợi, Viện trưởng Viện Thương mại và Kinh tế Quốc tế – Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, nêu quan điểm việc “xanh hóa” chuỗi cung ứng hàng xuất khẩu sẽ giúp tăng cường xuất khẩu hàng hóa do dễ đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật và kiểm dịch động thực vật của nước nhập khẩu; giúp kiểm soát tốt hơn mặt hàng xuất khẩu của các DN; bảo vệ môi trường và kiểm soát rác thải, phế liệu tốt hơn…

“Tuy nhiên, mức độ “xanh hóa” chuỗi cung ứng hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam còn thấp, thiếu đồng bộ. Cần đổi mới tổ chức sản xuất nhằm nâng cao năng lực triển khai chuỗi cung ứng toàn cầu; tăng cường tuyên truyền nâng cao ý thức của người tiêu dùng trong nước trong việc sử dụng các sản phẩm nông sản xanh; xây dựng, công bố các tiêu chuẩn xanh và công nhận các nguyên liệu xanh cho các tổ chức sản xuất và kinh doanh. Ngoài ra, có thể xây dựng các mô hình liên kết để phát triển và hình thành các sáng kiến xanh hóa chuỗi cung ứng nhằm cắt giảm chi phí. Đặc biệt, cần cao ý thức của DN về vấn đề bảo vệ môi trường” – PGS-TS Tạ Văn Lợi gợi ý.

Giới chuyên gia cho rằng nền nông nghiệp Việt Nam với mức độ phát triển hiện nay là nhân tố quan trọng của quốc gia trong nỗ lực trở thành một nước công nghiệp phát triển. Do đó, cần có chiến lược phát triển nông nghiệp theo hướng tập trung, quy mô lớn, kết hợp chuyên môn hóa với phát triển tổng hợp. Đặc biệt, phát triển theo hướng kết nối ngành hàng, theo chuỗi giá trị gia tăng ngành nông sản; phát triển nông nghiệp sinh thái, bền vững, chú trọng các sản phẩm hữu hình và các sản phẩm vô hình như không khí, cảnh quan, môi trường…

Ông Lê Việt Anh, Vụ trưởng Vụ Khoa học giáo dục tài nguyên và môi trường (Bộ KH-ĐT), cho rằng để thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, các bộ – ngành cần xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách; phối hợp liên vùng, liên ngành; tích hợp mục tiêu, giải pháp tăng trưởng xanh để thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; tối ưu hóa nguồn lực, đặc biệt trong xây dựng hạ tầng đa mục tiêu.

Để huy động nguồn lực tài chính cho tăng trưởng xanh, cần hoàn thiện chính sách, công cụ huy động nguồn lực, hỗ trợ, ưu đãi tài chính; phát triển thị trường vốn, thị trường tín dụng, bảo hiểm xanh, hướng tới phát triển đồng bộ hệ thống thương mại khí thải theo cơ chế thị trường…

Hoài Dương

Nguồn: NguoiLaoDong

Việt Nam từng bước thay đổi cách tiếp cận nông nghiệp từ nâu sang xanh

Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan cho rằng các đơn vị thuộc ngành nông nghiệp cần nhanh chóng thoát khỏi tình trạng ‘tư duy toàn cầu – hành động địa phương’.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan (bên phải) và TS. Cao Đức Phát – nguyên Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương tham dự Hội nghị trực tuyến với Tổ chức CGIAR ngày 15/11. Ảnh: Bảo Thắng.

Chiều 15/11, Vụ Hợp tác quốc tế tổ chức Hội nghị trực tuyến giữa Bộ NN-PTNT và CGIAR khu vực Đông Nam Á & Thái Bình Dương.

Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, Việt Nam đang đứng trước 3 biến đổi lớn, là: biến đổi khí hậu, biến đổi thị trường, và biến chuyển xu thế tiêu dùng, đặc biệt là tiêu dùng xanh của thế giới.

Bên cạnh đó, một biến đổi nữa cũng đang hình thành trong những năm gần đây là cách tiếp cận của thế giới về nông nghiệp.

“Việt Nam đang từng bước thay đổi từ cách tiếp cận nông nghiệp nâu sang nông nghiệp xanh. Trước những biến đổi hầu hết đều là phi truyền thống, không riêng quốc gia nào có thể tự giải quyết, nhất là với Việt Nam đang ở đầu giai đoạn chuyển đổi tư duy kinh tế”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nói.

Theo lãnh đạo ngành nông nghiệp, Việt Nam cần khẳng định được giá trị trong các tổ chức quốc tế. Ông cho rằng, các đơn vị của ngành cần sớm thay đổi tư duy, nâng cao nhận thức để không lãng phí nguồn lực quốc tế, tránh rơi vào tình trạng “tư duy toàn cầu – hành động địa phương”.

Là một tổ chức toàn cầu, với tôn chỉ giảm đói nghèo, cải thiện sức khỏe và dinh dưỡng con người, nâng cao khả năng phục hồi hệ sinh thái, CGIAR đánh giá cao những nỗ lực của Bộ NN-PTNT thời gian qua và xem đây là đối tác chiến lược trong việc đảm bảo an ninh lương thực trong khu vực.

Ông Jean Balie, Giám đốc khu vực Đông Nam Á & Thái Bình Dương thông tin, rằng ưu tiên của CGIAR tại khu vực là tập trung giải quyết các vấn đề về đô thị hóa, biến đổi khí hậu, bất bình đẳng giới, bất bình đẳng xã hội… tại những đồng bằng lớn, chẳng hạn như đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Thông qua đổi mới công nghệ, xây dựng khung pháp lý, và hoàn thiện chính sách, CGIAR giúp các nước giảm nhẹ các cú sốc về kinh tế, xã hội.

“Việt Nam là thị trường phát triển nhanh tại Đông Nam Á. Hy vọng chúng tôi và Bộ NN-PTNT tiếp tục thúc đẩy hợp tác để xây dựng hệ thống lương thực, thực phẩm tốt hơn nữa, giúp người dân tiếp cận nhiều hơn với thực phẩm sạch, và một nền sản xuất ít phát thải cácbon”, ông Balie chia sẻ.

Mô hình trồng rau má trong nhà kính của anh Võ Thanh Beo (xã Mỹ Long, huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp)  được quản lý thông qua ứng dụng trên thiết bị di động thông minh. Ảnh: BT.

Lắng nghe ý kiến từ CGIAR, Bộ trưởng Lê Minh Hoan đánh giá, Việt Nam cần sự hỗ trợ từ nhiều tổ chức quốc tế trong các vấn đề về biến đổi gen, nghiên cứu giống, thay đổi phương thức canh tác, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học, nâng cao công nghệ và năng lực. Ông nhìn nhận, đây là vấn đề sống còn với chuyển đổi mô hình nông nghiệp Việt Nam.

“Chúng tôi rất cần sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế như CGIAR, vừa giúp giải quyết vấn đề nội tại, vừa giúp giải quyết các vấn đề ASEAN”, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT nhấn mạnh.

Tại Việt Nam, một số khu vực như ĐBSCL đã có những sáng kiến như trồng lúa nuôi tôm đã tiếp cận được với nền nông nghiệp sinh thái, nhưng chưa phải một kế hoạch hành động mang tính tập thể. Để phát triển và lan tỏa, nông nghiệp Việt Nam cần nguồn lực và hỗ trợ kỹ thuật, giúp loại bỏ tư duy sản lượng và tích hợp đa giá trị.

Thông qua Hội nghị ngày 15/11, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cam kết việc tham gia trong các diễn đàn của CGIAR, để trao đổi sâu hơn về các vấn đề của Việt Nam cũng như ASEAN. Ông cũng bày tỏ mong muốn, rằng với vị thế trung tâm khu vực, Việt Nam sẽ có một cơ hội để chuyển đổi những ý tưởng CGIAR mang lại.

Những biện pháp mà Bộ NN-PTNT dự định sắp tới, gồm chuyển giao và đào tạo, đề ra các chính sách cụ thể cho các đối tượng là HTX nông nghiệp, doanh nghiệp nông nghiệp, để tiếp cận các vấn đề mới mang tính hiện đại.

“Xây dựng chính sách nào cũng phải tính tới chi phí. Nếu không tính hết, chúng ta dễ rơi vào nền nông nghiệp đánh đổi. Những chi phí không những gồm chi phí đầu vào, mà còn cả các chi phí vô hình như chi phí làm tổn thương môi trường, làm biến dạng đi đa dạng sinh học, hệ sinh thái. Đó là lý do để Việt Nam cần những hành động quyết liệt ngay từ bây giờ”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh.

Đào tạo nhân lực ngành nông nghiệp: Đừng vì rào cản trước mắt mà đứng im!

Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho rằng mọi người thường trăn trở về cái giá phải trả khi thay đổi, chứ ít khi để tâm đến cái giá phải trả khi không thay đổi.

Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan chia sẻ về những định hướng phát triển nguồn nhân lực cho ngành nông nghiệp. Ảnh: Bảo Thắng.

Đừng để bài toán “con gà quả trứng” bó buộc chúng ta

Tại Hội nghị Công tác đào tạo nhân lực ngành Nông nghiệp & PTNT ngày 14/11, Bộ trưởng Lê Minh Hoan định hướng đổi mới, sáng tạo trong cách giảng dạy của các thầy, cô giáo, cũng như khơi gợi cảm hứng, niềm khát khao học hỏi cho học viên tại các trường, viện, cơ sở đào tạo thuộc Bộ NN-PTNT.

Kể câu chuyện một nông dân dùng que đuổi để chim bay được, dù nhiều chuyên gia bó tay, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh hai vấn đề. Một, là ngành nông nghiệp cần phải tìm ra những “que” như vậy – nghĩa là một cách làm mới, một tư duy mới. Hai, là ngành nông nghiệp cần quan tâm sâu sát hơn tới bà con nông dân, những người trực tiếp lao động, sản xuất ngoài ruộng đồng.

“Gần một năm qua, tôi đã tới thăm nhiều trường, viện thuộc Bộ NN-PTNT và nhận thấy các cơ sở còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Tuy nhiên, không nên để bài toán “con gà quả trứng” bó buộc chúng ta. Thay vào đó, tự thân mỗi thầy, cô giáo, cán bộ, công nhân viên ngành nông nghiệp phải tự thân vận động. Đừng vì những rào cản trước mắt mà chúng ta đứng im”, Bộ trưởng nói.

Chia sẻ về những điều mắt thấy, tai nghe khi tới thăm những phòng thí nghiệm khang trang, đầy đủ thiết bị hiện đại ở nước ngoài, Bộ trưởng Lê Minh Hoan thừa nhận, ông “rơi nước mắt” khi nghĩ về những thầy, cô giáo vừa đứng lớp, vừa trăn trở về cơm áo gạo tiền.

Trong dịp mừng ngày truyền thống ngành Nông nghiệp & PTNT (14/11) và không khí hân hoan của ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11), Bộ trưởng Bộ NN-PTNT tâm niệm “muốn đi xa phải đi cùng nhau”.

Ông chủ trương, nếu không thể giải quyết tất cả cùng lúc, thì hãy chẻ nhỏ vấn đề. “Một phương trình quá nhiều ẩn số sẽ khó, nhưng nếu chấp nhận một số trong đó là hằng số, hoặc xoay ngược vấn đề, chúng ta có thể giải quyết được bài toán”, ông nói tiếp.

Bộ NN-PTNT hiện có 34 trường, gồm: 1 học viện, 3 trường đại học, 2 trường cán bộ quản lý, 28 trường cao đẳng và 8 viện nghiên cứu khoa học có đào tạo sau đại học. Tính đến năm 2020, các trường, viện có 373 ngành nghề đào tạo. Trong đó bậc đại học có 88 ngành, cao đẳng là 112 ngành, với tỷ lệ ngành nông nghiệp lần lượt là 35,2% và 42,8%.

Những năm gần đây, việc tuyển sinh khối ngành nông nghiệp gặp nhiều thách thức. Thống kê của Vụ Tổ chức cán bộ cho thấy, hiện các trường thuộc Bộ NN-PTNT tuyển 52.208 sinh viên bậc đại học, giảm khoảng 35% so với giai đoạn 2010-2015. Đó cũng là tình hình chung của bậc cao đẳng, trung cấp. Điều này trực tiếp gây khó khăn cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của Bộ NN-PTNT. Số lượng, cơ cấu nhà giáo một số trường thiếu hụt, đặc biệt là nhà giáo trình độ cao, đầu đàn ở các khoa.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan khuyến khích các trường, viện, cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ NN-PTNT tích cực đổi mới, sáng tạo. Ảnh: Bảo Thắng.

Đưa trường học “trở thành thánh đường”

Ngày 24/10/2014, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 77 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017. Học viện Nông nghiệp Việt Nam (Bộ NN-PTNT) là một trong số 11 trường đại học được phê duyệt cho thí điểm mô hình tự chủ. Thông qua cơ chế mới, Học viện đã chủ động khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn lực hiện có, cả về đào tạo lẫn công tác tài chính.

Bất chấp những chuyển dịch như vậy, nhiều ngành đào tạo về nông nghiệp vẫn thiếu sinh viên. Ông Ngô Hồng Giang, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ cho biết, nguyên nhân do sinh viên theo học chủ yếu là  tại nông thôn, khả năng chi trả học phí còn hạn chế. Ngoài ra, với đặc thù của ngành nông nghiệp, sinh viên ra trường thường công tác ở vùng sâu, vùng xa, thu nhập thấp hơn so với nhiều ngành nghề khác trong xã hội.

“Chúng tôi đã tham mưu cho lãnh đạo Bộ NN-PTNT một số giải pháp như hỗ trợ học phí, sinh hoạt phí, và đề ra một số chính sách ưu tiên tuyển dụng cho sinh viên vào các đơn vị trực thuộc Bộ, nhằm tránh nguy cơ thiếu hụt nhân lực”, ông Giang nói.

Trăn trở của ông Giang cũng là tâm tư của Hiệu trưởng trường Đại học Lâm nghiệp Trần Văn Chứ. Ông chia sẻ, ngành nông nghiệp ít xuất hiện trong danh sách ưu tiên của phụ huynh, học sinh. “Trước đây có câu ‘nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách khoa’, còn giờ chúng tôi thậm chí không có đủ học bạ tuyển sinh vì nhu cầu sinh viên đổ dồn vào các trường tốp đầu”, ông Chứ bộc bạch.

Sinh viên khối ngành nông nghiệp nghiên cứu khoa học. Ảnh: Đức Minh.

Lắng nghe những chia sẻ của những người làm giáo dục, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan đề nghị tất cả chung tay để đưa trường học “trở thành thánh đường”, là nơi để học sinh, sinh viên chìm đắm trong nghiên cứu.

Để giải quyết tận gốc những vấn đề tồn tại, Bộ trưởng Lê Minh Hoan gợi mở hai ý tưởng. Thứ nhất, giáo dục, đặc biệt là trong khối ngành nông nghiệp, phải tìm ra những điểm riêng, hấp dẫn. “Một lớp có 40 sinh viên, nhưng họ giống nhau. Chúng ta đào tạo con người, chứ không phải sản xuất những sản phẩm hàng loạt. Vì thế, trong cái chung phải tìm ra cái riêng, để hấp dẫn người học”, ông bày tỏ.

Thứ hai, các viện, trường, cơ sở đào tạo nghiên cứu về việc tích hợp đa giá trị trong việc giảng dạy. Lấy dẫn chứng từ việc trồng lúa, nuôi tôm ở đồng bằng sông Cửu Long, người đứng đầu Bộ NN-PTNT cho rằng các trường có thể đưa vào nhiều lĩnh vực mới như khoa học, công nghệ thông tin để cung cấp tri thức, nuôi dưỡng khát vọng cho sinh viên.

“Người Nhật thường nói, cái gì người khác làm được, họ chắc chắn làm được; cái người khác không làm được, họ có thể làm được. Tôi biết, cái gì mới cũng mong manh, nhưng nền móng chúng ta đặt hôm nay chính là để cho ngày mai. Mỗi thầy, cô, mỗi viện, trường, tất cả đều có sứ mệnh và bổn phận để giúp nền nông nghiệp thoát khỏi lời nguyền manh mún, nhỏ lẻ. Tôi mong chờ một cú hích đủ mạnh, để những ai đang cống hiến trong ngành nông nghiệp đều thấy họ có một công việc đáng làm, một cuộc sống đáng sống”, Bộ trưởng nhấn mạnh.

Xây dựng bản đồ phát triển nhân lực nông nghiệp 

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) Nguyễn Kim Sơn bày tỏ niềm vui khi nhận lời mời của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan khi tham dự Hội nghị. Ông chia sẻ: “Nghe Bộ trưởng Lê Minh Hoan mời sang trao đổi về các trường là tôi nhận lời ngay, bởi Bộ GD-ĐT luôn có một phần trách nhiệm trong đó”.

Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Kim Sơn phát biểu tại Hội nghị chiều 14/11. Ảnh: Bảo Thắng.

Thổ lộ sự quan tâm đặc biệt đến các trường về nông nghiệp, bởi nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế, và Việt Nam là một nước nông nghiệp, Bộ trưởng Sơn cho biết, hai Bộ cần phối hợp để đào tạo ra nguồn nhân lực đủ đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn trong 5-7 năm nữa, thay vì dồn cả vào các vấn đề hiện tại.

Ông đề ra một số giải pháp như cử cán bộ trẻ, có năng lực đi đào tạo, tu nghiệp nước ngoài, đồng thời xây dựng bản đồ phát triển nhân lực, chuẩn bị cho một chiến lược dài hơi để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền nông nghiệp Việt Nam.

Thừa nhận giáo dục vừa đi trước, vừa phục vụ cho kế hoạch phát triển nông nghiệp, người đứng đầu ngành giáo dục cam kết đồng hành với Bộ NN-PTNT trong việc quy hoạch chiến lược phát triển nhân lực. Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cũng bày tỏ sự ngưỡng mộ, khi tỷ lệ thầy cô giáo đạt học hàm, học vị cao của khối trường nông nghiệp lên tới 50%, cao hơn so với các ngành khác (khoảng 30%).

“Ngành nông nghiệp cần phát huy lợi thế này trong định hướng phát triển thời gian tới. Một vấn đề nữa là việc tự chủ của các trường đại học, cao đẳng. Làm thế nào để biến nó thành động lực phát triển”, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn bày tỏ.

Với ngành giáo dục, Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã thành lập một khoa có tên “Công nghệ nông nghiệp”. Chia sẻ về cách làm này, Bộ trưởng Sơn cho rằng nông nghiệp là mối quan tâm chung của toàn xã hội, cũng là một vấn đề chiến lược của nhiều trường đại học, cao đẳng. Trên thế giới, nhiều nước như Hàn Quốc, Nhật Bản đã tích hợp nhiều hàm lượng công nghệ, kỹ thuật vào giảng dạy trong các bộ môn về nông nghiệp. “Đến một ngày nào đó, có lẽ chúng ta sẽ không thể phân biệt được nông nghiệp và công nghiệp, nhất là những ngành nông nghiệp công nghệ cao. Tôi ao ước Việt Nam có một ngày như vậy, và hy vọng Khoa Công nghệ nông nghiệp sẽ tận dụng được mọi ưu điểm liên ngành về công nghệ, sinh học của Đại học Công nghệ. Song song với đó, trong quá trình tuyển sinh, các thầy cô cũng cần giúp học sinh, sinh viên hiểu biết đầy đủ về tiềm năng, cơ hội trong công ăn việc làm khi ra trường”, Bộ trưởng Sơn nói.

Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh & Xã hội Lê Tấn Dũng cho biết, nhận thức của toàn xã hội, trong đó có phụ huynh, học sinh về các trường giáo dục nghề nghiệp đã thay đổi trong những năm gần đây. Trong bối cảnh nhiều gia đình nông thôn, nơi chiếm tỷ lệ lớn về con em theo học ngành nông nghiệp, còn khó khăn, việc theo học tại trường cao đẳng, trường nghề là một giải pháp.

Cho biết một số tổ chức quốc tế như UNICEF, UNESCO rất quan tâm đến giáo dục nghề nghiệp, Thứ trưởng Dũng khuyến cáo, các trường cần dạy những gì thị trường cần, đồng thời lưu ý về tư duy giảng dạy theo hướng phát triển kinh tế nông nghiệp. Một trong những cách làm hay, theo ông Dũng, là nhiều doanh nghiệp đã hình thành các trường dạy nghề ngay tại cơ sở, giúp tạo ra nguồn lao động tại chỗ, đáp ứng được kịp thời cho nhu cầu sản xuất.

Nguồn Nongnghiep.vn

Lễ tưởng niệm đồng bào tử vong và cán bộ, chiến sĩ hy sinh trong đại dịch Covid-19

Vào lúc 20h ngày 19/11, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với TP Hồ Chí Minh tổ chức Lễ tưởng niệm đồng bào tử vong và cán bộ, chiến sĩ hy sinh trong đại dịch Covid-19. Hình thức tổ chức được thực hiện truyền hình trực tiếp trên kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam và tiếp sóng trên đài Truyền hình TP Hồ Chí Minh.

Nhằm lan toả ý nghĩa, tinh thần Lễ tưởng niệm tới nhân dân cả nước, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam ngày 18/11 đã có công văn số 829/LMHTXVN-TTTT về việc tổ chức Lễ tưởng niệm đồng bào tử vong và tưởng niệm, tri ân cán bộ, chiến sĩ các lực lượng đã hy sinh vì dịch bệnh Covid-19.

Đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Bí thư Đảng uỷ, Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho biết, để tiếp tục động viên tinh thần các lực lượng tuyến đầu và nâng cao ý thức, trách nhiệm của cán bộ, thành viên và người lao động trong công tác tham gia phòng, chống dịch Covid-19, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và hệ thống Liên minh Hợp tác xã cấp tỉnh/thành phố cùng thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng tại Công văn số 2276-CV/VPTW ngày 08/11/2021, Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với Thường trực Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức “Lễ tưởng niệm đồng bào tử vong và cán bộ, chiến sĩ hy sinh trong đại dịch Covid-19”.
Theo đó, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cùng Liên minh Hợp tác xã tỉnh/thành phố thực hiện một số nội dung như:

– Tổ chức các hoạt động thiết thực, phù hợp với thực tế của cơ quan, đơn vị bảo đảm sự thống nhất và đồng bộ với chủ trương chung để hưởng ứng Chương trình do Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.

– Tích cực tuyên truyền, phổ biến sâu rộng Lễ tưởng niệm với những tin, bài về các hoạt động của khu vực Kinh tế tập thể, Hợp tác xã và hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong công tác tham gia phòng, chống và hỗ trợ khắc phục hậu quả của đại dịch Covid-19 và những bài viết về những hy sinh, mất mát và lan toả những tấm gương cao đẹp quên mình trong cuộc chiến đấu với đại dịch Covid-19.

– Đặc biệt, dừng tổ chức các sự kiện văn hoá, văn nghệ, vui chơi, giải trí của cơ quan, đơn vị trong thời gian tổ chức Lễ tưởng niệm.

Quỳnh Trang

Nguồn VCA

Chuyển đổi số nông nghiệp Việt và bài học “tam giác quan hệ” từ Israel

Phát triển nông nghiệp chất lượng cao trong thời kỳ chuyển đổi số là vấn đề cấp thiết, ngoài việc đầu tư nghiên cứu thì cần phải ứng dụng ngay vào sản xuất.

Hội thảo với chủ đề “Chuyển đổi số nông nghiệp – nông thôn trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” tổ chức chiều 17/11 đã ghi nhận nhiều ý kiến đóng góp đáng chú ý. Đây là hội thảo chuyên đề thứ 9 trong khuôn khổ Diễn đàn cấp cao thường niên lần thứ ba về công nghiệp 4.0 do Ban Kinh tế Trung ương chủ trì.

Kiến tạo số hoá phát triển ngành nông nghiệp

Nông nghiệp được xác định là một trong 8 lĩnh vực ưu tiên trong chương trình chuyển đổi số quốc gia. Theo ông Phùng Đức Tiến – Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, những thành công của ngành nông nghiệp gần đây có nhiều đóng góp từ việc triển khai hệ thống giải pháp, phát triển khoa học công nghệ, đã dần chuyển đổi từ nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp hiện đại.

Việc chuyển đổi số ngành nông nghiệp là giải pháp tổng thể góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả, tạo đột phá trong phát triển nhanh, bền vững của ngành.

Tiêu biểu trong trồng trọt là các phần mềm phân tích dữ liệu về môi trường, giai đoạn sinh trưởng của cây, cho phép truy xuất, theo dõi các thông số này theo thời gian thực. Trong chăn nuôi là ứng dụng công nghệ Internet vạn vật (IoT), block chain, công nghệ sinh học ở trang trại quy mô lớn…

Kinh tế vĩ mô - Chuyển đổi số nông nghiệp Việt và bài học “tam giác quan hệ” từ Israel

Ông Phùng Đức Tiến – Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phát biểu tại hội thảo.

Theo Thứ trưởng, ước tính đến hết năm 2021, cả nước có 19.000 hợp tác xã nông nghiệp và 79 liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp, trong đó trên 2.200 hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số trong sản xuất (chiếm 12%).

“Toàn ngành nông nghiệp đang tập trung thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số, coi đây là giải pháp đột phá tạo động lực mới cho tăng trưởng, phát triển ngành với trọng tâm là xây dựng nền nông nghiệp minh bạch dữ liệu, thông tin và có trách nhiệm với người sản xuất, với người tiêu dùng”, ông nói.

Là một trong những quốc gia nằm ở khu vực Trung Đông, Israel có tới 60% diện tích là sa mạc và thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ hạn hán bởi mùa hè cực kỳ nóng và rất ít mưa. Vượt lên trên điều kiện khí hậu khắc nghiệt ấy, Israel hiện là quốc gia có nền nông nghiệp phát triển hàng đầu thế giới, không những đáp ứng đủ cho 95% nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu sản phẩm sang các thị trường khác.

Ông Nadav Eshcar – Đại sứ Israel tại Việt Nam chia sẻ: “Trước đây, Israel chẳng có gì ngoài cát, sự khô nóng, nghèo nàntài nguyên nước, năng lượng và hoá chất. Chúng tôi buộc phải tìm mọi cách để sinh tồn, sản xuất thực phẩm nuôi sống người dân. Muốn làm được điều đó, từ những năm 50 của thế kỷ trước, chúng tôi bắt đầu hành trình biến sa mạc thành những cánh đồng xanh”.

Theo ông, đến nay, phát minh về công nghệ tưới nhỏ giọt của Israel đã nổi tiếng toàn thế giới – phát triển nông nghiệp chất lượng cao trong điều kiện bất khả thi. Nó không phải là sự ngẫu nhiên mà đây là quá trình dài hơi nghiên cứu và ứng dụng vào sản xuất.

Kinh tế vĩ mô - Chuyển đổi số nông nghiệp Việt và bài học “tam giác quan hệ” từ Israel (Hình 2).

Ông Nadav Eshcar – Đại sứ Israel tại Việt Nam.

Ở góc độ công nghiệp sản xuất giống vật nuôi, Israel đã sở hữu công nghệ nhận diện giới tính trong phôi trứng, nhờ đó chủ động lựa chọn sản phẩm đầu ra (gà trống hay gà mái)… Đó chỉ là một trong vô số sản phẩm công nghệ đột phá của Israel trong lĩnh vực nông nghiệp.

“Để làm được điều đó, chúng tôi tạo ra một hệ sinh thái “tam giác quan hệ” với 3 đỉnh: Nhà nước – giới học giả của doanh nghiệp khoa học công nghệ – người thụ hưởng (nông dân, trang trại…)”, ông Nadav Eshcar chia sẻ.

Từ những vấn đề bất cập mà nông dân gặp phải trong sản xuất nông nghiệp, vị Đại sứ cho biết, Nhà nước sẽ đặt hàng và cung cấp tài chính để các đơn vị nghiên cứu giải pháp.

Theo đó, sản phẩm nghiên cứu sẽ được chuyển giao cho doanh nghiệp và doanh nghiệp cung ứng cho nông dân. Ngược lại, dựa trên lợi nhuận kinh doanh, doanh nghiệp sẽ nộp thuế cho nhà nước. “Đó là một vòng tuần hoàn mà tất cả các bên tham gia đều có lợi ích”, ông nhấn mạnh.

Hướng tới nền nông nghiệp phát thải thấp

Đánh giá cao nền nông nghiệp đang trên đà phát triển của Việt Nam, bà Dina Umali Deininger – Giám đốc thực hành nhóm nông nghiệp và thực phẩm của World Bank – đánh giá Việt Nam là một trong những ví dụ điển hình về thành công trong nông nghiệp và có rất nhiều cơ hội để phát triển trong tương lai tại Việt Nam.

“Việt Nam là một cường quốc về nông nghiệp, kim ngạch xuất khẩu cũng rất là lớn và Việt Nam cũng nằm trong số quốc gia hàng đầu trên thế giới về xuất khẩu hạt điều, cà phê và lúa gạo. Quốc gia này có rất nhiều cơ hội về cung ứng lương thực thực phẩm trên toàn cầu, dự báo sẽ tăng thêm 60% vào năm 2030”, bà Dina nói.

Kinh tế vĩ mô - Chuyển đổi số nông nghiệp Việt và bài học “tam giác quan hệ” từ Israel (Hình 3).

Đại diện World Bank đánh giá ngành nông nghiệp Việt Nam có rất nhiều cơ hội phát triển trong tương lai

(Ảnh: Hữu Thắng).

Tuy nhiên, theo bà, để duy trì sự phát triển bền vững đó thì sẽ có những thách thức song hành. Trong những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt, nông nghiệp có tăng trưởng nhưng tốc độ còn chậm, đóng góp vào GDP của ngành nông nghiệp cũng đang giảm đi.

Hơn nữa, cách để ngành nông nghiệp thành công thì nó cũng đi kèm với một số loại chi phí như phát triển nông nghiệp không bền vững, hoặc sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên như nguồn nước…

“Việc sử dụng quá mức thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, và có một vấn đề rất lớn về suy giảm chất lượng của đất, việc khai thác nước ngầm quá mức, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu… đều ảnh hưởng tới ngành nông nghiệp Việt Nam trong những năm vừa qua”, bà nói.

Theo đại diện của World Bank, ngành nông nghiệp cũng là một nạn nhân của biến đổi khí hậu. Chính phủ Việt Nam cũng đã có những chính sách rất là mạnh mẽ và quyết đoán để phát triển ngành nông nghiệp bền vững, bao gồm cả các chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp, cũng cam kết giảm phát thải khí nhà kính trong thời gian tới.

Bà cũng nhấn mạnh, việc giảm phát thải khí nhà kính trong ngành nông nghiệp là một vấn đề rất quan trọng và cần được quan tâm hơn nữa

Nguồn: nguoiduatin.vn

Hành lang pháp lý cho Nông nghiệp hữu cơ đã đầy đủ

Báo Nông nghiệp Việt Nam trao đổi với ông Phạm Văn Duy, Phó Cục trưởng Cục chế biến và Phát triển thị trường nông sản về Nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam.

Ông Phạm Văn Duy, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN-PTNT). Ảnh: Nguyên Huân.

Ông có thể cho biết hiện chúng ta đã có những văn bản quy phạm pháp luật nào về nông nghiệp hữu cơ?

Về mặt pháp lý, tháng 8/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định 109 NĐ-CP về Nông nghiệp hữu cơ. Theo đó, 5 vấn đề lớn đã được đưa vào quy định tại Nghị định, bao gồm: Sản xuất nông nghiệp hữu cơ; Chứng nhận nông nghiệp hữu cơ; Thanh kiểm tra; Truy xuất nguồn gốc và chính sách phát triển nông nghiệp hữu cơ.

Cùng năm 2018, tại kỳ họp Quối hội 14 tháng 9 cũng đã thông qua Luật Trồng trọt. Qua đó, đưa vào hai điều là 68 và 69 về canh tác nông nghiệp hữu cơ.

Năm 2019, Bộ NN-PTNT ban hành Thông tư số 16 về hướng dẫn một số điều của Nghị định 109 và đến tháng 6/2020 Bộ NN-PTNT tham mưu Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030 tại quyết định 885, gọi là Đề án 885 năm.

Cùng với đó, ngay từ năm 2017, 2018, Bộ NN-PTNT đã phối hợp với Bộ KHCN xây dựng và ban hành bộ 8 tiêu chuẩn quốc gia về nông nghiệp hữu cơ. Bao gồm tiêu chuẩn về trồng trọt, tiêu chuẩn chăn nuôi, 4 tiêu chuẩn sản phẩm gồm có: gạo, chè, tôm, sữa và 2 tiêu chuẩn về tổ chức chứng nhận và tem nhãn. Như vậy, chúng ta đã có hệ thống pháp lý để phát triển nông nghiệp hữu cơ.

Còn về thực tế, theo báo cáo của tổ chức Nông nghiệp hữu cơ thế giới, năm 2020 Việt Nam chúng ta ghi nhận diện tích đất canh tác nông nghiệp hữu cơ tăng từ khoảng 54.000ha năm 2016 lên khoảng 240.000ha năm 2020, tức tăng khoảng 4,4 lần.

Hiện có 46/63 tỉnh đã thực hiện và có phong trào phát triển nông nghiệp hữu cơ. Cả nước có trên 17.350 các tổ chức, cá nhân thực hiện sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Số lượng doanh nghiệp sản xuất hữu cơ là 97 doanh nghiệp.

Tham gia xuất khẩu là 60 doanh nghiệp với kim ngạch khoảng 335 triệu USD/năm. Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ Việt Nam được tiêu thụ trong nước và hiện đã xuất khẩu đi 180 nước trên thế giới, trong đó có Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật, Đức, Anh, Hàn Quốc, Nga, Singapore, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Italia… Qua đó thấy rằng, nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đã được quan tâm và đang phát triển.

Nhiều người lo ngại Nông nghiệp hữu cơ ở nước ta sẽ đi vào vết xe đổ như một phong trào, ông nghĩ sao về nvấn đề này?

Hiện nay ta đã có cơ sở pháp lý để phát triển Nông nghiệp hữu cơ, cùng với đó tại rất nhiều quyết định của Thủ tướng Chính phủ, ví dụ như Quyết định 255 ngày 20/2/2021 về kế hoạch tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp, Quyết định 1520 ngày 6/10/2020 về chiến lược phát triển ngành Chăn nuôi đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045… đã đều đưa ra những mục tiêu và những nhiệm vụ về phát triển Nông nghiệp hữu cơ, coi những giải pháp về phát triển Nông nghiệp hữu cơ là những giải pháp để tăng giá trị gia tăng và phát triển nông nghiệp bền vững.

Ngoài ra, bản chất Nông nghiệp hữu cơ là bảo vệ sinh thái, bảo vệ môi trường, hạn chế những biến đổi khí hậu. Sản xuất Nông nghiệp hữu cơ là tạo ra những sản phẩm an toàn, đảm bảo sức khỏe cho con người, cho môi trường, cho kể cả người sản xuất và người tiêu dùng. Vì vậy, khi mà thu nhập của người dân tăng, nhu cầu về thực phẩm sạch, thực phẩm an toàn tăng lên, đấy là nhu cầu của sản phẩm nông nghiệp hữu cơ tăng lên.

Thực tế những năm gần đây, Nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam đã có sự quan tâm, đặc biệt từ khi có Nghị định 109 đã giúp Nông nghiệp hữu cơ đã có sự khởi sắc vượt bậc, với những thành tựu về diện tích canh tác hữu cơ trong 3 năm đã tăng 4,4 lần.

Hiện nay, gần như tất cả các tỉnh thành đã thực hiện và có phong trào về Nông nghiệp hữu cơ, số lượng người, tổ chức tham gia sản xuất Nông nghiệp hữu cơ rất lớn, giá trị nó mang lại, thị trường mở ra rất lớn. Qua đó có thể khẳng định, Nông nghiệp hữu cơ là xu thế tất yếu chứ không còn là vấn đề phong trào.

Hiện có 46/63 tỉnh đã thực hiện và có phong trào phát triển nông nghiệp hữu cơ. Ảnh: NQ.

Vậy theo ông, Nông nghiệp hữu cơ của ta đã thực sự là hữu cơ chưa hay vẫn chủ yếu ở dạng tiệm cận là nông nghiệp theo hướng hữu cơ?

Thực chất, từ xa xưa sản xuất nông nghiệp của chúng ta cơ bản là sản xuất hữu cơ, không dùng hóa chất tổng hợp, không dùng kháng sinh, không dùng vật tư biến đổi gen. Sau đó, vì những lí do khách quan, chủ quan, ta sản xuất theo hình thức phi hữu cơ, tức dùng thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất, thậm chí cả kháng sinh.

Muốn quay lại hữu cơ, chúng ta phải chuyển đổi từ phi hữu cơ sang sản xuất hữu cơ, đây là một khâu quan trọng trong qui trình kỹ thuật. Sản xuất hữu cơ để được chứng nhận hữu cơ phải đảm bảo khoản 3, điều 3 của Nghị định 109 của Chính phủ.

Do vậy, cần thực hiện đúng các nguyên tắc sản xuất, được bên thứ 3 chứng nhận, phải có tem, nhãn mác của sản phẩm hữu cơ theo qui định. Chúng ta cần làm rõ cho người tiêu dùng hiểu đúng để lựa chọn.

Có 4 nguyên tắc sản xuất nông nghiệp hữu cơ: Thứ nhất vấn đề sinh thái, không dùng hóa chất, không biến đổi gen trong mọi quá trình; Vấn đề phúc lợi của vật nuôi, cây trồng; Vấn đề phải được chứng nhận bởi bên thứ 3 (bên thứ 3 không liên quan đến sản xuất, không liên quan chi phối sản phẩm, là ngành độc lập); Sau khi được chứng nhận phải dán tem nhãn là sản phẩm hữu cơ theo qui định.

Vậy, mục tiêu cụ thể Ngành nông nghiệp đặt ra với lĩnh vực hữu cơ trong thời gian tới như nào thưa ông?

Mục tiêu trước mắt, phát triển nhóm đất sản xuất Nông nghiệp hữu cơ sẽ chiếm 1,5 – 2% trong tổng nhóm đất sản xuất nông nghiệp vào năm 2025, từ 2 – 3% vào năm 2030. Sản phẩm chăn nuôi hữu cơ cũng chiếm khoảng 1 – 2% trong tổng sản phẩm chăn nuôi sản xuất trong nước vào năm 2025, từ 2-3% vào năm 2030.

Thủy sản từ 0,5 – 1,5% vào năm 2025, từ 1,5 – 2,5% vào năm 2030. Giá trị sản xuất trên một đơn vị canh tác hoặc nuôi trồng thủy sản, sản xuất hữu cơ sẽ tăng từ 1,3 – 1,5 lần so với phi hữu cơ vào năm 2025 và từ 1,5 – 1,8 lần so với phi hữu cơ vào năm 2030.

Để thực hiện mục tiêu đó, Chính phủ đã phê duyệt 7 nhiệm vụ. Nhiệm vụ thứ nhất là vấn đề phát triển sản phẩm chủ lực, vùng tập trung. Thứ 2, phát triển đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất sản phẩm hữu cơ. Thứ 3, phát triển công nghệ áp dụng trong sản xuất hữu cơ. Thứ 4, phát triển nguồn nhân lực cho hữu cơ.

Thứ 5, phát triển các tổ chức chứng nhận, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn và quy trình kỹ thuật. Thứ 6, phát triển chế biến, tiêu thụ sản phẩm hữu cơ, phát triển mô hình hữu cơ. Thứ 7, phát triển các vật tư đầu vào phục vụ phát triển nông nghiệp hữu cơ. Thông tin tuyên truyền để nhân rộng Nông nghiệp hữu cơ.

Cùng với 7 nhiệm vụ là 5 giải pháp cụ thể. Để thực hiện mục tiêu nhiệm vụ, giải pháp, Chính phủ giao cho 8 Bộ, Ngành trực tiếp. Trong đó Bộ NNPTNT là đơn vị đầu mối các Bộ, Ngành khác, các tổ chức trong và ngoài nước để hiện thực hóa được đề án đó. Tiếp nữa là vấn đề kết nối, huy động được tối đa nguồn lực của các doanh nghiệp, HTX, các tổ chức xã hội và người dân để tham gia triển khai các mô hình, nhân rộng được thành công của đề án, biến mục tiêu của đề án thành hiện thực.

Xin cảm ơn ông!

Nguyên Huân – Nhật Quang
Nguồn: nongnghiep.vn

Bán hàng trên môi trường số: ‘Chìa khóa vàng’ giúp HTX vượt Covid-19

Dịch Covid-19 đã thúc đẩy hình thức bán hàng trên các nền tảng số. Các doanh nghiệp và cả những cá nhân đều sử dụng hình thức bán hàng online để tiếp cận với khách hàng và thu được hiệu quả. Khi bán hàng trực tuyến đang được xem là xu hướng kinh doanh mới, các HTX nếu biết nắm bắt cơ hội này sẽ vững vàng vượt dịch Covid -19 và thích ứng với thời đại 4.0.

Trong chương trình đào tạo “Kỹ năng kinh doanh trên nền tảng số, phát triển kinh tế tập thể và HTX” do Liên minh HTX Việt Nam phối hợp với Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương) và Tổng công ty Bưu điện Việt Nam tổ chức ngày 15/11 tại Hòa Bình, Phó Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Mạnh Cường, cho biết khi nắm vững và thực hành hiệu quả các kỹ năng kinh doanh trên sàn thương mại điện tử nói chung và kỹ năng bán hàng thông qua livestream nói riêng chính là cách giúp các HTX thích ứng với thời đại công nghệ số, đáp ứng được xu hướng của người tiêu dùng. Đây cũng là nền tảng thúc đẩy phát triển kinh tế số, nông nghiệp nông thôn.

XTTM.jpg

Các học viên đang trao đổi tại “Khoá đào tạo kỹ năng kinh doanh trên nền tảng số, phát triển Kinh tế tập thể và hợp tác xã” tại tỉnh Hoà Bình ngày 15/11/2021.

Nắm bắt nhanh xu hướng livestream

Thực hiện chương trình Chuyển đổi số quốc gia, Liên minh HTX Việt Nam hướng đến trong giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, 80% số HTX, Liên hiệp HTX được kết nối, quảng bá thông tin về sản phẩm, dịch vụ trên hệ thống cổng thông tin quảng bá sản phẩm, dịch vụ, ứng dụng thương mại điện tử; 50% số HTX ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành để nâng cao hiệu quả hoạt động; 90% các HTX sử dụng các công nghệ trong việc xác thực nguồn gốc sản phẩm, chỉ dẫn địa lý; 100% HTX có máy tính kết nối với mạng internet…

Trên thực tế, livestream bán hàng mới chỉ xuất hiện tại Việt Nam từ cuối năm 2018, tuy nhiên phải đến năm 2020, khi dịch Covid-19 bùng phát thì hình thức mua bán hàng thông qua livestream mới thực sự phát triển.

Theo một kết quả nghiên cứu mới đây của Facebook, 68% người dùng Việt Nam xem video ít nhất một lần mỗi ngày. Trung bình mỗi người dùng dành khoảng 1 giờ cho mỗi lần xem video trên mạng xã hội. Có tới 97% người dùng Việt nhận biết Facebook là một nền tảng video. 74% người dùng lựa chọn xem video trên Facebook bởi vì “tôi có thể xem video trên Facebook mọi lúc, mọi nơi”. 63% cho biết “tôi xem video trên bảng tin mỗi khi tôi truy cập vào Facebook”. Bên cạnh đó, mỗi tháng Việt Nam có khoảng 2,5 triệu phiên livestream bán hàng với sự tham gia của khoảng 50.000 nhà cung ứng sản phẩm.

Nắm bắt được xu hướng này, nhiều HTX đã nhanh nhạy trong tiếp cận công nghệ để phục vụ quảng bá và bán sản phẩm. Ông Đỗ Thanh Hiệp, Giám đốc HTX Hòa Lệ, cho biết, dù livestream bán hàng là hình thức còn mới mẻ nhưng trong lần livestream đầu tiên trên trang fanpage, HTX đã đạt hơn 2 ngàn lượt xem và 745 lượt tương tác. Đến nay, HTX coi đây là một trong những phương thức bán hàng hiệu quả song song với bán hàng bằng các bài đăng trên trang thương mại điện tử và mạng xã hội.

Điều này cho thấy, hình thức livestream đang trở thành công cụ đắc lực của các nhà bán hàng, HTX trên môi trường thương mại điện tử và hứa hẹn sẽ còn phát trong thời gian tới vì tỷ lệ người dùng điện thoại thông minh ngày càng tăng.

Ông Hoàng Minh Chiến, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại, cho biết nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội như facebook, zalo, youtube, Zoom… việc quay video livestream đã thúc đẩy hình thức mua bán hàng, xúc tiến thương mại của các HTX. Đây cũng là hướng đi hiệu quả trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, việc mua bán trực tiếp bị hạn chế.

livestream-huong-dan-ho-nong-d-9346-6021

Chỉ cần có điện thoại kết nối internet, HTX có thể livestream bán nông sản trực tuyến trên các nền tảng số.

Lợi thế của phương thức bán hàng này là HTX có thể tương tác trực tiếp với khách hàng về sản phẩm, giá cả, vận chuyển hay tư vấn sử dụng dù họ ở xa, từ đó giúp tăng tính xác thực, minh bạch của sản phẩm. Đây chính là ưu điểm của livestream so với mua hàng online trên các mạng xã hội hay các sàn thương mại điện tử thông thường. Đặc biệt, việc đầu tư cơ sở vật chất cho hình thức bán hàng này cũng không quá cao. HTX chỉ cần có smartphone, máy tính bảng hoặc máy tính kết nối internet là có thể phát video bán hàng trực tuyến.

Theo nhận định của các chuyên gia, hình thức bán hàng trực tuyến qua livestream được đánh giá là phù hợp và hiệu quả hơn thương mại điện tử. Bởi bán hàng trên các kênh thương mại điện tử đều có những yêu cầu rất cao về vấn đề bao gói, bảo quản, làm thương hiệu sau thu hoạch… Trong khi đó, các HTX hiện nay còn chưa mạnh về khâu này. Vì vậy, hình thức bán hàng trực tuyến qua livestream sẽ phù hợp với điều kiện của HTX vì sẽ giảm tải được các yêu cầu trên.

Nâng cao kỹ năng, năng lực cho HTX

Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với HTX khi thực hiện bán hàng bằng cách phát video trực tuyến là phải làm thế nào giữ chân người xem lâu nhất có thể và từ đó tạo tương tác qua bình luận, lượt thích và cuối cùng đạt kết quả là chốt đơn hàng.

Để làm được điều này, theo các chuyên gia, các HTX cần phải định hình được: HTX của mình đang cung cấp sản phẩm/dịch vụ gì? Giá trị ra sao và sự khác biệt nổi trội so với các sản phẩm khác. Đối tượng khách hàng chủ yếu của HTX là những ai?

Đặc biệt, HTX cần phải có kịch bản livestream bán hàng rõ ràng. Trong đó, phần đầu tiên cần tập trung vào chào hỏi, định hướng sản phẩm. Phần tiếp theo là nói về những điểm hấp dẫn, nổi trội về sản phẩm (sản xuất quy trình nào, đã được chứng nhận gì? Hương vị ra sao? Công nghệ chế biến, đóng gói thế nào…). Phần cuối cùng sẽ chia sẻ những ưu đãi và những giá trị mà khách hàng nhận được khi mua hàng của HTX.

Tuy nhiên, chất lượng video phát trực tiếp cũng là một trong những yếu tố thu hút khách hàng hay không. Theo đó, điều kiện đầu tiên là video phải rõ người quay và sản phẩm. Vì vậy, nếu có điều kiện, HTX nên đầu tư máy quay chuyên dụng. Bên cạnh đó, video phát trực tuyến cần thông suốt, không bị gián đoạn. Muốn vậy, HTX cần quan tâm đến internet, đường truyền… trước khi thực hiện.

128d4100624t2513l1-jpeg-6968-1636968730.

Livestream giúp hạn chế tình trạng dồn ứ nông sản trong mùa dịch.

Là một trong những HTX được tham gia khóa đào tạo của Liên minh HTX Việt Nam, bà Bùi Thị Lan Phượng, đại diện HTX nông nghiệp thổ cẩm Vọng Ngàn (Tân lạc, Hòa Bình), cho biết HTX đã từng livestream bán hàng nhưng thực hiện theo kiểu tự phát. “Hôm nay, được đào tạo theo hình thức “học đi đôi với hành”, HTX đã hiểu được khách hàng mục tiêu của HTX là những ai, trong độ tuổi nào, thách thức và ưu điểm của nhóm khách hàng HTX đang hướng tới…”, bà Phượng nói.

Chia sẻ về vai trò của buổi tập huấn, ông Trần An Định, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã tỉnh Hòa Bình, cho biết, Hòa Bình là một trong những tỉnh có nhiều sản phẩm theo mùa vụ, trong đó lớn nhất là cam và bưởi. Đến mùa thu hoạch, nếu không làm tốt khâu xúc tiến thương mại, chủ động tìm đầu ra thì việc tiêu thụ nông sản cho người dân, HTX rất khó khăn, nguy cơ dẫn đến tình trạng dồn ứ nông sản.

Tuy nhiên, việc Liên minh Hợp tác xã Việt Nam kết hợp với Cục Xúc tiến thương mại tổ chức các buổi đào tạo “Kỹ năng kinh doanh trên nền tảng số, phát triển kinh tế tập thể và HTX” chính là hoạt động thiết thực trong việc hỗ trợ cũng như nâng cao năng lực cho các HTX tiếp cận với chuyển đổi số trong nông nghiệp. Từ đó, giải quyết được bài toán “được mùa mất giá” cũng như đứt gãy chuỗi giá trị nông sản, nhất là trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn đang hiện hữu.

Huyền Trang

Nguồn: vnbusiness.vn