Theo Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt, ba sàn giao dịch công nghệ quốc gia sẽ được hình thành, kết nối với các sàn giao dịch khu vực, thế giới.
Chiều 23/9, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì hội nghị phát triển thị trường khoa học và công nghệ đồng bộ, hiệu quả, hiện đại và hội nhập.
Báo cáo tại hội nghị, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới rất lớn. Trong đó, hoàn thiện thị trường khoa học và công nghệ là giải pháp trọng tâm, lâu dài để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh.
Bảy giải pháp được lãnh đạo ngành đưa ra, trong đó có phát triển hạ tầng quốc gia cho thị trường khoa học và công nghệ. Theo đó, Việt Nam sẽ hình thành và vận hành ba sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại ba miền đất nước. Đây là tổ chức trung gian của thị trường khoa học và công nghệ, nhằm kết nối cung – cầu; thương mại hóa kết quả nghiên cứu; hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trưng bày, trình diễn, triển lãm, xúc tiến giao dịch sản phẩm khoa học và công nghệ.
Theo Bộ trưởng, cần đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung và cổng thông tin về thị trường khoa học và công nghệ; đầu tư phát triển và ứng dụng các công cụ phân tích, thống kê, xử lý dữ liệu giao dịch công nghệ, quản trị và kết nối cơ sở dữ liệu dùng chung, số hóa, tích hợp dữ liệu. Bên cạnh đó, cần thiết lập mạng lưới kết nối và đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu nhân tài người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động đổi mới sáng tạo, phát triển thị trường khoa học công nghệ Việt Nam.
Người đứng đầu Bộ Khoa học và Công nghệ cũng cho hay, các doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ đánh giá nhu cầu công nghệ, khả năng cung ứng, khai thác nguồn tài sản trí tuệ; phân tích xu hướng công nghệ; thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng công nghệ để tăng năng suất lao động. Nguồn cung, các kênh nhập khẩu công nghệ tiên tiến sẽ được hình thành, ưu tiên từ nước phát triển.
Ông Đạt cũng cho biết sẽ liên thông, tiến tới đồng bộ hóa thị trường khoa học công nghệ với thị trường hàng hóa, lao động, tài chính. Doanh nghiệp được hỗ trợ nắm vững tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; thực hiện bảo hộ, khai thác tài sản trí tuệ phục vụ hoạt động thương thảo, giao dịch, mua bán.
Môi trường pháp lý sẽ được hoàn thiện; thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế, đặc biệt là chuyển giao, làm chủ, phát triển công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên. “Chính sách khuyến khích chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp phụ trợ trong nước sẽ được xây dựng”, Bộ trưởng Đạt nói.
Trước đó, phát biểu khai mạc, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng những năm qua, thị trường khoa học công nghệ Việt Nam đã được đầu tư, bước đầu hình thành, phát triển, đạt được kết quả nhất định. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển và một số thị trường khác thì thị trường khoa học công nghệ phát triển chậm, nhiều vướng mắc, chưa gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng với nhu cầu sản xuất, kinh doanh.
Phát triển mạnh mẽ thị trường công nghệ là một trong những giải pháp chủ yếu thúc đẩy đổi mới sáng tạo để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, tăng sức cạnh tranh trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Vì vậy, Thủ tướng đề nghị đại biểu tập trung phân tích, đánh giá sự vận hành của thị trường khoa học công nghệ Việt Nam; làm rõ điểm mạnh – yếu; đánh giá tương tác, phối hợp giữa các chủ thể.
Ông cũng nêu hàng loạt vấn đề về: kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ của các viện, trường khá dồi dào, nhưng hàng hóa khoa học công nghệ vẫn còn rất hạn chế? Tại sao nhu cầu tiếp thu, hấp thụ, làm chủ công nghệ mới luôn hiện hữu, song không phải doanh nghiệp nào cũng tích cực, hào hứng đầu tư mua sắm hàng hóa khoa học công nghệ”?.
Thủ tướng băn khoăn về vai trò kết nối của các tổ chức trung gian, môi giới đã thúc đẩy giao dịch, lưu thông hàng hóa khoa học công nghệ hay chưa? Hạ tầng quốc gia của thị trường khoa học công nghệ hiện nay ra sao, hội nhập với thị trường khu và quốc tế thế nào?
Thủ tướng đề nghị đại biểu làm rõ vấn đề cơ chế, chính sách phát triển thị trường khoa học công nghệ còn vướng ở đâu? Giải pháp đột phá nào để phát triển khoa học công nghệ đồng bộ, hiện đại thời gian tới?
Hiện cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học công nghệ có 22.500 thông tin về nguồn cung công nghệ; 365.000 thông tin về sở hữu trí tuệ. Số lượng nguồn cung công nghệ được thu thập và phổ biến khoảng 77.000 bản ghi. Tuy nhiên, chỉ 16% doanh nghiệp coi các viện nghiên cứu, đại học Việt Nam là nguồn cung hàng hóa này. Theo Tổng cục Thống kê, 75% công nghệ và thiết bị của doanh nghiệp Việt Nam có nguồn gốc nước ngoài.
Tổng chi phí mua sắm công nghệ, thiết bị, máy móc của doanh nghiệp cả nước năm 2020 là 40 tỷ USD, tăng 1,5 lần năm 2016. Cả nước có 800 tổ chức trung gian hoạt động trong thị trường khoa học công nghệ.
Chiều ngày 18/10, tại Hà Nội, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (VCA) phối hợp với Đại sứ quán Anh tổ chức Hội thảo “Phát triển nông nghiệp xanh, bền vững, ứng dụng công nghệ cao, ứng phó với biến đổi khí hậu”. Chủ trì hội thảo gồm có: Ông Iain Frew, Đại sứ Vương quốc Anh tại Việt Nam; Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam; Ông Nguyễn Hoàng Giang, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ; Bà Phạm Thị Hồng Yến, Ủy viên Thường trực Ủy Ban Kinh tế của Quốc hội.
Quang cảnh Hội thảo
Cùng tham dự Hội thảo gồm các đại biểu là lãnh đạo cơ quan Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, đại diện các Ban, Bộ, ngành, đại diện lãnh đạo Liên minh HTX 12 tỉnh, thành phố, các HTX các tỉnh, đại diện từ các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam, các chuyên gia, nhà khoa học từ các viện nghiên cứu, các trường đại học.
Hội thảo được tổ chức nhằm đánh giá thực trạng nông nghiệp xanh, bền vững, ứng dụng công nghệ cao, ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam nói chung và của HTX tại Việt Nam nói riêng. Thông qua đây, hội thảo sẽ giới thiệu giải pháp phát triển nông nghiệp xanh, sản xuất bền vững, ứng dụng công nghệ cao và ứng phó với biến đổi khí hậu cho HTX. Chia sẻ kinh nghiệm phát triển đồng thời kết nối các HTX tại Việt Nam và tại Anh nhằm trao đổi kinh nghiệm, xúc tiến thương mại giữa hau bên.
Ông Iain Frew, Đại sứ Vương quốc Anh tại Việt Nam phát biểu tại Hội thảo
Hội thảo tập trung vào các nội dung như Khung chương trình hợp tác FAO – Việt Nam về phát triển bền vững; nông nghiệp xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam; ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp tại HTX; Chính sách thúc đẩy sản xuất nông nghiệp xanh, bền vững, ứng dụng công nghệ cao, ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam; Cà phê bền vững tại Việt Nam – khuyến nghị chính sách; Xuất khẩu gạo của Việt Nam biến động trong đại dịch Covid-19 và chuyển đổi bền vững; các giải pháp năng lượng xanh của Anh về sinh khối và chất thải nông nghiệp, di truyền học và kết nối thương mại giữa các HTX, doanh nghiệp giữa 2 nước.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nhiệt liệt chào mừng và gửi lời cảm ơn chân thành tới các quý vị đại biểu đã đến tham dự và phát biểu tại Hội thảo. Đồng thời giới thiệu khái quát về tình hình phát triển KTTT tại Việt Nam cũng như chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.
Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phát biểu khai mạc Hội thảo
Theo đó, Tại Việt Nam, KTTT mà nòng cốt là HTX, là thành phần kinh tế quan trọng, luôn được Đảng, Nhà nước khuyến khích phát triển, xác định KTTT là thành phần kinh tế phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa phát huy vai trò của khu vực tư nhân, vừa tăng cường sức mạnh tập thể, cộng đồng, tăng sức mạnh của từng thành viên và của cả cộng đồng, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Sau Nghị quyết số 20 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam được ban hành ngày 16 tháng 6 năm 2022 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, khu vực KTTT, HTX nước ta đã bước sang giai đoạn mới, trở thành thành phần kinh tế quan trọng, cùng kinh tế nhà nước trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, do biến đổi khí hậu ảnh hưởng đối với các nước, đại dịch Covid-19 gây nên khủng hoảng kinh tế và đứt gãy chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu. Kinh tế thế giới và khu vực phục hồi chậm, liên kết và tự do hoá thương mại vẫn là xu thế chủ đạo, nhiều nước tăng cường bảo hộ thương mại; khoa học, công nghệ, cách mạng công nghiệp lần thứ tư và kinh tế số phát triển nhanh; Phương thức kinh tế bao trùm, chia sẻ và xanh, cùng với đó là phát triển kinh tế hợp tác, HTX diễn ra phổ biến ở nhiều nước.
“Để tiếp tục duy trì tăng trưởng, khả năng cạnh tranh trong bối cảnh HTX phải đổi mặt với những khó khăn do đại dịch, biến đổi khí hậu, các nguồn tài nguyên đang dần cạn kiệt, gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh thì HTX phải chuyển đổi mô hình theo hướng sản xuất bền vững, xanh hóa và ít phát thải, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và năng lượng. Trong xu thế phát triển hiện nay, sản xuất xanh, ít phát thải và phát triển bền vững hiện đã trở thành mục tiêu mà nhiều quốc gia theo đuổi, trong đó có Việt Nam”. Ông Nguyễn Ngọc Bảo nhấn mạnh.
Phiên thảo luận với Chủ đề: “Cơ hội cho các nhà xuất khẩu Anh trong chuỗi bán lể của Việt Nam – Ứng dụng công nghệ xanh tại Việt Nam và cơ hội tham gia thị trường quốc tế” với sự điều hành của Ông Nguyễn Anh Đức, Tổng giám đốc Liên hiệp Hợp tác xã thương mại Tp. Hồ Chí Minh (Saigon Co.op) và Ông Ronal Bohlander- Tham tán về Biến đổi Khí hậu, Đại sứ quán Anh
Tại Hội thảo, đại biểu tham dự được lắng nghe các bài tham luận chất lượng từ cả phía Việt Nam và Vương quốc Anh về những chủ đề đang là xu hướng trên toàn cầu như: nông nghiệp công nghệ cao, phát triển nông nghiệp xanh bền vững, năng lượng xanh ứng phó với biến đổi khí hậu, chuyển đổi số trong phục hồi và phát triển sau đại dịch Covid-19.
Hội thảo đã cùng thống nhất Phát triển nông nghiệp xanh, bền vững, ứng công nghệ cao, ứng phó với biến đổi khí hậu là xu hướng chung hiện nay, nhất là trong bối cảnh các nước đang phục hồi sau đại dịch COVID-19 và đang phải đối mặt với các biến đổi phức tạp của thời tiết.
Lễ ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác giữa Viện Khoa học công nghệ và Môi trường với Công ty TNHH năng lượng tái tạo Qube
Thông qua hội thảo, nhiều đề xuất về các giải pháp ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số vào phát triển HTX tại Việt Nam được đánh giá rất khả thi và thiết thực. Bên cạnh đó, Hội thảo cũng đã kết nối thành công được các HTX, doanh nghiệp của Việt Nam với các doanh nghiệp của Vương quốc Anh.
Cũng trong khuôn khổ Hội thảo đã diễn ra Lễ ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác giữa Viện Khoa học công nghệ và Môi trường với Công ty TNHH năng lượng tái tạo Qube (Anh) dưới sự chứng kiến của lãnh đạo Đại sứ Vương quốc Anh tại Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ, Ủy Ban Kinh tế của Quốc hội.
Một số hình ảnh tại Hội thảo:
Tiệc trà do Đại sứ Vương quốc Anh mời đoàn chủ tịch
Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo tặng quà lưu niệm cho Ông Iain Frew, Đại sứ Vương quốc Anh tại Việt Nam
Ông Rémi Nono Womdim, Trưởng đại diện Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO) tại Việt Nam trình bày bài tham luận về “Khung chương trình hợp tác FAO-Việt Nam về phát triển bền vững”
Ông Lưu Quang Minh, Phó Vụ trưởng Vụ KH&CN các ngành kinh tế kỹ thuật, Bộ Khoa học và Công nghệ trình bày bài tham luận: Chính sách thúc đẩy sản xuất nông nghiệp xanh, bền vững, ứng dụng công nghệ cao, ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam
Bà Nguyễn Khánh Ngọc, Phó Vụ trưởng, Vụ thị trường châu Âu- châu Mỹ Bộ Công Thương với bài tham luận về “Cơ hội và thách thức trong phát triển hợp tác nông nghiệp Việt Nam – Anh”
Ông Chu Tiến Đạt, Phó Trưởng ban HTQT, Liên minh HTX Việt Nam trình bày bài tham luận về “Tình hình ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số trong phục hồi và phát triển khu vực KTTT, HTX trong và sau đại dịch “
Ngày 23/9, tại trụ sở Chính phủ đã diễn ra Diễn đàn kinh tế hợp tác, hợp tác xã năm 2022 với chủ đề “Chuyển đổi số – Động lực phát triển KTHT, HTX xã trong kỷ nguyên mới gắn với Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022”. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì và chỉ đạo Diễn đàn.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu chỉ đạo tại Diễn đàn
Diễn đàn được tổ chức theo hình thức trực tiếp tại Trụ sở Chính phủ, kết hợp trực tuyến tại điểm cầu 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Dự diễn đàn tại đầu cầu Trụ sở Chính phủ có các Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái; các Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; lãnh đạo các Ban, bộ, ngành Trung ương; đại diện các tổ chức quốc tế, các chuyên gia, nhà khoa học; đặc biệt là các tổ chức kinh tế hợp tác, doanh nghiệp liên kết.
Đồng chí Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phát biểu tại Diễn đàn
Đại diện Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, đồng chí Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam dự Diễn đàn và có bài phát biểu tham luận về Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị của các hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã trong chuyển đổi số.
Cổng thông tin điện tử Liên minh Hợp tác xã Việt Nam xin đăng toàn văn bài phát biểu quan trọng này:
Đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, chuyển đổi số là quá trình ứng dụng công nghệ số và sử dụng cơ sở dữ liệu làm thay đổi mô hình kinh doanh, nhằm giảm chi phí, tiếp cận tối đa khách hàng, tăng năng suất và hiệu quả sản xuất, kinh doanh, mang lại lợi ích cho thành viên.
Tình hình phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh, chuyển đổi số của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
1.1. Sáu tháng đầu năm 2022, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, kể cả tổ hợp tác phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh, đóng góp tích cực cho ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, ổn định xã hội: Số lượng hợp tác xã (HTX), liên hiệp HTX (LHHTX), tổ hợp tác (THT) thành lập mới và hộ cá thể, cá nhân tham gia thành viên tăng khá ở hầu hết các tỉnh, thành phố, nhất là lĩnh vực nông nghiệp và địa bàn nông thôn (thành lập mới 756 HTX, 11.050 THT, 12 LHHTX); HTX, LHHTX, THT tăng số lượng và giá trị dịch vụ cung ứng cho thành viên, tạo việc làm cho thành viên và người lao động, doanh thu của HTX tăng bình quân 5,6% so với cùng kỳ năm 2021, HTX vận tải, thương mại và tín dụng đạt doanh thu ở mức cao; phần lớn HTX, LHHTX có lãi nhưng không cao do chi phí đầu vào tăng; thu nhập của thành viên HTX phi nông nghiệp tăng 6% so với cùng kỳ năm 2021. Sự phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh của HTX, LHHTX có nhiều nguyên nhân, trong đó: (1) Nhiều HTX, LHHTX đã tiếp cận và thụ hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội về giảm tiền thuê đất, gia hạn thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm thuế giá trị gia tăng, cơ cấu lại nợ tại các tổ chức tín dụng, vay vốn ưu đãi của Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX trực thuộc hệ thống Liên minh HTX Việt Nam; hỗ trợ từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp; (2) HTX, LHHTX đang từng bước thực hiện chuyển đổi số trong cung ứng đầu vào, canh tác, chế biến, truy xuất nguồn gốc, xây dựng thương hiệu, đa dạng hoá kênh tiêu thụ sản phẩm trong nước và xuất khẩu.
1.2. Một số kết quả đạt được về chuyển đổi số của HTX, LHHTX
(1) Nhiều HTX, LHHTX sử dụng các nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin, phần mềm quản trị dữ liệu bằng các tệp máy tính có định dạng, trao đổi thông tin, quản trị hoạt động đầu vào, đầu ra,…; truy xuất thông tin, nguồn gốc sản phẩm; sử dụng hóa đơn điện tử trong hoạt động thanh toán. 65% số HTX được khảo sát vào tháng 6/2022 do Liên minh HTX cấp tỉnh thực hiện đã sử dụng công nghệ số ở mức độ khác nhau để quản trị hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhiều HTX, LHHTX ở lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ ứng dụng công nghệ số mang lại hiệu quả do cán bộ có trình độ, sẵn sàng tiếp cận công nghệ mới, liên kết chuỗi giá trị và được Nhà nước, các tổ chức ở trong, ngoài nước hỗ trợ.
(2) Nhiều HTX, LHHTX nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp áp dụng công nghệ cao (tưới nhỏ giọt, lò sấy trống, chế biến cà phê ướt,…), sản xuất sản phẩm có thương hiệu (OCOP, hữu cơ, GlobalGap,…), tiêu thụ sản phẩm thông qua thương mại điện tử (Facebook, Zalo, Fanpage, Group, Shopee, Sendo, Tiki, Voso, Postmart,… ), Sàn bán hàng điện tử của Liên minh HTX Việt Nam. HTX vận tải đầu tư thiết bị, phần mềm để quản trị hành trình, khách hàng và vận đơn hàng hóa, tích hợp thanh toán tự động không dừng; HTX thương mại đầu tư mở rộng kho và cửa hàng, thiết bị ứng dụng phần mềm bán hàng, quản lý nhập, xuất hàng hóa; Ngân hàng HTX và các Quỹ tín dụng nhân dân đẩy mạnh chuyển đổi số trong tổ chức hoạt động, cung ứng dịch vụ.
(3) Nhiều HTX, LHHTX thực hiện chuyển đổi số làm thay đổi hoạt động so với phương thức quản trị truyền thống; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Các HTX, LHHTX có tiến bộ về nhận thức chuyển đổi số trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư thiết bị hạ tầng và ứng dụng công nghệ thông tin đầu vào, đầu ra, giảm thời gian tìm kiếm thông tin trên nền tảng số, tiết kiệm không gian lưu trữ và chi phí quản lý, nâng cao hiệu suất làm việc. Theo khảo sát đến cuối tháng 6/2022 do Liên minh HTX cấp tỉnh thực hiện, có 83,5% số HTX được khảo sát cho rằng, việc chuyển đổi số là cần thiết, 18,9% HTX đã có kế hoạch chuyển đổi số, 68% HTX sử dụng ít nhất một trong các phương thức giới thiệu và bán hàng trực tuyến.
1.3. Tồn tại, yếu kém và nguyên nhân
(1) Quá trình chuyển đổi số của các HTX, LHHTX diễn ra chậm; theo khảo sát của Liên minh HTX cấp tỉnh, khoảng 50% số HTX được khảo sát chưa có định hướng và kế hoạch chuyển đổi số; cán bộ quản trị ở nhiều HTX chưa quyết tâm, chưa tuyên truyền, lan tỏa được tới thành viên về lợi ích của chuyển đổi số là nhu cầu tất yếu, mang lại hiệu quả và năng lực cạnh tranh.
(2) Cơ sở hạ tầng thông tin của phần lớn HTX ở mức thấp, lạc hậu, chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình chuyển đổi số; nhiều HTX chưa có trụ sở làm việc, cán bộ quản trị và nhân lực của HTX hiểu và thực hành kỹ năng số còn hạn chế như: Kỹ năng xây dựng cơ sở dữ liệu, kỹ năng sử dụng thiết bị số, kỹ năng tìm kiếm, đánh giá và quản trị thông tin trên thiết bị số, kỹ năng sử dụng phần mềm trong quá trình sản xuất, kỹ năng truyền thông số (thông qua website, các trang thương mại điện tử, mạng xã hội), kỹ năng thương mại điện tử; kỹ năng thanh toán điện tử,…
(3) Việc ứng dụng các phần mềm tiện ích chưa được chú trọng; ứng dụng công nghệ số trong tìm kiếm, phân tích và dự báo thị trường còn nhiều hạn chế; thanh toán điện tử chiếm tỷ lệ thấp trong các HTX ở vùng sâu, vùng xa, quản trị tài sản bằng sổ giấy.
(4) Việc số hóa dữ liệu của phần lớn HTX, LHHTX ở mức độ thấp (số hoá thông tin, tài liệu, chứng từ, sổ sách,… ); chưa có khả năng chuyển các hoạt động quản trị sản xuất, kinh doanh lên không gian mạng, từ môi trường truyền thống lên môi trường số để chuyển đổi mô hình hoạt động dựa trên công nghệ số, dữ liệu số.
Nguyên nhân: (1) Tỷ lệ lớn HTX, nhất là lĩnh vực nông nghiệp có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm còn theo mô hình truyền thống, chưa thấy được nhu cầu cấp bách về chuyển đổi số; (2) Nhận thức của cán bộ quản trị và thành viên của nhiều HTX, LHHTX về chuyển đổi số còn hạn chế; thiếu nguồn lực và điều kiện cơ bản để chuyển đổi số như hạ tầng thông tin, tài chính và nhân lực có kỹ năng chuyển đổi số; (3) Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” chưa quy định cụ thể đối tượng áp dụng và thụ hưởng chính sách là HTX, LHHTX; cơ sở dữ liệu của các ngành, lĩnh vực (nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ) trên phạm vi toàn quốc và địa phương chưa được thu thập đồng bộ và chưa được công khai để HTX, LHHTX tiếp cận và sử dụng.
Đề xuất, kiến nghị
Chuyển đổi số là nhu cầu tất yếu và động lực phát triển của các HTX, LHHTX. Bên cạnh việc tự huy động nguồn lực để thực hiện chuyển đổi số, đảm bảo tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, nâng cao năng lực quản trị và cạnh tranh; các HTX, LHHTX đề xuất, kiến nghị với các cơ quan Nhà nước, cấp ủy và chính quyền địa phương như sau:
(1) Thể chế hoá chủ trương tại Nghị quyết số 20-NQ/TW 16/6/2022 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới “Hỗ trợ các tổ chức kinh tế tập thể đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số” trong Luật HTX (sửa đổi) và Chương trình tổng thể về phát triển kinh tế tập thể trên phạm vi toàn quốc, có quy định cụ thể để các tổ chức kinh tế tập thể tiếp cận, thụ hưởng các nguồn lực hỗ trợ chuyển đổi số.
(2) Xây dựng và tạo điều kiện cho các HTX, LHHTX tiếp cận và sử dụng cơ sở dữ liệu của ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế – xã hội để xây dựng, áp dụng các ứng dụng chuyển đổi số phục vụ sản xuất, kinh doanh.
(3) Ban hành hướng dẫn về chuyển đổi số cho các HTX, LHHTX theo ngành, lĩnh vực mà các bộ, ngành, địa phương quản lý trên cơ sở nhiệm vụ đã được phân công thực hiện tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ như: Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về công nghệ số, kinh tế số và chuyển đổi số cho các HTX, LHHTX và thành viên; đào tạo, tập huấn về công nghệ thông tin; kiến thức và các kỹ năng chuyển đổi số; giải pháp chuyển đổi số đối với các loại hình HTX, LHHTX; hỗ trợ thiết bị cơ bản phục vụ chuyển đổi số; hỗ trợ nhân lực lao động trẻ có chuyên môn về làm việc có thời hạn tại HTX, LHHTX…
(4) Bổ sung HTX, LHHTX là đơn vị tham gia Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam theo Quyết định số 1320/QĐ-TTg ngày 08/10/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam từ năm 2020 đến năm 2030, tạo điều kiện cho HTX, LHHTX tiếp cận nguồn lực này.
(5) Xây dựng, công khai và tổ chức thực hiện các quy hoạch cụ thể chuỗi giá trị đối với các sản phẩm nông sản chủ lực quốc gia, cấp tỉnh, gắn với ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số; cùng với đó là ban hành chính sách để huy động các nguồn lực hỗ trợ cho các thành phần kinh tế trong các chuỗi giá trị nông sản như tiền thuê đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, tín dụng, thuế, bảo hiểm cây trồng và vật nuôi, chuyển đổi số, đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư cơ sở hạ tầng sản xuất và thông tin, truy xuất nguồn gốc, xây dựng thương hiệu…
(6) Xem xét, cấp bổ sung vốn điều lệ cho Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX Việt Nam và Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX cấp tỉnh theo quy định tại Nghị định số 45/2021/NĐ-CP ngày 31/3/2021 của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX, để có nguồn vốn cho vay hỗ trợ HTX, LHHTX thực hiện chuyển đổi số, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; đến nay Bộ Tài chính, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ban hành các Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 45/2021/NĐ-CP, đủ hành lang pháp lý để các tỉnh, thành phố thành lập và hoạt động Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX.
Nhiều hợp tác xã (HTX) đã tiếp cận chuyển đổi theo mô hình HTX kiểu mới, linh hoạt, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, thích ứng với nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, chuyển đổi số tại các HTX muốn thành công cần thay đổi tư duy từ sản xuất truyền thống sang ứng dụng công nghệ; đồng thời phù hợp với từng HTX về cơ sở hạ tầng, trình độ nhân lực…
HTX Cao nguyên Coffee (Kon Tum) quảng bá sản phẩm rau, củ, quả sản xuất theo công nghệ Nhật Bản – Ảnh: VGP
Dự kiến, ngày mai (23/9), Thủ tướng Chính phủ sẽ chủ trì Diễn đàn Kinh tế hợp tác, hợp tác xã năm 2022 với chủ đề “Chuyển đổi số – Động lực phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong kỷ nguyên mới”.
Đây là diễn đàn đối thoại giữa Chính phủ và cộng đồng khu vực kinh tế tập thể, HTX. Tại Diễn đàn, đại diện các hiệp hội, doanh nghiệp, HTX, liên hiệp HTX sẽ cùng trao đổi những vấn đề mới trong phát triển kinh tế hợp tác, HTX, nhất là về chuyển đổi số cũng như nhận diện rõ hơn các cơ hội, thách thức và đề ra các giải pháp để chuyển đổi số mạnh và nhanh trong phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã.
Chuyển đổi số được đánh giá là đòn bẩy quan trọng, tạo ra những cơ hội giúp khu vực kinh tế tập thể, HTX phát triển. Theo khảo sát của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, 83,5% HTX đánh giá việc chuyển đổi số là cần thiết; 18,9% HTX đã có kế hoạch với lộ trình thực hiện cụ thể; 68% HTX có sử dụng ít nhất một trong các phương thức giới thiệu và bán sản phẩm trực tuyến…
Đặc biệt, nhiều HTX đã ứng dụng công nghệ cao để sản xuất, kiểm soát chất lượng đầu ra, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. Tiêu biểu như HTX Thành Công (Quảng Trị) với công nghệ làm mát tự động trong chăn nuôi lợn, trồng rau thủy canh; mô hình “cây xoài nhà tôi” tại tỉnh Đồng Tháp đã ứng dụng CNTT giúp kết nối HTX với khách hàng; HTX Nông ngư 14/10 (Sóc Trăng) nuôi tôm sạch theo tiêu chuẩn ASC với sản lượng 160 tấn, xuất khẩu sang châu Âu…
Việc chuyển đổi số hoạt động sản xuất, kinh doanh bước đầu đã làm thay đổi tổ chức và quản trị hoạt động của HTX so với phương thức quản lý truyền thống; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HTX. Phần lớn các HTX đã nhận thức về tầm quan trọng của chuyển đổi số đối với tổ chức hoạt động và sự phát triển (đặc biệt trong và sau dịch bệnh COVID-19); xây dựng chiến lược, kế hoạch cụ thể về chuyển đổi số (từ 3 – 5 năm) và xác định những nền tảng cần có theo những nét đặc trưng của HTX.
Thực tế cho thấy, việc ứng dụng công nghệ 4.0, khoa học kỹ thuật tiên tiến trong quản lý vận hành và tiêu thụ sản phẩm đã và đang mang lại nhiều lợi ích cho các HTX. Tuy nhiên, công cuộc chuyển đổi số trong khu vực kinh tế tập thể vẫn còn không ít khó khăn. Kết quả khảo sát các HTX cũng cho thấy còn hơn 50% HTX chưa có định hướng về chuyển đổi số, trong đó, 37,5% HTX có chủ trương, quyết tâm nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu và 18,9% HTX chưa xây dựng kế hoạch về chuyển đổi số.
Tránh lệch pha giữa công nghệ và khả năng vận dụng
Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho biết, chuyển đổi số tại các HTX vẫn còn chậm và gặp nhiều khó khăn bởi ba nguồn lực quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời là điều kiện nền tảng để thực hiện chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin tại các HTX nông nghiệp gồm tài chính, cơ sở hạ tầng và nhân lực đều hạn chế.
Trong đó, phần lớn các HTX nông nghiệp đang gặp khó khăn về vốn trong kinh doanh, khó bố trí nguồn lực tài chính đầu tư vào đổi mới, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật; mức độ sẵn sàng và khả năng tiếp cận công nghệ của cán bộ quản lý, thành viên HTX đều ở mức dưới trung bình do trình độ thấp, độ tuổi trung bình cao và tâm lý ngại thay đổi; cơ sở vật chất từ nhà xưởng đến trang thiết bị phục vụ chuyển đổi số còn lạc hậu do HTX không có tài chính để đầu tư.
Bên cạnh đó, vẫn còn thiếu những quy định, cơ chế thực hiện chính sách hỗ trợ, ưu đãi đặc thù áp dụng cho đối tượng đặc thù HTX liên quan đến chuyển đổi số. Các HTX khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn đầu tư phát triển và thông tin liên quan đến chuyển đổi số: Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” chưa điều chỉnh đối tượng HTX.
Ông Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng, một trong bài học kinh nghiệm được rút ra trong thời gian qua, đó là chuyển đổi số cần phù hợp với từng HTX về cơ sở hạ tầng, trình độ nhân lực…, tránh “lệch pha” giữa công nghệ và khả năng vận dụng.
Để chuyển đổi số thành công, vấn đề cốt lõi là thay đổi nhận thức của các thành viên của HTX. Khi các HTX nhìn nhận đúng vai trò, ý nghĩa của việc ứng dụng công nghệ 4.0 vào quản lý sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, thì sẽ có sự quan tâm, đầu tư đúng mức, thay đổi mô hình quản trị.
Tuy nhiên, hiện nay, tỉ lệ thành viên HTX có chuyên môn cao về sản xuất, chế biến nông sản, biết sử dụng, vận hành các thiết bị (tự động, số, thiết bị phân tích…) rất hạn chế, bởi chủ yếu là nông dân, chưa được đào tạo chuyên môn bài bản, trình độ chủ yếu ở mức tiểu học và trung học cơ sở.
Theo kết quả khảo sát, mức độ hiểu biết và kỹ năng số của thành viên HTX đạt mức trung bình, mức độ sẵn sàng tham gia vào quá trình chuyển đổi số hạn chế, năng lực chuyển đổi số của thành viên HTX vẫn ở mức độ dưới trung bình; nhân lực phục vụ chuyển đổi số và áp dụng công nghệ thông tin tại các HTX còn nhiều hạn chế về năng lực.
Chính vì thế, đầu tiên, các HTX, đặc biệt là lãnh đạo HTX cần được tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực quản trị. Các thành viên HTX cũng cần được tuyên truyền để thay đổi tư duy từ cạnh tranh sang hợp tác, liên kết chặt chẽ với nhau.
Ngoài ra, một trong những giải pháp quan trọng để “kích hoạt” chuyển đổi số tại các HTX trong thời gian tới, đó là xây dựng hệ thống dữ liệu lớn của ngành nông nghiệp. Trong đó, chú trọng xây dựng các hệ thống dữ liệu lớn của ngành như đất đai, cây trồng, vật nuôi, thủy sản…
Theo đó thiết lập mạng lưới quan sát, giám sát tích hợp trên không và mặt đất phục vụ các hoạt động nông nghiệp; thúc đẩy cung cấp thông tin về môi trường, thời tiết, chất lượng đất đai, ứng dụng bản đồ tra cứu thông tin thổ nhưỡng, thủy văn, sản lượng nông sản, thủy sản trên cả nước và chi tiết từng tỉnh, thành phố… để người nông dân có thể tra cứu và áp dụng nâng cao năng suất và chất lượng cây trồng.
Hệ thống cơ sở dữ liệu của ngành nông nghiệp cấp Trung ương và địa phương được hoàn thiện sẽ là nguồn dữ liệu quan trọng để xây dựng, áp dụng các ứng dụng chuyển đổi số và công nghệ thông tin tại các HTX nông nghiệp.
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam mong muốn Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan trung ương dành nhiều sự quan tâm hơn tới các HTX nói chung và trong quá trình chuyển đổi số nói riêng, xây dựng những cơ chế, chính sách, chương trình hỗ trợ về nguồn nhân lực, tài chính trong quá trình thực hiện chuyển đổi số, hạ tầng thiết bị cơ bản phục vụ chuyển đổi số, hỗ trợ HTX sử dụng một số nền tảng ứng dụng chuyển đổi số (trong hoạt động quản lý, sản xuất, thương mại hóa sản phẩm), hỗ trợ thành lập HTX cung ứng dịch vụ công nghệ cao ở các địa phương,… hướng dẫn cụ thể, thiết thực hơn nữa, phù hợp với mô hình tổ chức sản xuất, kinh doanh của HTX, giúp HTX có thể áp dụng hiệu quả hơn những hạng mục trong quá trình chuyển đổi số.
Nhà nước có thể đầu tư, xây dựng một nền tảng hệ sinh thái số dùng chung cho các HTX để hỗ trợ chi phí đầu tư ban đầu, giúp HTX tận dụng, tiếp cận đúng hướng, nhanh và hiệu quả hơn với quá trình chuyển đổi số…
(ĐCSVN) – Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, việc tổ chức Diễn đàn Diễn đàn Kinh tế hợp tác, hợp tác xã năm 2022 nhằm truyền tải thông điệp quan trọng của tinh thần đổi mới, sáng tạo, đột phá đối với mô hình kinh tế tập thể là thành phần kinh tế quan trọng.
Sáng 23/9, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Diễn đàn Kinh tế hợp tác, hợp tác xã năm 2022, với chủ đề “Chuyển đổi số – Động lực phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong kỷ nguyên mới gắn với thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022″. Diễn đàn được tổ chức theo hình thức trực tiếp tại Trụ sở Chính phủ, kết hợp trực tuyến tại điểm cầu 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Dự diễn đàn tại đầu cầu Trụ sở Chính phủ có các Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái; các Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương; đại diện các tổ chức quốc tế, các chuyên gia, nhà khoa học; đặc biệt là các tổ chức kinh tế hợp tác, doanh nghiệp liên kết.
Diễn đàn được tổ chức với hai hình thức trực tiếp và trực tuyến (Ảnh: chinhphu.vn)
Đổi mới, sáng tạo, đột phá với mô hình kinh tế tập thể, trọng tâm là các HTX
Phát biểu khai mạc, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, việc tổ chức Diễn đàn nhằm truyền tải thông điệp quan trọng của tinh thần đổi mới, sáng tạo, đột phá đối với mô hình kinh tế tập thể (nòng cốt là các tổ chức kinh tế hợp tác, HTX) là thành phần kinh tế quan trọng. Tinh thần đổi mới bao gồm thay đổi tư duy nhận thức và hành động để thay đổi phương thức hoạt động, quản lý sự thay đổi gắn với chuyển đổi số để tạo ra những giá trị mới, chuyển đổi mô hình kinh tế tập thể một cách linh hoạt, phù hợp đạt hiệu quả cao, tiết giảm chi phí, tối ưu và tăng nguồn lực cho sự phát triển.
Thủ tướng nhấn mạnh, chuyển đổi số là xu thế tất yếu, đòi hỏi khách quan của sự phát triển và được xác định là yêu cầu bắt buộc. Chuyển đổi số giúp giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường, xã hội; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh, giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp, đồng thời giúp các cấp, các ngành thay đổi phương thức và nâng cao năng lực quản lý điều hành. Ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số là phù hợp với phẩm chất, năng lực con người Việt Nam cần cù, ham học hỏi, linh hoạt, và sáng tạo.
Tiến trình chuyển đổi số trong nước đang diễn ra rất mạnh mẽ, sâu rộng. Khi dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, chuyển đổi số trở thành đòi hòi bức thiết của các cấp, các ngành, các địa phương và người dân, doanh nghiệp để vừa phòng, chống dịch hiệu quả, vừa phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội. Khi dịch bệnh được kiểm soát, chuyển đổi số tiếp tục là công tác trọng tâm, góp phần quan trọng phục hồi nhanh, phát triển bền vững kinh tế-xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả; lấy nội lực là cơ bản, chiến lược, quyết định, lâu dài, ngoại lực là quan trọng, đột phá; tập trung thực hiện 3 đột phá chiến lược về thể chế, nhân lực và hạ tầng.
Chuyển đổi số là chủ trương, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước, là công việc phải thường xuyên, liên tục theo dõi, đánh giá, đôn đốc, chỉ đạo sát sao và quyết liệt triển khai. Vấn đề đặt ra cho chúng ta phải đẩy mạnh chuyển đổi số một cách nhanh chóng, hiệu quả và thực chất.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính (Ảnh: chinhphu.vn)
Chuyển đổi số trong phát triển kinh tế tập thể, HTX là yêu cầu cấp thiết
Thực tiễn 20 năm qua cho thấy, chính sách, pháp luật về kinh tế tập thể (KTTT) được quan tâm xây dựng, hoàn thiện phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu mới đặc biệt trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, một trong những nhiệm vụ cốt lõi, mang tính nền tảng là sửa đổi Luật Hợp tác xã năm 2012, dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến về Dự thảo tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XV.
Phát biểu tại Diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông cho biết, Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT trong giai đoạn mới đã được ban hành, thể hiện rõ quan điểm của Ðảng tiếp tục củng cố và phát triển vai trò khu vực KTTT. Đây chính là các nội dung mang tính chiến lược, là cơ sở cho việc hoàn thiện cơ chế, thể chế phát triển và quản trị cho khu vực KTTT, HTX trong giai đoạn từ nay đến 2045.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông (Ảnh: chinhphu.vn)
Cũng theo Thứ trưởng Trần Duy Đông, hoàn thiện thể chế khu vực KTTT, HTX đã tạo ra chuyển biến tích cực về chất và lượng. Về cơ bản, khắc phục tình trạng yếu kém kéo dài, tận dụng và khai thác được dư địa, tiềm năng, không gian phát triển, từng bước khẳng định vị trí, vai trò của một trong những thành phần kinh tế nền tảng trong nền kinh tế quốc dân.
Trong khuôn khổ Diễn đàn, Chủ tịch Liên minh HTX Nguyễn Ngọc Bảo thông tin, hiện cả nước có 28.237 HTX, trong đó, 18.785 HTX nông nghiệp, 9.452 HTX phi nông nghiệp. Hầu hết các HTX, liên hiệp HTX đều xây dựng phương án sản xuất kinh doanh cụ thể. Nhiều HTX đổi mới cơ sở vật chất nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng sản xuất, tiếp cận chuyển đổi theo mô hình HTX kiểu mới, linh hoạt, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, thích ứng với nhu cầu thị trường.
Theo ông Nguyễn Ngọc Bảo, Nghị quyết số 20-NQ/TW khẳng định KTTT được hỗ trợ để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, nâng cao trình độ khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo, được vay vốn từ Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức trong chuyển đổi số do tỉ lệ và hiệu quả chuyển đổi số chưa cao, chưa bền vững trong nhiều loại hình ngành nghề hoạt động và địa bàn hoạt động của HTX.
Cụ thể, trong 1.718 HTX ứng dụng công nghệ cao, chỉ có 240 HTX sử dụng phần mềm quản lý và sản xuất thông minh, chiếm 1,5%. Trong đó, các HTX này chỉ tập trung vào ứng dụng công nghệ tưới tiêu, hệ thống nhà lưới, dán tem truy xuất nguồn gốc. Còn ứng dụng chuyển đổi số vào khâu chế biến, quản lý HTX, kinh doanh sản phẩm chưa được quan tâm. Điều này khiến các HTX gặp khó khăn trong quản lý hiệu quả các nguồn lực và hạn chế sự tương tác giữa các tác nhân liên quan trong hệ sinh thái.
Để khắc phục những hạn chế trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai những nhiệm vụ cụ thể giúp HTX chuyển đổi số, như: Xây dựng và đưa vào sử dụng hệ thống đăng ký HTX trực tuyến có liên thông với đăng ký thuế; xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ chuyển đổi số trong doanh nghiệp, HTX và hộ kinh doanh giai đoạn 2021-2025 nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, góp phần tháo gỡ khó khăn do tác động của đại dịch COVID-19.
Về phía Liên minh HTX Việt Nam, ông Nguyễn Ngọc Bảo kiến nghị Nhà nước có thể đầu tư, xây dựng một nền tảng hệ sinh thái số dùng chung cho các HTX để hỗ trợ chi phí đầu tư ban đầu, giúp HTX tận dụng, tiếp cận đúng hướng, nhanh và hiệu quả hơn với quá trình chuyển đổi số. Các bộ, ngành nghiên cứu, ban hành hướng dẫn về chuyển đổi số cho HTX theo chuyên ngành, lĩnh vực mà các bộ, ngành đang quản lý, điều hành.
Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam (Ảnh: chinhphu.vn)
Phát biểu kết luận tại Diễn đàn, Thủ tướng Chính phủ đề nghị các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Ban Chỉ đạo chuyển đổi số của các bộ, ngành, địa phương khẩn trương, quyết liệt tổ chức triển khai các nhiệm vụ được giao trong Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, Chiến lược quốc gia phát triển Chính phủ số, Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số; các nhiệm vụ tại Kế hoạch số 10-KH/TW ngày 23/8/2022 của Ban Chấp hành Trung ương nhằm sớm cụ thể hóa Nghị quyết số 20-NQ/TW. Trong đó, tập trung triển khai các nhiệm vụ trọng tâm như: Xây dựng hệ sinh thái chuyển đổi số trong khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã; xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên ngành về hợp tác xã, liên thông với các cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành khác; tập trung xây dựng một số nền tảng số để phục vụ, hỗ trợ cho hợp tác xã về thông tin thị trường, khoa học công nghệ; trao đổi, tư vấn pháp luật, chính sách; đào tạo; sàn giao dịch điện tử; hợp tác quốc tế…
Thủ tướng đề nghị xây dựng, hoàn thiện thể chế, tạo khuôn khổ pháp lý phù hợp, thúc đẩy sáng tạo, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động, có tầm nhìn dài hạn để kinh tế hợp tác, hợp tác xã phát triển nhanh và bền vững; có chính sách hỗ trợ, thu hút nguồn lực, ứng dụng khoa học – công nghệ, chuyển đổi số, mở rộng thị trường cho khu vực kinh tế tập thể, bảo đảm thống nhất, đồng bộ như xây dựng các chương trình, đề án, dự án chuyển đổi số để hỗ trợ về kỹ thuật, tài chính và đội ngũ tư vấn giúp các hợp tác xã thực hiện chuyển đổi số.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi Luật Hợp tác xã năm 2012, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, đặc biệt nội dung chuyển đổi số phải là một nội dung cốt lõi, làm nền tảng; thể chế hóa Nghị quyết số 20 về nội dung chính sách đặc thù cho khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong bối cảnh nền kinh tế số; khẩn trương hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ chuyển đổi số trong khu vực doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền ban hành các cơ chế, chính sách, các quy định cho việc thực hiện truy xuất nguồn gốc nông sản bằng công nghệ số để bảo vệ nhà đầu tư chân chính cũng như bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng.
Bộ Khoa học và Công nghệ khẩn trương hướng dẫn các tổ chức kinh tế tập thể có dự án ứng dụng, nâng cao trình độ khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số được vay vốn trung, dài hạn từ Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia và của các bộ, ngành, địa phương.
UBND các tỉnh, thành phố tập trung chỉ đạo, đề ra định hướng, triển khai cơ chế chính sách tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc tạo điều kiện cho kinh tế tập thể phát triển tại địa phương; xây dựng các mô hình hợp tác xã hoạt động hiệu quả, phù hợp, tiết giảm chi phí, tối ưu hóa nguồn lực; liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị; ứng dụng công nghệ cao và thúc đẩy chuyển đổi số. Các địa phương lồng ghép các nguồn vốn từ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội và 3 Chương trình mục tiêu quốc gia thực hiện ở địa phương để thúc đẩy chuyển đổi số hợp tác xã một cách hiệu quả nhất.
Thủ tướng cho rằng, với tư cách là các tổ chức kinh tế tự chủ, các hợp tác xã phải chủ động thực hiện điều chỉnh phương thức hoạt động sản xuất kinh doanh, chuyển đổi số mạnh mẽ để tồn tại và phát triển, không trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, gắn với tăng cường năng lực quản trị hợp tác xã theo hướng công khai, minh bạch, chủ động, thích ứng bối cảnh, xu hướng phát triển mới; nghiên cứu, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, chuyển đổi số phù hợp; tăng cường học hỏi kinh nghiệm quý, bài học hay, mô hình chuyển đổi số hiệu quả.
Cùng với đó, Thủ tướng đề nghị hệ thống liên minh hợp tác xã tiếp tục đổi mới hoạt động, thể hiện tốt vai trò là cầu nối giữa Đảng và Nhà nước với khu vực kinh tế tập thể; bám sát tình hình, nắm rõ những khó khăn, nhu cầu của hợp tác xã để phản ánh đến các cấp có thẩm quyền; thúc đẩy chuyển đổi số trong các hợp tác xã, liên minh hợp tác xã một cách sâu sắc hơn; tăng cường công tác truyền thông chính sách, trong đó có nội dung về chuyển đổi số trong khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã.
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, qua gần 3/4 thế kỷ hình thành và phát triển, kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã đã đóng góp quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Thủ tướng truyền tải thông điệp với tinh thần chuyển đổi số mạnh mẽ, đổi mới, sáng tạo; mong muốn và tin tưởng rằng, mô hình kinh tế hợp tác, hợp tác xã sẽ có sự chuyển biến mạnh mẽ để hoạt động ngày càng hiệu quả, góp phần xây dựng Việt Nam thành quốc gia số, phát triển hùng cường và thịnh vượng; đời sống người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc./.
Ngày 19/8, Chi bộ Viện Khoa học, Công nghệ & Môi trường, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tổ chức Đại hội chi bộ nhiệm kỳ 2022-2025. Tới dự có đồng chí Trịnh Xuân Ngọc, Phó Bí thư Đảng ủy, Trưởng ban Tổ chức cán bộ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và toàn thể Chi bộ Viện.
Theo Báo cáo trước Đại hội, về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng viên, Chi bộ Viện đã lãnh đạo thực hiện tốt công tác quản lý đảng viên; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ, đảng viên; thường xuyên duy trì liên hệ với chi ủy và gương mẫu thực hiện các nghĩa vụ của công dân nơi cư trú. Thực hiện việc giám sát đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, Nghị quyết, quy định của cấp ủy cấp trên và nhiệm vụ được chi bộ phân công.
Bên cạnh đó, Chi bộ thường xuyên tổ chức, quán triệt các nghị quyết của Đảng ủy cấp trên cho toàn thể đảng viên trong chi bộ. Thông qua các cuộc sinh hoạt định kỳ, Chi bộ đã phân tích, làm rõ những khuyết điểm, yếu kém của mình, qua đó đã đề ra được phương hướng và các giải pháp cụ thể, phù hợp để sửa chữa, khắc phục khuyết điểm; quán triệt Nghị quyết của Đảng là nhiệm vụ bắt buộc đối với từng cán bộ, đảng viên, tăng cường tính tự học tập, nghiên cứu, nâng cao nhận thức cho các đảng viên trong chi bộ trong việc chấp hành nghiêm túc chế độ học tập theo Nghị quyết của Đảng; Thường xuyên đưa nội dung các Nghị quyết vào các buổi sinh hoạt chi bộ; kịp thời biểu dương những cán bộ, đảng viên có tinh thần học tập, thực hiện nghị quyết nghiêm túc. Nhắc nhở, phê bình các cán bộ, đảng viên thiếu ý thức trong học tập và thực hiện nghị quyết.
“Trong nhiệm kỳ 2019-2021 toàn thể cán bộ, đảng viên đều an tâm công tác, tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, chấp hành đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Không có cán bộ, đảng viên vi phạm Pháp luật và 100 % các đồng chí đảng viên đã bám sát nhiệm vụ chính trị của cơ quan, tổ chức tốt các hoạt động triển khai trên nhiều lĩnh vực khác nhau, đoàn kết xây dựng, phát triển Viện vững mạnh đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của Liên minh HTX Việt Nam và của khu vực kinh tế hợp tác, HTX”- TS Lê Tuấn An, Bí thư Chi bộ nhiệm kỳ 2019-2021, Viện trưởng Viện KHCN&MT cho biết.
Trên cơ sở đánh giá tình hình về chính trị, xã hội trong nhiệm kỳ vừa qua, Chi bộ dự báo trong nhiệm kỳ tới sẽ còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Tuy nhiên với chức năng là đơn vị tham mưu xây dựng các chương trình, kế hoạch KHCN&BVMT của Ngành, Chi bộ sẽ tiếp tục tập trung chỉ đạo Viện KHCN&MT đẩy mạnh ứng dụng Khoa học Công nghệ, hỗ trợ và chuyển giao KHCN cho khu vực HTX.
Chi bộ chỉ đạo Lãnh đạo Viện tổ chức quán triệt cho cán bộ, nhân viên nắm vững quan điểm chủ trương của Đảng, nhận thức đúng đắn về chính trị, tư tưởng, trung thành với sự lãnh đạo của Đảng, gương mẫu thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và vận động gia đình và quần chúng tham gia thực hiện. Lãnh đạo đảng viên, cán bộ, viên chức nêu cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tính chủ động, sáng tạo, cải tiến lề lối, phương pháp làm việc.
Về phương hướng, mục tiêu và giải pháp nhiệm kỳ 2022 – 2025, Đại hội thống nhất: (1) Học tập, quán triệt đầy đủ nội dung Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX của Đảng bộ Liên minh HTX Việt Nam; (2) Lãnh đạo, chỉ đạo phát huy tinh thần đoàn kết hoàn thành tốt các nhiệm vụ Chính trị được Liên minh HTX Việt Nam giao. Nâng cao hiệu quả các hoạt động dịch vụ KHCN đáp ứng nhu cầu phát triển của khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong thời kì mới; (3) Phấn đấu 100% đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, trong đó có trên 70% hoàn thành tốt nhiệm vụ, 30% hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, giữ vững danh hiệu “Chi bộ trong sạch vững mạnh”.
Về công tác chuyên môn theo chức năng, nhiệm vụ được giao, trong nhiệm kỳ 2022 – 2025, Chi bộ Viện tập trung chỉ đạo thực hiện tốt những nhiệm vụ trong tâm sau: Chủ động phối hợp với Ban kế hoạch Hỗ trợ trong công tác tham mưu thường trực Liên minh HTX Việt Nam xây dựng kế hoạch hoạt động KHCN&MT và tham gia các Chương trình mục tiêu Quốc gia hàng năm, trung hạn và dài hạn. Tham mưu thường trực xây dựng các Chương trình phối hợp với các Bộ KH và CN, Bộ Nông nghiệp và PTNT; Chủ động phối hợp với Liên minh HTX các Tỉnh, Thành phố triển khai tốt công tác phối hợp hoạt động tư vấn, hỗ trợ KHCN và BVMT cho khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã; Chỉ đạo tập trung và tranh thủ, huy động các nguồn lực hợp pháp nâng cao năng lực tổ chức hoạt động của Viện để phát triển các sản phẩm dịch vụ, mở rộng phạm vi cung ứng phục vụ nhu cầu của khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã; Chỉ đạo đẩy mạnh ứng dụng và chuyển giao các kết quả đề tài, nhiệm vụ khoa học công nghệ vào hoạt động sản xuất kinh doanh cho khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã; Chủ động chỉ đạo tăng cường xây dựng và thiết lập quan hệ công tác với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước nhằm huy động nguồn lực hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ Chính trị; Tăng cường sự lãnh đạo đối với các tổ chức Đoàn thể quần chúng, thúc đẩy vai trò của các tổ chức này trong các hoạt động xã hội và hoạt động chuyên môn của Viện.
Đại hội nhiệm kỳ 2022-2025 đã bầu đồng chí Lê Tuấn An, Viện trưởng Viện KHCN&MT tái cử giữ chức Bí thư Chi bộ Viện, đồng chí Nguyễn Tiến Dũng, Giám đốc Trung tâm Môi trường và Kiểm nghiệm chất lượng giữ chức Phó bí thư Chi bộ Viện.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho rằng, để xanh hóa nền kinh tế, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được xác định là giải pháp trọng tâm, trong đó chú trọng công nghệ cao.
Chiều 17/5 (sáng 18/5 giờ Hà Nội), Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Đại học California Berkeley tổ chức tọa đàm “Xây dựng chính sách thu hút công nghệ cao để chuyển đổi sang nền kinh tế xanh và kỹ thuật số ở Việt Nam”. Sự kiện nằm trong khuôn khổ chuyến công tác của Thủ tướng tại Mỹ.
Phát biểu tại sự kiện, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, chính sách khí hậu và bảo vệ môi trường được Chính phủ Việt Nam rất quan tâm, coi là nhiệm vụ trọng tâm để góp phần phát triển nhanh và bền vững. Tại Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu (COP26), Việt Nam đã cam kết đạt mức phát thải carbon trung tính vào năm 2050. Để đạt mục tiêu này, Việt Nam đang từng bước chuyển dịch cơ cấu năng lượng theo hướng tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo, giảm nguyên liệu hóa thạch.
Ông cho biết, Việt Nam xác định tỷ lệ nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt 15-20% năm 2030 và 25-30% năm 2045, tương ứng tỷ lệ điện năng của năng lượng tái tạo trong tổng điện năng sản xuất toàn quốc là khoảng 30% năm 2030 và 40% năm 2045.
Bên cạnh các chính sách về khí hậu và bảo vệ môi trường, Chính phủ Việt Nam cũng đang xây dựng và triển khai các chính sách nhằm phát triển kinh tế số, xã hội số. Trong đó xác định, tỷ trọng kinh tế số đạt 20% GDP năm 2025 và 30% GDP năm 2030.
“Có thể nói, chủ trương xanh hóa nền kinh tế Việt Nam luôn cần song hành cùng tiến trình chuyển đổi số quốc gia, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng, môi trường với việc ứng dụng công nghệ tiên tiến từ AI, Blockchain, IoT… trong việc xây dựng một hệ sinh thái công nghệ thông minh, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế”, lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ nói.
Theo Bộ trưởng, để đạt được các mục tiêu trên, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được xác định là giải pháp trọng tâm. Các chính sách, cơ chế, giải pháp của Việt Nam thời gian qua được tập trung vào cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghệ 4.0.
Hiện Việt Nam đã ban hành 8 luật chuyên ngành về khoa học và công nghệ. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (startup ecosystem) đã hình thành và phát triển nhanh, đa dạng, gồm 79 cơ sở ươm tạo công nghệ và doanh nghiệp, 40 tổ chức tăng tốc khởi nghiệp, 138 trường đại học có không gian sáng tạo dành cho sinh viên khởi nghiệp; 291 khu công nghiệp, 04 khu công nghệ cao quốc gia…
“Trong một thế giới toàn cầu hóa và hội nhập, để phát triển một nền kinh tế xanh, Việt Nam rất cần tiếp cận với các kiến thức, kinh nghiệm, công nghệ tiên tiến, hiện đại của nước ngoài, trong đó có Mỹ”, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ nói.
Cần chính sách lưu trữ năng lượng
Tham luận với chủ đề công nghệ và chiến lược tăng trưởng năng lượng xanh ở Việt Nam, ông Chris Payton (Vietnam Gas/ Energy Science Group) nói, chỉ 5 năm trước, vấn đề năng lượng tái tạo rất đơn giản chỉ xoay quanh việc thay thế nhiên liệu hóa thạch bằng năng lượng gió và mặt trời. Nhưng lúc này là vấn đề về cơ sở hạ tầng, trong đó có truyền tải điện năng. Điều này phải được quản lý qua chính sách.
Theo ông, lưu trữ năng lượng là điều mà Việt Nam có thể làm rất nhanh về mặt chính sách. Ví dụ ở bang California, năm 2021 có hơn 220 dự án điện mặt trời được cấp phép, trong đó 95% là dự án điện mặt trời đi kèm lưu trữ. Trong khi 5 năm trước con số này rất thấp.
Có rất nhiều loại công nghệ lưu trữ năng lượng như tích lũy thủy năng, pin, khí nén, lưu trữ dưới dạng nhiệt… Mỗi loại đều có ứng dụng trong kinh tế và mức độ thương mại hóa khác nhau. Hai loại phổ biến nhất là tích lũy thủy năng và pin. Hai loại này khác nhau nhưng bổ sung cho nhau. Lưu trữ điện bằng pin là lĩnh vực mà chính sách chủ động có thể nhanh chóng thay đổi môi trường và tầm nhìn năng lượng của Việt Nam.
“Hệ thống lưu trữ bằng pin có thể được lắp đặt vào một mạng lưới có sẵn mà không tốn nhiều diện tích. Nó cũng có thể được triển khai ở nhiều vị trí trong mạng lưới như điểm phát điện, ở nơi người dùng cuối, trước hoặc sau đồng hồ…”, ông nói.
Ông cho biết, có thể triển khai hệ thống lưu trữ điện ở nhiều nơi trong khắp mạng lưới nhưng nếu kiểm soát tập trung sẽ tốt hơn. Theo đó, một hệ thống quản lý điện có quy mô toàn quốc là rất quan trọng. “Nếu lập ra một hệ thống này, có thể lập ra hệ thống quản lý phát thải carbon, giúp quản lý lượng carbon bị phát thải, khuyến khích các khu công nghiệp làm tốt và ngăn ngừa các khu chưa tốt. Hệ thống cũng có thể thu thập dữ liệu thống kê quốc gia”, ông nói.
Theo ông Chris Payton, việc lưu trữ năng lượng sẽ tiếp sức cho năng lượng mặt trời và khuyến khích các dự án mới trên quy mô lớn trong tương lai. Nhưng để đảm bảo tính ổn định của lưới điện, không nên phó mặc cho việc khuyến khích tư nhân. “Lưới điện phải được cấp ngân sách trung ương và quản lý trung ương vì nó mang tính chất chiến lược”, ông nhấn mạnh.
Tại tọa đàm còn có sự tham dự của đại diện Ban Quản lý Khu công nghệ cao Hòa Lạc, Văn phòng Khoa học và Công nghệ Việt Nam ở San Francisco; các giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu đến từ Đại học California Berkeley, Đại học Texas, Đại học Stanford; các doanh nghiệp của Việt Nam và Mỹ như Việt Nam Gas Group; Energy Science Group; TerraScale Inc; Mancef…
Cuối chương trình, Ban Quản lý Khu Công nghệ cao Hòa Lạc ký biên bản ghi nhớ ghi nhận ý định của Công ty TerraScale Inc (doanh nghiệp Mỹ) trong việc nghiên cứu đầu tư các dự án về năng lượng và dữ liệu xanh và bền vững tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc.
Đây là dự án mạng lưới các trung tâm dữ liệu carbon thấp với khả năng bảo mật cao, mạng lưới xử lý dữ liệu thiết yếu; dự án Hệ thống Pin (battery) lưu trữ năng lượng quy mô lưới điện, dự án về Phần mềm kiểm đếm carbon, dự án mạng lưới hệ thống truyền thông an toàn, bao gồm truyền thông vệ tinh, hạ tầng phục vụ phát triển lĩnh vực AI và IoT cho các ứng dụng đa dạng và nhân đạo như y tế, nông nghiệp và phát triển thành phố thông minh.
Thủ tướng Phạm Minh Chính đến Mỹ từ 11/5, bắt đầu tham dự chuỗi sự kiện trong khuôn khổ Hội nghị Cấp cao đặc biệt ASEAN – Mỹ diễn ra ngày 12-13/5, đồng thời thăm và làm việc tại Mỹ, Liên Hợp Quốc, dự kiến kéo dài đến 17/5. Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt là một trong các thành viên chính thức của Đoàn đại biểu Việt Nam.
Tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII), Trung ương sẽ xem xét về vấn đề tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá IX tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết, Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và các Nghị quyết Đại hội Đảng đều khẳng định vị trí, ý nghĩa, vai trò quan trọng của kinh tế tập thể; xác định phát triển kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Để đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những hạn chế, yếu kém của mô hình hợp tác xã kiểu cũ, ngày 18/3/2002, Hội nghị Trung ương 5 khoá IX đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.
Báo cáo tổng kết 20 năm (2002-2022) thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX đã được xây dựng công phu, nghiêm túc trên cơ sở Báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của các bộ, ban, ngành, cơ quan Trung ương và 63 tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc Trung ương; kết quả nghiên cứu, khảo sát của Ban Chỉ đạo tại một số địa phương; ý kiến tham gia tại 12 cuộc hội thảo chuyên đề, 3 Hội nghị cán bộ toàn quốc tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết, và Báo cáo tư vấn của Hội đồng Lý luận Trung ương.
Qua tổng kết cho thấy, sau 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX, khu vực kinh tế tập thể nước ta đã có những chuyển biến tích cực, quan trọng. Nhận thức trong hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã được nâng lên. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách được quan tâm xây dựng, phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Hợp tác xã đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi theo quy định của pháp luật
Số lượng hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập mới tăng đáng kể; nhiều hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển đa dạng hơn về ngành nghề, quy mô và trình độ, hỗ trợ tốt hơn cho kinh tế thành viên, tạo việc làm và thu nhập thường xuyên cho người lao động. Tổ hợp tác với cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, nội dung hoạt động đơn giản nhưng thiết thực, đáp ứng được nhu cầu liên kết linh hoạt và mang tính ngắn hạn của người dân.
Liên kết giữa các hợp tác xã với nhau và với các tổ chức kinh tế khác bước đầu có sự phát triển. Khu vực kinh tế tập thể cơ bản đã khắc phục được tình trạng yếu kém kéo dài, góp phần xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, từng bước khẳng định vị trí, vai trò nền tảng trong nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, khu vực kinh tế tập thể của nước ta đến nay vẫn chưa đạt mức phát triển như mục tiêu, yêu cầu đề ra. Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể còn gặp nhiều khó khăn. Tốc độ tăng trưởng, tỉ trọng đóng góp vào GDP cả nước của khu vực kinh tế tập thể còn thấp và có xu hướng giảm dần. Hợp tác xã phát triển không đồng đều giữa các vùng, các miền; giữa khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp.
Hoạt động hợp tác xã chưa trở thành phong trào để thu hút xã viên, hội viên. Số lượng hợp tác xã tuy tăng, nhưng số lượng thành viên bình quân trong hợp tác xã có xu hướng giảm; thành viên tham gia vào hoạt động của hợp tác xã còn hình thức, chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp tác xã. Năng lực nội tại của hợp tác xã còn yếu, hiệu quả hoạt động chưa cao.
Phần lớn các tổ hợp tác, hợp tác xã có quy mô nhỏ, vốn ít, phạm vi hoạt động hẹp, lợi ích mang lại cho thành viên còn thấp; tính liên kết trong nội bộ hợp tác xã rất yếu; các hoạt động liên doanh, liên kết giữa các hợp tác xã và giữa hợp tác xã với các tổ chức kinh tế khác chưa phổ biến. Số lượng liên hiệp hợp tác xã còn ít; tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác thiếu ổn định; nhiều hợp tác xã chuyển đổi còn mang tính hình thức, chưa thực sự có chuyển biến về chất.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị các đồng chí Trung ương và các đồng chí tham dự hội nghị xuất phát từ thực tiễn, thảo luận, đánh giá một cách khách quan, khoa học về những kết quả, thành tích đã đạt được; đồng thời phân tích sâu sắc những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân.
Từ đó, bám sát Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và thực tế đất nước, tập trung thảo luận làm rõ, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng, toàn dân về mục tiêu, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và những nhiệm vụ, giải pháp lớn cần được quán triệt và triển khai thực hiện để kinh tế tập thể ngày càng phát triển mạnh hơn, đúng đắn và lành mạnh hơn, thực sự trở thành một thành phần kinh tế quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tháo gỡ những khó khăn vướng mắc từ thể chế là một trong những vấn đề quan trọng giúp khu vực kinh tế tập thể, HTX thích ứng với thị trường và phát triển bình đẳng như các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường.
Tại Hội thảo khoa học “Một số vấn đề lý luận – thực tiễn về phát triển HTX nông nghiệp ở Việt Nam trong bối cảnh mới”, các đại biểu khẳng định, mô hình kinh tế tập thể (KTTT), HTX đã góp phần khắc phục tình trạng phân tán, sản xuất manh mún nhỏ lẻ, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn, đồng nhất, đáp ứng tiêu chuẩn, yêu cầu chất lượng của thị trường.
Tháo gỡ về tín dụng
Tuy nhiên, sự phát triển của HTX nhìn chung còn chậm. Số lượng HTX tăng nhưng số lượng thành viên trung bình của một HTX giảm xuống . Cụ thể là năm 2001, trung bình một HTX có 478 thành viên nhưng đến năm 2021 chỉ còn 208 thành viên. Đa số HTX có quy mô nhỏ, cơ sở vật chất, trình độ khoa học công nghệ, tiềm lực tài chính yếu, năng lực của độ ngũ cán bộ, phạm vi hoạt động của HTX hạn chế…
Nguyên nhân của tình trạng trên có rất nhiều, có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trực tiếp và gián tiếp, trong đó quan trọng nhất là những nguyên nhân từ thể chế, từ cơ chế, chính sách, sự quan tâm, hỗ trợ nguồn lực từ Nhà nước và việc thực hiện cơ chế, chính sách đều chưa đủ mức, chưa tạo được động lực và những điều kiện thuận lợi cho KTTT, HTX phát triển.
Cụ thể nhất là chính sách tín dụng cho khu vực KTTT, HTX tuy đã được ban hành nhưng vẫn chưa đi sâu vào thực tiễn. Điều này được thể hiện qua số dư nợ đối với HTX, liên hiệp HTX, đặc biệt là dư nợ đối với các HTX nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất thấp.
Theo Viện Chiến lược Ngân hàng, dư nợ cho nền kinh tế đến cuối năm 2021 là 9.680.000 tỷ đồng. Trong đó, tổng dư nợ cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn là 2.420.641 tỷ đồng, chỉ chiếm 25% tổng dư nợ cho nền kinh tế, nhưng tổng dư nợ cho HTX, liên hiệp HTX chỉ chiếm 1.137 tỷ đồng. Điều này cho thấy sự chênh lệch về nguồn đầu tư tín dụng cho khu vực KTTT, HTX.
Nguyên nhân là do các HTX hạn chế về tổ chức, quản trị điều hành, năng lực quản lý tài chính và đội ngũ cán bộ quản lý chủ yếu theo kinh nghiệm, chưa được đào tạo cơ bản và ít được cập nhật kiến thức mới.
Mối quan hệ giữa HTX và các thành viên còn thiếu sự gắn kết khiến không ít thành viên tự đứng lên vay vốn bên ngoài chứ không thông qua HTX. Điều này rất khó khăn trong việc thuyết phục các tổ chức tín dụng (TCTD) trong quá trình thẩm định phương án vay.
Bên cạnh đó, các HTX còn hạn chế về năng lực tài chính. Cụ thể là muốn vay được vốn để triển khai dự án mới, HTX phải có nguồn vốn đối ứng tối thiểu từ 200-300 triệu đồng (chiếm từ 20-30% tổng nguồn vốn) nhưng nhiều HTX không đáp ứng được.
Các HTX ngành nghề cũng chưa có sự liên kết để tăng vốn theo quá trình hoạt động. Đi cùng với đó là hiệu quả hoạt động của mô hình HTX còn chưa cao, số lượng dịch vụ ít. Sản phẩm chưa có thương hiệu trên thị trường và chưa có sự liên kết chặt chẽ theo chuỗi giá trị nên chưa đáp ứng khả năng cạnh tranh trên thị trường, khó đáp ứng các điều kiện vay vốn.
Còn về phía các TCTD đang gặp khó khăn trong quá trình thẩm định và chấp nhận các điều khoản vay vốn của các HTX do HTX thiếu hoặc không có các điều kiện đảm bảo.
Nhiều HTX có thành viên góp vốn bằng tài sản nhưng vẫn mang tên chủ sở hữu và chưa chuyển tên cho HTX nên không đủ điều kiện pháp lý để HTX sử dụng các tài sản này bảo đảm cho các khoản vay.
Quy trình thủ tục cho vay cho các HTX nông nghiệp theo Nghị định 55 chưa hiệu quả. Cụ thể là chính sách tín dụng phát triển sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết ứng dụng công nghệ cao được quy định tại điều 14, 15 đòi hỏi các TCTD phải áp dụng một quy trình riêng biệt, đặc thù để kiểm soát tốt khả năng liên kết của HTX với chủ thể tham gia chuỗi.
Tuy nhiên hiện nay, hầu hết các TCTD vẫn thực hiện xét duyệt hồ sơ vay theo các mô hình cho vay truyền thống. Do vậy khi thẩm định phương án vay vốn cho HTX theo Nghị định 55 phải mất nhiều thời gian, công sức và tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Cơ chế chính sách cho HTX cần thông thoáng, phù hợp với kinh tế thị trường.
Ngoài ra, các TCTD cũng gặp khó khăn trong việc giám sát các điều kiện cho vay. Việc cho vay đối với các mô hình sản xuất nông nghiệp vẫn kém hấp dẫn, tiềm ẩn nhiều rủi ro, chịu tác động trực tiếp từ thị trường, khí hậu… nên chưa hấp dẫn được các TCTD tham gia.
Bà Đỗ Thị Bích Hồng, Phó trưởng phòng Chiến lược ngành ngân hàng, Viện Chiến lược ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước) cho biết kinh nghiệm ở Canada cho thấy, Nhà nước sẽ có các quỹ, cơ chế ưu đãi chuyển vốn cho các ngân hàng thương mại để cho các HTX vay. Nhưng hiện ở Việt Nam, các ngân hàng vẫn phải tự huy động, chịu trách nhiệm về việc cho HTX vay nhưng phải thu được nợ. Chính vì vậy, các ngân hàng luôn phải đề cao tính chịu trách nhiệm và luôn chặt chẽ, minh bạch trong mọi khoản vay, kể cả đối với HTX.
Nhằm giải quyết vấn đề này, các HTX cần chủ động rà soát, nâng cao hoạt động quản lý, tài chính… để có kế hoạch sản xuất cụ thể, hiệu quả theo chuỗi giá trị, từ đó tạo thêm niềm tin cho các TCTD trong quá trình xem xét các điều khoản cho vay.
Còn đối với các TCTD cần tiếp tục chủ động đa dạng các hình thức huy động để mở rộng nguồn vốn cho vay đối với nông nghiệp nông thôn nói chung và các HTX nói riêng. Các ngân hàng cũng cần tăng các phương án thẩm định đối với HTX thay vì chỉ phụ thuộc vào các tài sản đảm bảo. Đồng thời, thực hiện giảm thiểu thủ tục rườm rà để HTX dễ tiếp cận quy trình.
Luật HTX phải theo định hướng thị trường
Ngoài rào cản về vay tín dụng, những hạn chế của Luật HTX năm 2012 cũng đang kìm hãm sự phát triển của khu vực KTTT, HTX.
Chẳng hạn như quy định về tỷ lệ góp vốn còn hạn chế, không cho phép thành viên chuyển nhượng vốn cho chủ thể khác. Hay những ai không sử dụng dịch vụ của HTX thì không được tham gia và không trở thành thành viên của HTX.
Theo TS Hoàng Vũ Quang, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và chính sách (Bộ NN&PTNT), những điều này không tối đa hóa lợi ích ngắn hạn của thành viên nên nhiều người không muốn đầu tư vào HTX và khiến HTX khó kết nạp thành viên mới.
Ngoài ra, vấn đề quản lý nhà nước đối với HTX trong Luật HTX năm 2012 còn nhiều hạn chế. Cụ thể là tại điều 59 và 60 chưa làm rõ được trách nhiệm của Nhà nước đối với giai đoạn hiện nay như chưa đề cao vai trò của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý HTX, cũng như chưa có sự trao đổi, phối hợp, quản lý thông tin giữa các bộ ngành, cơ quan ngang bộ…
Không chỉ vậy, Luật HTX năm 2012 quy định lợi nhuận sau thuế phần lớn là theo mức độ sử dụng dịch vụ của thành viên, gây khó cho HTX trong quá trình huy động nguồn vốn.
TS Hoàng Vũ Quang cho biết Luật HTX năm 2012 hiện nay có những quy định cứng nhắc về mô hình quản trị HTX, khiến HTX khó mở rộng quy mô, ít quan tâm đến hoạt động HTX trong nền kinh tế thị trường.
Để tạo động lực, khuyến khích người dân tham gia, phát triển HTX, quá trình sửa đổi, bổ sung Luật HTX năm 2012 cần bảo đảm tôn trọng một số nguyên tắc cơ bản của HTX, phù hợp với điều kiện thị trường, công nghệ luôn thay đổi, đó là nguyên tắc HTX được tôn trọng, bình đẳng với các tác nhân khác. Mức độ hỗ trợ của Nhà nước cho HTX phải gắn với mức độ HTX phục vụ thành viên.
Bên cạnh đó, các bộ ngành cần xem xét, nghiên cứu sửa đổi Luật HTX 2012 dựa trên quá trình tổng kết Nghị quyết số 13-NQ/TW, đồng thời nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về KTTT, HTX theo hướng tinh gọn, phân định rõ vai trò của cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp trong quản lý khu vực KTTT, HTX…
TS Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam, cho biết phần lớn các nước đều khẳng định HTX là mô hình đem lại hiệu quả cho thành viên và người dân, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển. Động cơ hoạt động của HTX là tuân theo các định hướng của nền kinh tế thị trường, hiệu quả hoạt động của HTX là nhờ vào quy mô. Chẳng hạn như tại Trung Quốc, HTX là cầu nối giữa các tầng lớp nhân dân với Đảng, Nhà nước. Tại Nhật Bản, 99,2% các nông trại là của các HTX; hay tại Hà Lan, có 17 triệu dân nhưng lại có đến 30 triệu thành viên HTX, tức 1 người có thể tham gia từ 2 HTX.
“Chính vì vậy, các cơ chế chính sách cần tạo điều kiện giúp HTX phát triển, mở rộng về quy mô, diện tích, doanh thu. Bên cạnh đó, chính sách cần bảo đảm kết hợp giữa dịch vụ bên trong HTX và dịch vụ bên ngoài xã hội, kết hợp giữa thành viên và ngoài thành viên để bảo đảm sở hữu tập thể”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo đề nghị.
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cũng cho rằng từ kinh nghiệm thế giới cho thấy, phát triển HTX là tất yếu khách quan, chỉ có liên kết mới hạn chế những khó khăn của sản xuất nhỏ lẻ, mới thúc đẩy được tam nông. Chính vì vậy, cần coi phát triển HTX là giải pháp đột phá trong 10 năm tới, vì HTX không chỉ đóng góp về kinh tế mà còn đóng góp vào chính trị, xã hội, trong khi HTX là nơi tập trung tài sản thấp nên càng cần sự hỗ trợ từ chính sách như: bỏ thuế thu nhập cá nhân ở khu vực HTX, tăng hỗ trợ cho vay vốn, có gói hỗ trợ riêng về hạ tầng cho HTX công nghệ cao…
Đồng tình, TS Nguyễn Văn Tiến, Vụ trưởng Vụ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Ban Kinh tế Trung ương) cho rằng cần hoàn thiện các thể chế chính sách phát triển KTTT, HTX dựa trên cơ chế thị trường, gắn kết chặt chẽ với quá trình cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nông nghiệp sinh thái, hiện đại. Đi cùng với đó cần các định phát triển HTX là giải pháp cơ bản để tổ chức lại sản xuất ngành nông nghiệp, liên kết, hỗ trợ hộ nông dân sản xuất kinh doanh hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam.
Công tác thi đua khen thưởng có vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, đồng thời khuyến khích các đơn vị trong khối bộ ngành tổng hợp lao động, sản xuất và công tác.
Ngày 26/4, Liên minh HTX Việt Nam – Khối trưởng khối thi đua các bộ, ngành tổng hợp tổ chức Hội nghị triển khai kế hoạch công tác thi đua khen thưởng năm 2022.
Thực hiện lời dạy của Bác Hồ “Thi đua là gieo giống, khen thưởng là thu hoạch” hay “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua, những người thi đua là những người yêu nước”. Trong những năm qua, Liên minh HTX Việt Nam nói riêng và các đơn vị trong khối thi đua các bộ, ngành tổng hợp nói chung luôn quan tâm đến công tác thi đua khen thưởng và coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, là động lực để phát triển của khối.
Công tác thi đua khen thưởng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của khối thi đua các bộ ngành tổng hợp.
Chia sẻ tại Hội nghị, Phó Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Lê Văn Nghị cho biết, với vai trò là trưởng khối thi đua các bộ ngành tổng hợp, Liên minh HTX Việt Nam luôn tiếp thu, lắng nghe các ý kiến của các bộ ngành trong khối để chính thức ban hành quy chế, kế hoạch công tác thi đua khen thưởng của khối năm 2022. Nhiệm vụ trọng tâm của công tác thi đua khen thưởng năm 2022 sẽ tập trung vào một số trọng tâm:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về phong trào thi đua yêu nước; tập trung tuyên truyền, quán triệt Chỉ thị số 34-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới công tác thi đua khen thưởng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành; Chỉ thị 07/ CT-TTg ngày 19/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh phòng chống tiêu cực trong quản lý công chức, viên chức và thi đua khen thưởng. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần XIII với nhiều hình thức tuyên truyền. Tăng cường giới thiệu các gương tiên tiến điển hình.
Hai là, thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tham mưu, tổng hợp, phục vụ và quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực được giao góp phần hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước và 5 năm giai đoạn 2021-2026 gắn với việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm việc theo phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Triển khai các hoạt động cụ thể, thiết thực hưởng ứng phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”, “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”, “Cả nước đoàn kết, chung sức đồng lòng thi đua phòng chống và chiến thắng dịch Covid-19″…
Phối hợp chặt chẽ với tổ chức Đảng và Đoàn thể chính trị xây dựng, tổ chức cơ quan trong sạch vững mạnh; phát động và tổ chức các đợt thi đua theo chủ đề, chủ điểm phù hợp với các thời điểm kỷ niệm các ngày lễ lớn và nhiệm vụ chính trị của các đơn vị; cụ thể hóa các nội dung, nhiệm vụ thành các tiêu chí thi đua cụ thể, triển khai ký giao ước thi đua.
Ba là, tập trung sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các văn bản thực hiện chủ trương của Đảng, Chính sách pháp luật của Nhà nước về thi đua khen thưởng và chế độ công vụ, công chức. Thực hiện đổi mới công tác khen thưởng bảo đảm chính xác, kịp thời, công khai minh bạch, đúng người, có tác động giáo dục, nêu gương, quan tâm đến các tập thể, cá nhân người lao động trực tiếp; phát hiện những điển hình tiên tiến, nhân tố mới thông qua các phong trào thi đua và thực hiện nhiệm vụ để có các hình thức khen thưởng đột xuất, phù hợp, kịp thời.
Bốn là, đẩy mạnh phong trào thi đua trong lĩnh vực xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng bộ máy tổ chức đơn vị hoạt động hiệu quả. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước; thực hành tiết kiệm; đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí. Cải cách thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng thông tin nhằm hoạt động chuyên nghiệp, năng động, hiệu lực, hiệu quả.
Năm là, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, phát hiện bồi dưỡng và nhân rộng các điển hình tiên tiến, các mô hình mới, nhân tố mới.
Sáu là, tổ chức các hoạt động của khối thi đua các bộ, ngành tổng hợp thiết thực chào mừng ngày kỷ niệm lớn năm 2022.
Liên minh HTX Việt Nam là một trong những thành viên của khối thi đua các bộ ngành tổng hợp, đại diện cho khu vực KTTT, HTX cả nước. KTTT, HTX đang là một trong những thành phần kinh tế quan trọng trong thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển.
Sau quá trình hình thành và đổi mới, đến hết năm 2021, cả nước đã có 27.342 HTX, 103 liên hiệp HTX. Đến nay, đã có nhiều HTX rất mạnh, hoạt động hiệu quả như: Liên hiệp HTX thương mại TP HCM (Sài Gòn Coop), HTX thanh long Tầm Vu…
Nhìn ra thế giới, nhiều HTX xuyên quốc gia có vai trò quan trọng trong nền kinh tế như: HTX sữa cô gái Hà Lan, Liên hiệp HTX Hàn Quốc… “Điều này cho thấy phong trào HTX thế giới đã phát triển từ rất lâu và đang ngày càng lớn mạnh. Chính vì vậy, phát triển HTX ở Việt Nam là hướng tất yếu, phù hợp với xu hướng của thế giới”, Phó Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Lê Văn Nghị đánh giá.
Để tạo điều kiện cho khu vực KTTT, HTX phát triển, Đảng và Nhà nước đang xem xét ban hành Nghị quyết mới về KTTT, HTX thay cho Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX và sửa đổi bổ sung một số điều tại Luật HTX năm 2012 nhằm mở rộng khái niệm, phạm vi, đối tượng của KTTT, HTX cũng như tạo hành lang pháp lý cho HTX phát triển.
Theo Phó Chủ tịch Lê Văn Nghị, Nghị quyết mới về KTTT, HTX và Luật HTX năm 2012 sau khi sửa đổi bổ sung sẽ tạo đột phá và đi sát hơn với khu vực KTTT, HTX, giúp khu vực này phát triển đúng theo quy luật thị trường. HTX càng có quy mô lớn thì hoạt động càng hiệu quả và càng có quyền quyết định giá cả, cung cầu thị trường.