Author Archives: inoste

Tổng Bí thư: Cần giải pháp đột phá để thu hút nhân tài công nghệ

Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu đầu tư trọng điểm để phát triển các tổ chức nghiên cứu, triển khai giải pháp đột phá để thu hút nhân tài khoa học công nghệ ở nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài về làm việc.

Sáng 13/1, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Hội nghị được tổ chức trực tiếp tại hội trường Diên Hồng, Tòa nhà Quốc hội, kết hợp trực tuyến đến điểm cầu tại các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương; các ban, bộ, ngành, đơn vị sự nghiệp Trung ương; các điểm cầu cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã.

Tổng Bí thư Tô Lâm; Chủ tịch nước Lương Cường; Thủ tướng Phạm Minh Chính; Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, và nhiều lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự hội nghị. Gần một triệu cán bộ, đảng viên theo dõi trực tiếp và trực tuyến.

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự triển lãm khoa học công nghệ tại nhà Quốc hội. Ảnh: Phạm Thắng

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự triển lãm khoa học công nghệ tại nhà Quốc hội. Ảnh: Phạm Thắng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm trưởng ban chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học công nghệ

Mở đầu hội nghị, quyết định thành lập Ban chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học công nghệ về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trực thuộc Bộ Chính trị được công bố. Tổng Bí thư Tô Lâm làm Trưởng Ban chỉ đạo, các Phó trưởng ban gồm Thủ tướng Phạm Minh Chính; Thường trực Ban Bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Trần Cẩm Tú, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Lưu Quang, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải. Chánh văn phòng Trung ương Đảng Nguyễn Duy Ngọc là Phó trưởng ban Thường trực.

Ban chỉ đạo có các ủy viên: Trưởng ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng; Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến; Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa; Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Nguyễn Xuân Thắng; Bộ trưởng Quốc phòng Phan Văn Giang; Bộ trưởng Công an Lương Tam Quang; Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt; Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng; Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng; Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn; Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng; Phó chánh văn phòng Trung ương Đảng Phạm Gia Túc.

Đại biểu dự hội nghị tại phòng họp Diên Hồng. Ảnh: Phạm Thắng

Đại biểu dự hội nghị tại phòng họp Diên Hồng. Ảnh: Phạm Thắng

Bố trí ít nhất 15% ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp khoa học phục vụ nghiên cứu công nghệ chiến lược

Báo cáo về kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng liên quan đến phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Phó trưởng ban Kinh tế Trung ương Thái Thanh Quý cho biết từ khi thống nhất đất nước, Đảng ngày càng chú trọng và xác định tầm quan trọng của khoa học, công nghệ đối với phát triển kinh tế xã hội.

Qua các nhiệm kỳ Đại hội, nhận thức và tư duy của Đảng về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã dần hoàn thiện, với nhiều đổi mới. Các chủ trương và định hướng được xây dựng có tính kế thừa và phát triển, phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước và xu thế toàn cầu.

Tiềm lực khoa học và công nghệ của Việt Nam đã được tăng cường. Số lượng và chất lượng các tổ chức khoa học công nghệ cùng đội ngũ cán bộ phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò nòng cốt trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ. Quản lý nhà nước cùng cơ chế, chính sách về phát triển và quản lý khoa học, công nghệ được tiếp tục đổi mới, tạo lập hành lang pháp lý thuận lợi cho hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia; hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đang dần hình thành.

Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Quốc gia đã được thành lập và hoạt động, bước đầu đạt hiệu quả. Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia tiên phong ban hành Chiến lược chuyển đổi số quốc gia. Hệ thống quản lý nhà nước và khung pháp lý cho công nghệ thông tin và chuyển đổi số cũng đang được hoàn thiện.

Hạ tầng số quốc gia được xây dựng đồng bộ và hiện đại; hạ tầng viễn thông phát triển rộng khắp, ngang tầm với các nước phát triển. Cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên ngành đang dần được triển khai. Ngành công nghiệp công nghệ số phát triển nhanh chóng, ngày càng đóng góp lớn vào GDP.

Cụ thể, Việt Nam có 423 tổ chức nghiên cứu và phát triển với quy mô khác nhau, chủ yếu tập trung ở Hà Nội và TP HCM. Hiện có gần 900 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Cả nước có khoảng 4.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, 208 quỹ đầu tư, 84 vườn ươm và 20 trung tâm khởi nghiệp sáng tạo. Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam đứng thứ 56/100 quốc gia, Hà Nội và TP HCM vào top 200 thành phố khởi nghiệp sáng tạo toàn cầu.

Năm 2024, Việt Nam xếp hạng 44/133 về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu và 71/193 về Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử. Đến hết năm 2024, tỷ trọng kinh tế số trong GDP đạt 18,3%. Ngành công nghiệp công nghệ số ước đạt doanh thu 152 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu phần cứng và điện tử ước đạt 132 tỷ USD.

Phó ban Kinh tế Trung ương Thái Thanh Quý. Ảnh: Phạm ThắngPhó ban Kinh tế Trung ương Thái Thanh Quý. Ảnh: Phạm Thắng

Phó trưởng ban Kinh tế Trung ương Thái Thanh Quý cũng cho rằng tốc độ và sự bứt phá của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia còn chậm; chưa thực sự trở thành động lực quan trọng để phát triển kinh tế xã hội. Việc huy động các nguồn lực cho khoa học công nghệ và nghiên cứu, phát triển (R&D) chưa hiệu quả, trong đó chi cho khoa học công nghệ chưa đạt mức quy định tối thiểu 2% tổng chi ngân sách Nhà nước (năm 2023 chỉ đạt 0,82%) và chi cho R&D mới đạt khoảng 0,67% GDP (trong đó mức trung bình của các nước phát triển là 2-5% GDP).

Cơ chế quản lý khoa học, công nghệ chậm đổi mới, chưa phù hợp, nhất là về tài chính, đầu tư. Cơ chế và chính sách cán bộ trong hoạt động khoa học và công nghệ còn nặng về hành chính, chưa tạo được môi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân tài; nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu.

Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm. Việc thực hiện các chủ trương, chính sách về phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ còn hạn chế, thiếu thể chế về tài chính, chuyển giao, ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao; thiếu giải pháp đồng bộ và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và địa phương.

Theo ông Quý, nhận thức và tư duy của một số cấp ủy đảng, chính quyền còn chưa đầy đủ, rõ ràng, chưa nắm rõ sự cần thiết, cấp bách phải đổi mới cơ chế quản lý khoa học công nghệ; chưa nhìn nhận đúng tính đặc thù của lĩnh vực này là tính sáng tạo, mang tính rủi ro và có độ trễ; chưa thực sự coi đây là quốc sách hàng đầu, là nền tảng, động lực để phát triển kinh tế – xã hội. Nguồn lực đầu tư dành cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở mức thấp.

Nhiều nút thắt, điểm nghẽn về thể chế, pháp luật cản trở sự phát triển của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa được giải quyết đồng bộ, dứt điểm, nhất là cơ chế quản lý tài chính, đầu tư chậm đổi mới, không phù hợp; thiếu thể chế thử nghiệm, sandbox, miễn trừ trách nhiệm, chấp nhận rủi ro. Điều này chưa tạo điều kiện đủ mạnh để doanh nghiệp dành nguồn lực thỏa đáng cho nghiên cứu và phát triển.

Ông Quý cho biết Nghị quyết 57 đưa ra năm quan điểm lớn. Đầu tiên, Bộ Chính trị khẳng định khoa học công nghệ phải là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới.

Nghị quyết chỉ rõ tính cách mạng, toàn dân, toàn diện của sự nghiệp phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của doanh nhân, doanh nghiệp và nhân dân. Bộ Chính trị xác định đây là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; được triển khai quyết liệt, nhất quán, lâu dài. Người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính; nhà khoa học là nhân tố then chốt; Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt.

Bộ Chính trị xác định các nội dung cốt lõi của cuộc cách mạng này bao gồm: thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược. Trong đó thể chế là điều kiện tiên quyết, cần hoàn thiện và đi trước một bước. Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật bảo đảm yêu cầu quản lý và khuyến khích đổi mới sáng tạo, loại bỏ tư duy “không quản được thì cấm”. “Phải bảo đảm nguồn nhân lực trình độ cao cho phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; có cơ chế, chính sách đặc biệt về nhân tài”, ông Quý nói, nhấn mạnh việc khai thác tối đa tiềm năng của dữ liệu, đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính, thúc đẩy phát triển nhanh cơ sở dữ liệu lớn, công nghiệp dữ liệu, kinh tế dữ liệu.

Nghị quyết nêu quan điểm phát triển nhanh và bền vững, từng bước tự chủ về công nghệ, nhất là công nghệ chiến lược; ưu tiên nguồn lực quốc gia đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; nhanh chóng tiếp thu, hấp thụ, làm chủ và ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của thế giới; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, chú trọng nghiên cứu cơ bản, tiến tới tự chủ và cạnh tranh về công nghệ ở một số lĩnh vực đất nước có nhu cầu, tiềm năng, lợi thế.

Bộ Chính trị cũng đặt ra yêu cầu xuyên suốt, không tách rời là phải bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng; bảo đảm an ninh mạng, an ninh dữ liệu, an toàn thông tin của tổ chức và cá nhân.

Để thực hiện các mục tiêu lớn của Nghị quyết 57, Phó trưởng ban Kinh tế Trung ương Thái Thanh Quý nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phải được xác định cụ thể trong chương trình, kế hoạch công tác hằng năm của các cơ quan, bố trí phù hợp số lượng cán bộ có trình độ chuyên môn khoa học kỹ thuật trong cấp ủy các cấp, đồng thời cần phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Bên cạnh đó, cần xóa bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển; đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triến khoa học, công nghệ. Các cơ quan phải tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn, giải phóng các nguồn lực, khuyến khích, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, phát triển nguồn nhân lực.

Nhà nước có cơ chế thí điểm để doanh nghiệp thử nghiệm công nghệ mới có sự giám sát của Nhà nước; có chính sách miễn trừ trách nhiệm đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong trường hợp thử nghiệm công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới mà có thiệt hại về kinh tế do nguyên nhân khách quan, đồng thời cho phép hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo, ươm tạo công nghệ và chuyển đổi số.

Cùng với đó, Nhà nước cũng tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; bố trí ít nhất 15% ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp khoa học phục vụ nghiên cứu công nghệ chiến lược; ban hành cơ chế, chính sách hợp tác công tư để nghiên cứu và phát triển công nghệ chiến lược.

Các bộ ngành cần có cơ chế, chính sách hấp dẫn về tín dụng, học bổng và học phí để thu hút học sinh, sinh viên giỏi theo học các lĩnh vực toán học, vật lý, sinh học, hóa học, kỹ thuật và công nghệ then chốt, nhất là ở các trình độ sau đại học; chú trọng phát triển đội ngũ giảng viên, các nhà khoa học đủ năng lực, trình độ đáp ứng việc giảng dạy lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ chip bán dẫn, vi mạch, kỹ thuật và công nghệ then chốt.

Thủ tướng Phạm Minh Chính. Ảnh: Phạm ThắngThủ tướng Phạm Minh Chính. Ảnh: Phạm Thắng

7 nhiệm vụ để đột phá về khoa học công nghệ

Phát biểu tại hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị là đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đây là văn kiện có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu bước chuyển mình quan trọng của đất nước trong các lĩnh vực này.

“Nghị quyết 57 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là kim chỉ nam cho sự phát triển trong kỷ nguyên mới phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng và là lời hiệu triệu mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cùng nỗ lực đưa Việt Nam thành quốc gia phát triển, thu nhập cao, có năng lực cạnh tranh toàn cầu”, Thủ tướng nói.

Người đứng đầu Chính phủ cho rằng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đóng vai trò then chốt, là động lực mạnh mẽ để Việt Nam phát triển tăng tốc, bứt phá, bền vững. Nghị quyết giúp Việt Nam bắt kịp, tiến cùng các nước phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu kinh tế, từng bước vượt lên, sánh vai cùng các cường quốc về công nghệ.

Đây cũng là chìa khóa để nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế; tối ưu hóa quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý nhà nước; thúc đẩy phát triên kinh tế số, xã hội số, kinh tế xanh, phù hợp với xu thế chung của thế giới; góp phần đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, an sinh xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho mọi người dân, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam phồn vinh, thịnh vượng.

Thủ tướng cho biết Chính phủ xác định 7 nhóm nhiệm vụ chủ yếu trong Chương trình hành động thực hiện nghị quyết 57, trước hết là nâng cao nhận thức, đột phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới, khí thế mới trong toàn xã hội về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Chính phủ cũng quyết liệt hoàn thiện thể chế, xóa bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển, đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Hạ tầng cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số sẽ được tăng cường đầu tư. Nhân lực chất lượng cao, nhân tài sẽ được trọng dụng đáp ứng yêu cầu phát triển lĩnh vực này.

Các cơ quan nhà nước sẽ đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo để nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, quản lý nhà nước, đảm bảo quốc phòng và an ninh. Hoạt động khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong doanh nghiệp sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ. Việt Nam cũng sẽ tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn. Ảnh: Phạm ThắngChủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn. Ảnh: Phạm Thắng

Đổi mới cơ chế quản lý khoa học

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cho biết hiện nay có 4 Luật liên quan trực tiếp đến lĩnh vực khoa học, công nghệ gồm: Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Công nghệ cao, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ; ngoài ra có 12 luật, 42 nghị định, 131 thông tư khác có liên quan.

Từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa 15 đến nay, Quốc hội đã thông qua 8 Luật liên quan đến nội dung này. Đặc biệt, 29 luật và 41 nghị quyết Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 7 và 8 đã giải quyết nhiều vấn đề cấp bách của thực tiễn, trong đó có những Luật quy định về việc tạo lập cơ sở dữ liệu số; phương thức quản lý, cơ chế, chính sách ưu đãi đặc thù liên quan đến ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số; cho phép triển khai cơ chế thử nghiệm có kiểm soát đối với các hoạt động nghiên cứu sản xuất sản phẩm, dịch vụ, các loại hình kinh doanh mới.

“Đảng, Nhà nước luôn quan tâm, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo để phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, không phải bây giờ mới nhắc tới”, ông Mẫn nói.

Tuy nhiên hệ thống pháp luật về khoa học, công nghệ và chuyển đổi số quốc gia vẫn còn có một số hạn chế, thiếu đồng bộ, thống nhất, dẫn đến một số cơ chế khuyến khích, thúc đẩy trong những lĩnh vực này không phát huy được tác dụng. Cơ chế đầu tư, tài chính cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa thực sự phù hợp, chưa khuyến khích, thu hút đầu tư từ xã hội.

Cơ chế đầu tư, tài chính để triển khai chuyển đổi số chưa được tháo gỡ kịp thời; việc phân bổ nguồn tài chính cho các nhiệm vụ, đề án, dự án có phạm vi quy mô quốc gia còn chậm và triển khai phức tạp, mất nhiều thời gian.

Chủ tịch Quốc hội cho rằng phải đổi mới mạnh mẽ tư duy, phương thức, quy trình thủ tục trong hoạt động xây dựng pháp luật. Các luật phải ngắn gọn, rõ ràng, chỉ quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội; không luật hóa các nội dung thông tư, nghị định. Tăng cường phân cấp, phân quyền, cải cách hành chính; chuyển mạnh từ luật thiên về quản lý sang kết hợp hài hòa giữa quản lý có hiệu quả với kiến tạo phát triển, khuyến khích đổi mới sáng tạo, kiên quyết từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”.

Đối với những vấn đề cụ thể đang trong quá trình vận động, chưa ổn định, thì luật chỉ quy định khung và giao cho Chính phủ quy định chi tiết, bảo đảm sự linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn. Cơ chế quản lý khoa học phải tạo động lực đổi mới, sáng tạo như tinh thần “khoán 10” trong nông nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ sinh học.

Bên cạnh đó, Nhà nước tiếp tục cho phép thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra; nghiên cứu, quy định phù hợp về cơ chế thí điểm, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát; nghiên cứu quy định miễn trừ trách nhiệm trong trường hợp thử nghiệm công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới. Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội sẽ phối hợp với Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ để rà soát hệ thống pháp luật có liên quan; thể chế đầy đủ, kịp thời, đồng bộ theo đúng yêu cầu của Nghị quyết 57.

Cơ quan của Quốc hội sẽ phân công theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát, báo cáo việc thực hiện Nghị quyết; chỉ rõ những kết quả đã làm được, việc chưa làm được, việc chưa đạt yêu cầu, giải pháp khắc phục và cá thể hóa trách nhiệm.

Tổng Bí thư Tô Lâm. Ảnh: Phạm Thắng
Tổng Bí thư Tô Lâm. Ảnh: Phạm Thắng

Cần giải pháp đột phá để thu hút nhân tài về công nghệ

Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu tập trung đầu tư trọng điểm để phát triển các tổ chức nghiên cứu, có kế hoạch cụ thể xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nhân tài khoa học công nghệ, triển khai giải pháp đột phá để thu hút tập đoàn công nghệ hàng đầu, nhân tài khoa học công nghệ ở nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài về làm việc.

Ông cũng yêu cầu xem xét bỏ bớt điều kiện kinh doanh không còn phù hợp với nghị quyết 57, Nhà nước có thể chọn thí điểm một số Viện hoặc trường để mời các chuyên gia bên ngoài làm lãnh đạo, nhất là trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, những người hiểu rõ văn hóa Việt Nam, trưởng thành ở các nước phát triển, am hiểu chuyên môn, có sự kết nối quốc tế sâu rộng.

Nghị quyết của Bộ chính trị về đột phá phát triển Khoa học, Công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia

Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất dể nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc.

2.Nghi Quyet 57_TW

Đối thoại với doanh nghiệp, hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp

Chiều 17/7, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tổ chức hội nghị đối thoại với doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Tham dự hội nghị có đại diện một số sở, ngành và hơn 30 doanh nghiệp, HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Theo báo cáo tại hội nghị, hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 334 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp với 4.340 thành viên; 3.790 doanh nghiệp đăng ký hoạt động với số vốn đăng ký đạt 38.785 tỷ đồng, trong đó, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông – lâm – nghiệp chiếm 11%.

Thời gian qua, các doanh nghiệp, HTX nông nghiệp đã có nhiều chuyển biến tích cực, từng bước ổn định và phát triển cả về số lượng, trình độ, quy mô sản xuất, đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sản xuất.

Để hỗ trợ, thúc đẩy phát triển sản xuất cho các doanh nghiệp, HTX trên địa bàn tỉnh, Sở NN&PTNT cũng như các sở, ngành liên quan đã triển khai nhiều chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp, HTX như: đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực; hỗ trợ về khoa học – công nghệ, xây dựng chuỗi liên kết sản xuất; xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường…

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của các doanh nghiệp, HTX trên địa bàn tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, thách thức như quy mô nhỏ, lẻ; thiếu sự liên kết; lúng túng trong việc định hướng phát triển lâu dài…

 Đại diện HTX nuôi ong lấy mật xã Vân Thủy nêu ý kiến tại hội nghị

Tại hội nghị, đại diện các doanh nghiệp, HTX đã nêu một số kiến nghị liên quan đến việc tiếp cận nguồn vốn vay từ Nghị quyết 08 ngày 10/12/2019 của HĐND tỉnh về chính sách đặc thù khuyến khích đầu tư, phát triển hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2020 – 2025 và Nghị quyết số 15 ngày 17/7/2021 của HĐND tỉnh (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết 08); duy trì và nâng cấp sao đối với sản phẩm OCOP (chương trình mỗi xã một sản phẩm); điều chỉnh thời gian nộp tiền thuê mặt nước để nuôi trồng thủy sản; việc quảng bá, liên kết, tiêu thụ sản phẩm….

 Lãnh đạo Chi cục kiểm lâm tỉnh giải đáp khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, hợp tác xã

Trong chương trình, lãnh đạo Sở NN&PTNT cùng đại diện các sở, ngành liên quan đã giải đáp, làm rõ những kiến nghị, vướng mắc của các doanh nghiệp, HTX. Đồng thời đưa ra các giải pháp để hỗ trợ các doanh nghiệp, HTX từng bước khắc phục khó khăn, vươn lên phát triển trong thời gian tới.

Báo Lạng Sơn

Vai trò của đoàn viên, thanh niên trong phát triển nông nghiệp bền vững

Ngày 20.3 tại Hà Nội, Đoàn khối các cơ quan Trung ương tổ chức hội thảo “Nông nghiệp sinh thái, nông dân chuyên nghiệp – Khát vọng vươn tầm” nhằm hướng tới sự đổi mới sáng tạo trong sản xuất nông nghiệp đặc biệt trong lực lượng đoàn viên, thanh niên.

Tăng cường nhận thức về thị trường các-bon

Từ ngày 26/2 đến ngày 1/3, Chương trình Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP), với sự hợp tác của Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức hai khóa đào tạo về Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải (ETS) và thị trường các-bon cho các cơ quan nhà nước liên quan, các tổ chức và các doanh nghiệp tại Hà Nội. Các khóa đào tạo này là một phần trong hoạt động hỗ trợ của ETP nhằm thúc đẩy triển khai thị trường các-bon tại Việt Nam.

Nhu cầu thực từ địa phương, doanh nghiệp

Hiện nay, Chính phủ đã có quy định thành lập thị trường các-bon tại Việt Nam và giai đoạn thí điểm sẽ bắt đầu từ năm 2025. Thời gian qua, nhiều hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức về các quy định pháp luật liên quan đã được triển khai, tuy nhiên, hiểu biết về thị trường các-bon, đặc biệt là hệ thống giao dịch hạn ngạch còn khá hạn chế.

tang-cuong-nhan-thuc-ve-thi-truong-cac-bon.png
Phân biệt loại hàng hóa trong thị trường các-bon. Nguồn: Roxanne Tan – Quản lý cấp cao về Chính sách khí hậu, tài chính và thị trường các-bon, Tập đoàn South Pole

Đơn cử tại tỉnh Tuyên Quang, địa phương có diện tích rừng lên tới hơn 400 nghìn ha, bao gồm 230 nghìn ha rừng tự nhiên và 200 nghìn ha rừng trồng nên có tiềm năng lớn về tín chỉ các-bon rừng. Theo ông Triệu Đăng Khoa – Phó Chi Cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Tuyên Quang, thời gian qua, tỉnh đã xây dựng thí điểm dự án tạo tín chỉ các-bon đối với rừng trồng và hiện đang chờ các cấp có thẩm quyền xem xét, triển khai thực hiện. Đối với rừng tự nhiên, tỉnh đã phối hợp với Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) để đánh giá trữ lượng tín chỉ các-bon.

Các cán bộ lâm nghiệp cùng với cơ quan tư vấn cũng tiến hành đánh giá sơ bộ khả năng cung cấp tín chỉ các-bon ra thị trường và sắp tới sẽ tham vấn các cơ quan liên quan về các hành động chuẩn bị cụ thể cho việc tham gia thị trường, ngay khi các quy định liên quan có hiệu lực. Tuy nhiên, thách thức hiện nay là thể chế, chính sách liên quan đến thị trường các-bon còn đang thiếu. Nghị định số 156/2018/NĐ-CP đã có dịch vụ môi trường rừng về hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng. Tuy nhiên, Nghị định lại chưa có hướng dẫn cách tính cũng như thu hoạch tín chỉ các-bon như thế nào. Mặt khác, thị trường các-bon là vấn đề hoàn toàn mới đối với địa phương, bởi vậy, rất cần có các hoạt động đào tạo tăng cường năng lực để các cán bộ quản lý có thể triển khai thực hiện một cách hiệu quả các quy định liên quan trong thời gian tới.

Theo một khảo sát mới đây, có tới hơn 60% doanh nghiệp không hiểu về cách hệ thống giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính (ETS) và thị trường các-bon hoạt động, hoặc có hiểu nhưng không biết về nguyên tắc hoạt động cơ bản. Chỉ có khoảng 5% doanh nghiệp nắm được sự khác nhau giữa hai hệ thống này và sự tương tác trên sàn giao dịch các-bon.

Công ty Cổ phần Tư vấn Năng lượng và Môi trường (VNEEC) cũng đã thực hiện khảo sát vào cuối tháng 12/2023 trên 237 doanh nghiệp phát thải lớn, có tên trong danh mục cơ sở phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính theo Quyết định 01/2022/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Kết quả cho thấy phần nào nhu cầu tăng cường nhận thức trong vấn đề này trong doanh nghiệp, và ngay cả đối với các cơ quan quản lý liên quan.

Thúc đẩy triển khai thị trường các-bon

Bà Mai Kim Liên – Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu cho biết: Trong khi thị trường các-bon mới trong giai đoạn xây dựng, trên thực tế, doanh nghiệp Việt Nam đã trao đổi tín chỉ các-bon từ Việt Nam trên thị trường các-bon tự nguyện thế giới từ giữa những năm 2000. Việt Nam hiện đã có 150 dự án được cấp 40,2 triệu tín chỉ các-bon và đã có trao đổi trên thị trường thế giới; là 1 trong 4 nước có nhiều dự án tín chỉ theo Cơ chế phát triển sạch đăng ký nhất.

Để thiết lập và vận hành thị trường các-bon trong nước, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định về tổ chức và phát triển thị trường các-bon tại Điều 139 và quy định các cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính, có quyền trao đổi, mua bán trên thị trường các-bon trong nước. Do vậy, việc hướng dẫn thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế rất quan trọng và cần thiết.

Đại diện Chương trình Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Châu Á (ETP), bà Fritzie Vergel bày tỏ, khóa đào tạo về Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải (ETS) và thị trường các-bon là hoạt động đào tạo năng lực đầu tiên ở Việt Nam với sự tham gia của các bên liên quan thuộc cả khu vực công và tư. Đây là một chương trình toàn diện có hệ thống về ETS và thị trường các-bon kết hợp sử dụng công cụ mô phỏng thị trường.

Đối với Việt Nam, việc xây dựng một hệ thống giao dịch hạn ngạch phát thải hiệu quả đóng một vai trò then chốt trong việc đạt được mục tiêu giảm phát thải quốc gia. Bằng cách đặt một hạn mức về tổng lượng phát thải và cho phép các doanh nghiệp mua bán hạn ngạch phát thải, hệ thống giao dịch hạn ngạch tạo ra các động lực kinh tế giúp các doanh nghiệp tìm giải pháp giảm lượng phát thải KNK phù hợp với điều kiện của mình. Ngoài ra, doanh thu từ việc đấu giá hạn ngạch có thể được tái đầu tư vào các dự án liên quan đến khí hậu, hỗ trợ thêm cho các nỗ lực của quốc gia trong thực hiện mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, đóng góp vào nỗ lực chung toàn cầu.

Theo bà Đặng Thị Hồng Hạnh – Giám đốc Điều hành Công ty Cổ phần Tư vấn Năng lượng và Môi trường (VNEEC), thông qua khóa đào tạo, các bên liên quan sẽ hiểu biết rõ ràng về hoạt động của Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải, đặc biệt là hai loại hàng hóa chính trên thị trường là hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon. Việc hiểu rõ vị trí, vai trò của mình trong việc phát triển thị trường các-bon ở Việt Nam sẽ giúp các bên chủ động chuẩn bị sẵn sàng tham gia khi thị trường các-bon Việt Nam thực hiện thí điểm năm 2025 và chính thức vận hành vào năm 2028 theo quy định pháp luật; cũng như thúc đẩy mối quan hệ hợp tác chặt chẽ để thiết lập và vận hành thành công thị trường.

Theo baotainguyenmoitruong.vn

Thương mại điện tử là hướng đi mới cho HTX, doanh nghiệp tại địa phương

Trong những năm gần đây, chính sách xây dựng sàn thương mại điện tử (TMĐT) cho từng địa phương đã được quan tâm và triển khai tích cực. Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành trên cả nước có sàn thương mại điện tử riêng và thu hút được nhiều doanh nghiệp, người dân, HTX trên địa bàn tham gia đăng ký tài khoản bán các đặc sản địa phương, sản phẩm OCOP.

Cùng với sự hỗ trợ của các ngành chức năng, hoạt động thương mại trên sàn TMĐT của các tỉnh thành diễn ra ngày càng sôi nổi và bắt đầu ghi nhận được những kết quả tích cực.

Những kết quả tích cực

Sở Công Thương tỉnh Đồng Nai vừa đưa thông tin, tính đến cuối năm 2023, Sàn giao dịch thương mại điện tử tỉnh Đồng Nai (ecdn.vn) đã có sự tham gia 40 gian hàng của các doanh nghiệp, HTX, cơ sở sản xuất kinh doanh với 300 sản phẩm, trong đó có 90 sản phẩm OCOP.

Được biết, đây là sàn thương mại điện tử đầu tiên ở các địa phương trên cả nước ứng dụng, tích hợp thanh toán trực tuyến, kết hợp với dịch vụ logistics… Từ khi đi vào hoạt động tháng 12/2021, sàn giao dịch thương mại điện tử tỉnh Đồng Nai đã hoạt động hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp mở rộng khả năng tiếp cận thị trường của người dân, HTX, doanh nghiệp tại địa phương.

Nhiều đơn vị tại Đồng Nai đã bày tỏ sự hưởng ứng, cũng như chia sẻ về việc bán sản phẩm trên sàn thương mại điện tử của tỉnh đã giúp đem về những tín hiệu tích cực.

thuong-mai-dien-tu-la-huong-di-moi-cho-htx-doanh-nghiep-tai-dia-phuong.jpg

Các trang TMĐT của địa phương đăng bán nhiều loại sản phẩm OCOP.

Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Trường Phát (Nhơn Trạch, Đồng Nai) Nguyễn Thị Bích Lệ cho biết, HTX đã được Sở Công thương hỗ trợ đưa sản phẩm lên sàn ecdn.vn. Sau một quá trình tích cực tham gia, thử nghiệm, hiện HTX đã đưa được khoảng 20 sản phẩm lên sàn này. Sàn đã góp phần kết nối quảng bá, giới thiệu sản phẩm OCOP của HTX.

Từ chỗ kinh doanh chậm, dựa chủ yếu vào bán hàng truyền thống và các đơn vị liên kết. Đến nay, hoạt động bán hàng trực tuyến qua trang TMĐT của tỉnh đã giúp việc bán sản phẩm của HTX phát triển đáng kể. Bà Lệ chia sẻ, doanh thu của HTX từ các giao dịch mua bán trên sàn này trung bình đạt khoảng 100 triệu đồng/tháng.

Tương tự tại tỉnh Gia Lai, đến cuối năm 2023, Sở Công Thương ghi nhận toàn tỉnh có 206 đơn vị sản xuất nông nghiệp tham gia sàn TMĐT tại địa chỉ http://thuongmaigialai.vn với 375 loại sản phẩm. Trong quá trình hoạt động sàn đã giúp nhiều đơn vị, đặc biệt là HTX có sự phát triển vượt trội về doanh thu và khả năng tiếp cận với người tiêu dùng.

Bà Trần Thị Hoàng Anh,Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Giám đốc HTX Mật ong Phương Di Ia Grai ( Ia Grai, Gia Lai) chia sẻ: Thông qua các sàn TMĐT, HTX tiếp cận nhiều khách hàng và ký kết được nhiều hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.

“Kênh bán hàng online giúp HTX nâng cao hiệu quả hoạt động, thúc đẩy phát triển sản xuất. Thời điểm hiện tại, kênh bán hàng truyền thống gặp khó khăn nhưng nhờ bán qua sàn TMĐT nên doanh thu của HTX vẫn tăng khoảng 20% so với trước”, bà Hoàng Anh bày tỏ.

Với nhiều lợi thế là không tốn chi phí cho khâu trung gian, có sức lan tỏa rộng đến nhiều đối tượng khách hàng ở khắp mọi nơi, các sàn TMĐT địa phương đang thể hiện được sự hữu dụng của mình trong việc giúp người dân, HTX, doanh nghiệp tại địa phương tăng cường khả năng tiêu thụ sản phẩm, mở rộng đầu ra.

Nhận thức được tiềm năng và tầm quan trọng của việc bán hàng qua TMĐT, khi được Sở Công thương hỗ trợ kiến thức liên quan đến việc mở gian hàng trên các sàn giao dịch TMĐT, người dân, doanh nghiệp HTX cũng đã nhiệt tình hưởng ứng.

Vẫn còn nhiều hạn chế

Dù đem lại những kết quả tích cực như trên, nhưng xét về thực tế cho thấy hoạt động của các sàn TMĐT của các tỉnh vẫn còn bộc lộ không ít yếu điểm, hạn chế.

Theo Sở Công Thương các địa phương, các nhóm sản phẩm được giới thiệu trên sàn gồm: nông sản, đặc sản địa phương, sản phẩm OCOP, sản phẩm công nghiệp nông thôn… đều có chất lượng rất tốt. Tuy nhiên, sức mua của các sàn vẫn chưa được như kỳ vọng.

Trang TMĐT của tỉnh đã góp phần quảng bá, giới thiệu được sản phẩm tới người tiêu dùng nhưng nhìn chung hoạt động vẫn còn nhỏ lẻ, chưa có phương án phát triển lâu dài, chưa theo kịp thị trường… Do đó, số lượt bán nhìn chung vẫn thấp, lượng giao dịch, tương tác, doanh thu nhìn chung vẫn còn khá khiêm tốn…

Bên cạnh đó, nhiều người tiêu dùng cũng phản ánh các sàn TMĐT của một số tỉnh, địa phương vẫn cần cải thiện nhiều yếu tố về mặt giao diện, tính năng, nâng cao tính nhận diện, hình ảnh thương hiệu hoạt động tuyên truyền để làm tăng sức mua, thu hút người tiêu dùng.

Chị Mỹ Thơm (Mang Yang, Gia Lai), một khách hàng của sàn TMĐT tỉnh nhận xét: “Dù đã có được những tính năng cơ bản của một sàn TMĐT nhưng thiết kế, giao diện của website vẫn khá đơn giản, chưa tối ưu và kém thu hút. Bên cạnh đó, các sản phẩm đăng lên cũng chưa đẹp, nhiều hình ảnh do người bán tự chụp chưa đầu tư vào hình thức, khó tạo được hứng thú cho người mua”.

Qua đó, các chuyên gia về truyền thông, thương mại nhận định, các địa phương cần cải tiến giao diện, nội dung và có kế hoạch lâu dài để hỗ trợ, thúc đẩy ứng dụng rộng rãi TMĐT trong cộng đồng để ngày càng tiệm cận với thị hiếu thị trường. Để người tiêu dùng biết đến nhiều hơn, địa phương cũng cần tăng cường công tác truyền thông, thông tin về sàn TMĐT, nhất là gắn với hoạt động tuyên truyền vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm OCOP.

Đối với các doanh nghiệp, HTX đã đưa sản phẩm lên sàn cần chú trọng tạo bộ nhận diện thương hiệu, hình ảnh sản phẩm đồng thời tạo nên một môi trường kết nối giao thương đa chiều, hiệu quả hơn. Ngoài ra, khi đã tham gia sàn cần tích cực tương tác, hỗ trợ và tiếp nhận thông tin phản hồi từ khách hàng.

Dù còn nhiều hạn chế nhưng nhìn chung các sàn TMĐT địa phương đã góp một bước phát triển tích cực, tạo “bệ phóng” cho sự mở rộng về kết nối giao thương cho người dân, doanh nghiệp, HTX địa phương kinh doanh các sản phẩm, nông đặc sản vốn còn thiếu, yếu về mặt đầu ra.

Ngoài trang TMĐT, hiện nhiều đơn vị doanh nghiệp, HTX cũng bày tỏ mong muốn các cơ quan chức năng, chính quyền tỉnh có thể mở thêm những kênh truyền thông trực tuyến khác, nhằm tăng cường sự liên kết, đẩy mạnh giới thiệu, quảng bá rộng rãi hơn nữa những sản phẩm của địa phương sản xuất tới thị trường cả nước.

Theo Bích Tâm – Vnbusiness.vn

Sức mạnh của việc lập kế hoạch sản xuất đối với HTX

Để HTX tồn tại và phát triển, mỗi HTX phải có kế hoạch, phương án sản xuất kinh doanh phù hợp. Vậy nhưng do cả lý do khách quan và chủ quan, nhiều HTX vẫn sản xuất nhưng chưa biết kết quả ra sao. Điều này khiến sản phẩm hàng hóa của HTX khó đứng vững trên thương trường, HTX cũng rơi vào tình trạng bị động, chịu nhiều rủi ro.

Là một trong những HTX sản xuất lúa và nuôi tôm quy mô lớn ở Bạc Liêu với 383ha, thu hút gần 170 thành viên nhưng HTX nông nghiệp tổng hợp Ba Đình cho biết vẫn gặp những khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Ông Nông Văn Thạch, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX, cho biết thiếu vốn sản xuất, đầu tư máy móc sơ chế, đóng gói gạo là một trong những trở ngại của HTX. Điều này một phần là do HTX còn gặp khó khăn trong xây dựng phương án sản xuất kinh doanh nên dẫn tới chưa tiếp cận được với những đơn vị cho vay vốn.

Nhiều HTX chưa có phương án hiệu quả

Thống kê cho thấy đến 2023, cả nước có hơn 31.700 HTX, 158 liên hiệp HTX và 73.000 tổ hợp tác. Từ những con số này Ts Nguyễn Bích Thủy (Trường Đại học Thương Mại) cho biết, khoảng 60-70% HTX hoạt động hiệu quả, không thể không nhắc đến vai trò của việc xây dựng kế hoạch, phương án sản xuất kinh doanh. Ngược lại, có những HTX hoạt động khó khăn, hòa vốn hoặc lỗ một phần cũng vì chưa có phương án sản xuất kinh doanh rõ ràng, dài hơi. Hoặc có những HTX có phương án sản xuất kinh doanh nhưng chưa hiệu quả, không đủ sức thuyết phục nên không hấp dẫn được nông dân, thành viên và cũng khó thuyết phục đơn vị vay vốn, các dự án, doanh nghiệp đầu tư, hỗ trợ vay vốn.

Ông Ma Ngọc Thành, Giám đốc HTX nông lâm nghiệp Thổ Bình (Tuyên Quang) cho biết, phương án sản xuất kinh doanh tưởng là không quan trọng nhưng thực chất lại rất quan trọng với HTX.

Ngay tại Thổ Bình, dù phát triển nhiều dịch vụ, trải qua dịch bệnh và gặp không ít khó khăn trong sản xuất nông nghiệp nhưng nhờ lên phương án sản xuất kinh doanh cụ thể, HTX đã củng cố được hoạt động, thực hiện vừa tái sản xuất nông nghiệp, vừa phát triển được chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa, hỗ trợ đắc lực cho người dân làm nông nghiệp thông qua bảo đảm đầu vào và đầu ra, kết hợp với đầu tư chế biến nông sản. Từ đó, doanh thu và lợi nhuận được bảo đảm theo đúng kế hoạch. Việc tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ cũng thuận lợi hơn.

suc-manh-cua-viec-lap-ke-hoach-san-xuat-doi-voi-htx.jpg

Lập kế hoạch sản xuất như một công cụ nâng cao hiệu quả sản xuất cho HTX.

“Phương án sản xuất kinh doanh giúp lãnh đạo HTX tổ chức, điều hành và cân đối sản xuất kinh doanh. Phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh còn giúp HTX kiểm soát vấn đề tài chính, tránh tình trạng doanh thu thì lớn nhưng lợi nhuận thì chẳng là bao”, ông Ma Ngọc Thành cho biết.

Khẳng định phương án sản xuất kinh doanh là cần thiết đối với một HTX nếu muốn hoạt động hiệu quả những ông Nguyễn Khải, Chủ tịch Liên minh HTX Đăk Nông, cho rằng việc này hiện đang được các HTX có nguồn nhân lực trẻ làm khá tốt. Còn những HTX có nhân lực lớn tuổi lại gặp nhiều khó khăn vì chưa biết lập kế hoạch sản xuất kinh doanh sao cho hiệu quả, phù hợp.

Do chưa có phương án sản xuất kinh doanh khả thi mà nhiều khi, HTX tham gia quá nhiều vào việc thực hiện sản xuất, kinh doanh. Cũng có khi HTX chỉ tập trung vào xử lý các vấn đề về tài chính trong ngắn hạn mà không có nhiều quỹ thời gian hoặc không phân bổ tài chính hợp lý để giúp các thành viên định hướng cho tương lai hoặc ngược lại.

Cần con số cụ thể cho từng giai đoạn

Tuy nhiên, nhiều HTX không lập được phương án sản xuất, kinh doanh có đủ sức thuyết phục cũng có lý do. Bởi hiểu một cách đơn giản, lập kế hoạch sản xuất kinh doanh chính là việc đánh giá nhu cầu và tiềm năng của thành viên, nông dân để họ có những kỳ vọng thực tế về những gì họ có thể cung cấp và những gì họ có thể có nhận lại.

Nhưng đối với các HTX, thành viên và ban giám đốc HTX điều này không dễ dàng vì họ rất khó lên kế hoạch sản xuất lúa hay rau màu trong một đợt hạn hán hoặc một đợt dịch hại sẽ xảy ra. Ngay như đợt dịch Covid-19 đã diễn ra, nhiều HTX cũng “trở tay không kịp” vì nhiều vấn đề xảy ra khá bất ngờ.

Dưới góc độ một doanh nghiệp đang liên kết với HTX và hỗ trợ HTX xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, bà Trung Thị Sơn, Giám đốc công ty cổ phần Đông Nam dược miền Trung, cho rằng thực tế nhiều điều khó có thể dự báo trước khiến HTX rơi vào tình trạng bị động. Nhưng xét về khía cạnh sản xuất kinh doanh thông thường, dường như ngành nông nghiệp không thay đổi nhiều về diện tích đất có sẵn, số lượng cây-con, hoặc vấn đề trả lãi suất cho một khoản vay là những con số HTX có thể dự kiến được một cách phù hợp. Việc tìm kiếm đầu ra, quảng bá nông sản cũng có thể dự trù hoặc có kế hoạch cụ thể nhờ chủ động hoặc tham khảo các dự báo về thị trường.

Một điều quan trọng hiện nay là với nhiều HTX có ban lãnh đạo lớn tuổi, việc làm một kế hoạch sản xuất hiệu qủa không hề dễ nên cần cung cấp, hỗ trợ cho nông dân, giám đốc HTX trong vấn đề này. Cụ thể là có thể tạo điều kiện cho HTX tham gia các khóa đào tạo về lập kế hoạch, phương án sản xuất kinh doanh.

Nhưng dù thể nào HTX cũng cần có mục tiêu sản xuất kinh doanh với những con số về chi phí, doanh thu, lợi nhuận, dự phòng, phát sinh cụ thể cho từng giai đoạn, từ đó làm nền tảng có những kế hoạch, mục tiêu về sau.

Ông Ưng Thế Lãm, chuyên gia tư vấn, giám đốc Công ty TNHH Tư vấn xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại Toàn Cầu, cho rằng có lập phương án sản xuất kinh doanh chi tiết, HTX mới biết mình thu lợi khoảng bao nhiêu sau quá trình đầu tư, tránh tình trạng mất tiền bạc, công sức sản xuất kinh doanh nhưng không biết mình có thu được lợi nhuận hay không hoặc không biết đầu ra tiêu thụ ở đâu.

Để giải quyết được điều này, một trong những việc HTX cần làm trong quá trình lập kế hoạch đó là lập bản đồ, bảng biểu chính xác của từng tài sản, kết hợp phân tích chi tiết nguồn nước và đất, hỗ trợ thành viên quyết định những loại cây-con thích hợp.

Chẳng hạn như một HTX chăn nuôi cần có kế hoạch cụ thể, một bảng ghi lại thời gian sinh và thời gian giao phối, theo dõi tốc độ tăng trưởng và lập kế hoạch thời gian tối ưu để bán vật nuôi ra thị trường. Việc thống kê, lưu dữ những thông tin trong sản xuất kinh doanh một cách đầy đủ có thể giúp HTX có những quyết định tốt hơn, từ đó có thể dẫn tới cải thiện đời sống cho nông dân. Chính vì vậy, cần ứng dụng công nghệ vào lưu trữ thông tin từ đó tạo thuận lợi cho lập kế hoạch cụ thể.

Theo Huyền Trang – Vnbusiness.vn

Phát huy bản chất mô hình HTX để mở rộng đa dạng dịch vụ

Nhu cầu của thành viên HTX rất đa dạng, trong khi thị trường lại phát triển liên tục. Việc mở rộng dịch vụ để vừa đáp ứng nhu cầu của các thành viên, đồng thời thích ứng với định hướng thị trường sẽ giúp HTX phát triển bền vững hơn.

Nhận thấy nhu cầu thị trường về các sản phẩm ăn chay, HTX Thương mại và Dịch vụ Phước Thiện (Bình Phước) đã liên kết với doanh nghiệp phát triển hệ sinh thái thịt thực vật, thịt làm từ mít. Với thế mạnh của HTX là sản xuất mít bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm trên quy mô lớn, sản phẩm pate mít, thịt thực vật từ mít, nước sốt thực vật… đã được khách hàng trong nước đón nhận.

Việc mở rộng sang chế biến thực phẩm ăn chay không chỉ giúp HTX giải quyết bài toán tiêu thụ mít mà còn đáp ứng nhu cầu thị trường, nâng cao thu nhập cho thành viên. Đặc thiệt, cơ hội còn rộng mở hơn vì thời gian tới, HTX sẽ đẩy mạnh xuất khẩu.

Tận dụng “mua chung, bán chung”

Một trong những HTX hàng đầu ở Đức là Landwege cũng đã hoạt động hiệu quả nhờ mô hình không chú trọng vào việc mở rộng về mặt địa lý mà thay vào đó là phát triển sâu chuỗi giá trị, mở rộng dịch vụ phục vụ thành viên. HTX cung cấp các dịch vụ từ đầu vào như hướng dẫn sử dụng phân thuốc, đào tạo, dự báo thời tiết, quản lý nước, kiểm tra phân tích đất-nước, cơ giới, thông tin thị trường, xây dựng thị trường, vận tải, ghi nhãn… đến các dịch vụ tài chính như tín dụng, bảo hiểm, cho thuê… Ngoài ra, HTX Landwege còn phát triển dịch vụ quản lý kinh doanh như lập kế hoạch sản xuất, kiểm toán, tín dụng, pháp lý,… Nhờ vậy mà HTX này là mô hình phát triển mạnh ở Đức về chuỗi nông nghiệp hữu cơ.

Những ví dụ của HTX Phước Thiện và Landwege cho thấy, mở rộng và đa dạng các dịch vụ sẽ giúp HTX thích ứng tốt hơn với thị trường và mang lại nhiều lợi ích cho thành viên.

Tại một số địa phương hiện nay, có những HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nhưng đã mở rộng sang dịch vụ thu gom rác thải, tái chế rác. Dịch vụ này đã phát huy tác dụng trong bối cảnh ô nhiễm môi trường ở nhiều địa phương đang diễn ra.

phat-huy-ban-chat-mo-hinh-htx-de-mo-rong-da-dang-dich-vu.jpg

Nông nghiệp công nghệ cao rất thích hợp để mở rộng dịch vụ trải nghiệm du lịch.

Cụ thể là HTX mở rộng sang hoạt động thu gom, tái chế rác thải đã đóng góp trực tiếp vào lợi ích cộng đồng, góp phần trực tiếp bảo vệ môi trường và sau cùng hoạt động này lại sinh lợi khi tạo việc làm và thêm nguồn thu cho chính các thành viên HTX.

Theo các chuyên gia, hiện nay, khoa học kỹ thuật và thị trường ngày càng phát triển thì đi đôi với đó là nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của nông dân ngày càng lớn. Việc HTX phát triển được đa dạng các dịch vụ sẽ phát huy được chức năng mua chung, bán chung của mô hình HTX.

TS Ninh Đức Hùng, chuyên gia phát triển HTX cho biết, nếu một HTX nông nghiệp chỉ cung cấp những dịch vụ đơn thuần nhưng sau khi nắm bắt được nhu cầu thị trường về máy bay không người lái phục vụ trong nông nghiệp (drone) đang phát triển cao, HTX đầu tư, mở rộng sang dịch vụ này cũng sẽ phát huy nhiều lợi ích.

Đó là thành viên, người dân được phun thuốc không tiếp xúc, năng suất cao, tiến độ phun nhanh, giá thành hạ… Đặc biệt, trong lúc kinh phí của nhiều HTX còn nhiều khó khăn, để giải quyết được vấn đề về vốn mua máy bay không người lái, các HTX cũng có thể áp dụng nguyên tắc “mua chung, bán chung” của mô hình kinh tế tập thể. Tức là nhiều HTX cùng góp vốn để đầu tư một máy, cùng thực hiện dịch vụ cho thành viên nông dân, từ đó vừa nâng cao hiệu quả về kinh tế vừa tiết kiệm chi phí đầu tư.

Điều này còn đúng với bản chất của mô hình HTX. Nghĩa là HTX đầu tư drone phun thuốc với giá trung bình là 15 nghìn đồng/sào, nếu vì lợi nhuận, HTX phải thu của những người ngoài thành viên là 16-17 nghìn đồng/sào. Nhưng khi nông dân là thành viên, HTX chỉ thu phí dịch vụ là 15 nghìn đồng/sào. Mức giá này đang hỗ trợ trực tiếp cho thành viên, đề cao lợi ích của thành viên một cách tối đa.

Như vậy, thành viên chính là người hưởng lợi ích vì giá rẻ, đây cũng chính là bản chất của HTX. Vì nếu HTX làm dịch vụ đắt hơn thị trường thì không thể thu hút thành viên. Còn nếu HTX thu hút được nhiều thành viên cùng sử dụng dịch vụ này thì mức chiết khấu sẽ càng tăng.

Mở rộng dịch vụ cần tối đa lợi ích thành viên

Tuy nhiên, việc mở rộng dịch vụ với mỗi HTX không thể mang lại hiệu quả nếu không có những phân tích, tính toán lỹ lưỡng. Với một số HTX, việc mở rộng dịch vụ có thể để thích ứng với những cơ hội mới từ thị trường có thể chớp thời cơ nhanh chóng. Chẳng hạn như một số HTX đang mở rộng sang dịch vụ dưỡng sinh, du lịch trải nghiệm kết hợp nông nghiệp… là do nhu cầu thị trường về những dịch vụ này đang cao.

Trong khi đó, phần lớn HTX hiện nay gặp khó khăn về nguồn vốn, nên việc tính toán kỹ về chi phí, lợi nhuận cũng cần được quan tâm. Bởi, theo PGS.TS Mai Quang Vinh, Tổng Giám đốc Liên hiệp HTX Kinh tế số Việt Nam (VDECA), có thể một dịch vụ đáp ứng được phần đông nhu cầu của thành viên nhưng chưa chắc đã mang lại hiệu quả bền vững. Nhưng có khi có những dịch vụ mà nhiều HTX mong muốn nhưng chưa chắc nhiều HTX ở Việt Nam có thể làm được, đó là dịch vụ tín dụng.

Chính vì vậy cần sự tính toán cụ thể trước khi đầu tư một dịch vụ mới. Chẳng hạn như HTX vốn là mô hình phát triển vì lợi ích của thành viên nên luôn luôn có mức chiết khấu thấp hơn, không giống như mô hình cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp. Đi liền với đó, sau khi trừ thuế, trừ chi phí, nguồn thu của HTX có đảm bảo được hoạt động không? Các lợi ích mang lại có nhiều không? Nếu lợi nhuận, lợi ích luôn nhỏ hơn chi phí đầu tư thì chắc chắn việc mở rộng dịch vụ là không hiệu quả.

Hơn nữa, sự lựa chọn dịch vụ cũng cần phải phù hợp với mục đích phát triển của HTX, phải hỗ trợ chiến lược của HTX. Chẳng hạn nếu HTX đang chuyên trong mảng cung cấp các dịch vụ số hóa trong nông nghiệp thì không nên mở rộng dịch vụ về nghiên cứu đất đai (hoặc chỉ khi dịch vụ này rất quan trọng để cải thiện dịch vụ số hóa nông nghiệp).

Hay như, nếu HTX đang phục vụ nông dân trồng mít thì không nên cung cấp các dịch vụ thú y vì không ăn khớp và không phục vụ được tối đa lợi ích của thành viên. Ngược lại, nếu HTX làm nông nghiệp bền vững, nông nghiệp công nghệ cao thì lại rất thích hợp để phát triển thêm dịch vụ về trải nghiệm, du lịch kết hợp nông nghiệp…

Theo Huyền Trang – Vnbusiness.vn

HTX lấy cảm hứng từ những livestream đạt doanh thu hàng chục tỷ đồng

Nhiều phiên livestream của những người có sức ảnh hưởng với doanh thu hàng chục tỷ đồng đang khiến nhiều HTX đứng ngồi không yên. Tuy nhiên, dù là bán hàng online hay offline thì mỗi HTX cũng sẽ có những tệp khách hàng cho riêng mình.

Phiên livestream của chủ tài khoản “Quyền Leo Daily” kéo dài hơn 12 tiếng trên nền tảng TikTok đạt doanh thu lên đến 75 tỷ đồng vẫn đang được nhiều HTX bàn tán. Một con số có sức nặng chắc chắn khiến nhiều HTX phải vắt tay lên trán suy nghĩ về thời thế. HTX thay đổi để thích nghi hay tụt hậu hoặc phải tìm ra con đường mới để tồn tại.

Doanh thu bán online chỉ chiếm khoảng 30%

Thực chất, thay đổi là đúng. Bởi theo ông Trịnh Văn Hoàn, Giám đốc HTX Bảo An (Bắc Giang) đã có rất nhiều loại nông sản được tiêu thụ thuận lợi nhờ những phiên livestream, qua kênh bán hàng hiện đại. Và đặc biệt từ khi dịch Covid-19 xảy ra đến nay, thói quen mua hàng online của người dân đã phát triển.

Tuy nhiên, theo ông Hoàn ngay như việc HTX bán hàng ở các kênh hiện đại thì có một điều là khách hàng của HTX sẽ được mở rộng nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc những khách hàng mua hàng theo cách truyền thống giảm đi. Mà thậm chí thông qua các video giới thiệu, các bài đăng giới thiệu hàng hóa, nhiều đơn vị như cửa hàng nông sản sạch, siêu thị lại đến tận nơi làm việc và đặt hàng của HTX.

Có thể thấy, tình trạng mà HTX Bảo An đang gặp phải thực chất không hiếm gặp. Bởi bên cạnh những người mua hàng hiện đại thì vẫn còn những người vẫn giữ thói quen mua hàng trực tiếp. Họ vẫn muốn “sờ tận tay, day tận mắt” xem sản phẩm như thế nào mới đưa ra quyết định mua hàng.

htx-lay-cam-hung-tu-nhung-livestream-dat-doanh-thu-hang-chuc-ty-dong.jpg

Bán hàng online không đồng nghĩa với việc khách hàng truyền thống hoàn toàn giảm đi.

Theo đánh giá của Savills Việt Nam, dù bán hàng trực tuyến đã sôi động nhưng đối với các nhà bán lẻ, thực tế nguồn thu từ bán hàng trực tuyến chưa chiếm phần lớn trong kết quả phân phối sản phẩm của họ.

Và điều này cũng đúng với thực tế của các HTX hiện nay. Dù nhiều HTX đã thực hiện bán online, thực hiện livestream nhưng lượng hàng bán ra từ kênh này chưa nhiều. Có HTX bán được nhiều hàng qua hình thức này chỉ tập trung ở những HTX đã đầu tư bài bản cho thương mại điện tử, liên kết chặt chẽ với Tik Tok hoặc đó là những phiên livestream có sự hỗ trợ của những người có sức ảnh hưởng trên mạng xã hội.

Thay vào đó, đến thời điểm này, thương mại điện tử thực chất đang là kênh giới thiệu, quảng bá của các HTX hoặc thông qua đó sẽ kích cầu mua sắm với những khách hàng nhạy cảm về giá thành, sự đặc sắc của sản phẩm và sau đó họ vẫn đến cửa hàng trực tiếp để trải nghiệm sản phẩm.

Nhìn vào thực tế này, bà Trần Phạm Phương Quyên, Quản lý Bộ phận Cho thuê Bán lẻ Savills Việt Nam, cho biết thực chất mỗi kênh bán hàng dù là online hay trực tuyến cũng sẽ có những tệp khách hàng riêng. Và không phải khi các nhà bán lẻ mở rộng kênh bán hàng online thì sẽ khiến kênh bán hàng truyền thống hoàn toàn bị cản trở.

Ông Trần Văn Kiểm, Giám đốc HTX dịch vụ thủy sản Hồng Tiến (Thái Bình) cho biết, HTX chủ yếu kinh doanh các sản phẩm mắm cáy. Khi thấy bán hàng online phát triển, HTX cũng đầu tư vào hình thức này. Tuy nhiên, bán hàng online chỉ chiếm khoảng 30% trong tổng doanh thu bán hàng của HTX. Khi đó, HTX nhận thấy giá trị của kênh bán hàng truyền thống vẫn rộng mở nên tích cực đưa sản phẩm vào các cửa hàng tạp hóa, siêu thị và tham gia các hội chợ…

Lựa chọn phù hợp

Theo các chuyên gia, bán hàng online là điều không thể thiếu trong thời đại hiện nay. Tuy nhiên, xét về một khía cạnh bền vững, lâu dài thì bán hàng trực tiếp vẫn giữ được những thế mạnh nhất định.

Bởi sau những lần mua hàng online không giống với như những gì khách mong đợi khiến không ít người tiêu dùng thất vọng. Đi liền với đó, dịch Covid-19 dường như đã lùi vào quá khứ nên việc quay lại mua sắm bằng hình thức truyền thống vẫn sẽ thu hút nhiều người.

Đặc biệt, người tiêu dùng thông thái đều muốn tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm. Trong khi, mặt hàng của các HTX bán ra phần lớn là nông sản, thực phẩm, dược liệu, tinh dầu… nên việc bán hàng trực tiếp vẫn có những lợi thế riêng nhằm tăng trải nghiệm khách hàng, giúp HTX nhanh chóng nhận được những phản hồi để có những thay đổi phù hợp.

htx-lay-cam-hung-tu-nhung-livestream-dat-doanh-thu-hang-chuc-ty-dong.jpg

Bán hàng trực tiếp giúp HTX nắm được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng một cách thuận lợi hơn.

Bà Đỗ Thu Ngân (chuyên gia tài chính đầu tư ở Canada) cho biết không chỉ khách hàng trong nước mà đối với khách hàng nước ngoài, kênh bán hàng trực tiếp vẫn giữ vị trí quan trọng. Ngay như Canada, đến giữa năm 2023, khảo sát cho thấy có đến 56% người dân vẫn giữ thói quen mua hàng online. Tuy nhiên, điều này đang giảm dần vì dịch Covid-19 đã không còn. Thói quen đến tận siêu thị, cửa hàng để đọc từng thông tin trên bao bì, xem thực tế sản phẩm có bảo đảm an toàn, bền vững không rồi mới mua được phần lớn người Canada giữ gìn. Điều này theo bà Ngân không chỉ diễn ra ở Canada mà sẽ đúng với nhiều quốc gia khác, nhất là khi du lịch đang trên đà phục hồi.

Như vậy, có những đầu tư cho từng hình thức bán hàng online hay offline như thế nào là quyết định của từng HTX bởi mỗi hình thức bán hàng sẽ có những lợi thế riêng. Nhưng có một điều chắc chắn đó là các cửa hàng trực tiếp vẫn có những giá trị vô hình như tăng khả năng trải nghiệm, giúp HTX xây dựng và mở rộng những mối quan hệ bền vững. Và ngoài siêu thị, cửa hàng tạp hóa thì ngay cả các chợ truyền thống vẫn đang là một kênh tiêu thụ hàng hóa của phần lớn HTX hiện nay.

Chính vì vậy, việc các nhà quản lý có những giải pháp củng cố và phát triển chợ truyền thống, hỗ trợ HTX đưa hàng vào kênh này cũng vẫn là một hướng đi hiệu quả.

Theo Huyền Trang – Vnbusiness.vn