Kinh tế tập thể, HTX đã có những tiến bộ cả về lượng và chất khẳng định được tiềm năng, triển vọng phát triển trong tương lai

Theo Bộ NN&PTNT, việc triển khai Nghị quyết số 13-NQ/TW và Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2012 trong nông nghiệp đã làm chuyển đổi nhận thức về vai trò, vị trí và tính cấp thiết của việc phát triển HTX trong nông nghiệp, mô hình HTX kiểu mới trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân; xây dựng môi trường thể chế, hệ thống các cơ chế, chính sách phù hợp và đặc thù trong nông nghiệp; duy trì hệ thống quản lý nhà nước theo ngành dọc. Kinh tế tập thể, HTX đã có những tiến bộ cả về lượng và chất, ngày càng khẳng định được tiềm năng, triển vọng phát triển trong tương lai.

Hoạt động của các HTX nông nghiệp đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm

Trong thực tiễn, xuất hiện nhiều mô hình HTX hoạt động hiệu quả; trình độ cán bộ quản lý HTX nông nghiệp được nâng cao rõ rệt, đội ngũ cán bộ quản lý được trẻ hóa. Cả nước có 2.297 HTX nông nghiệp thành lập doanh nghiệp trong HTX; 2.200 HTX ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số trong sản xuất; trên 4.339 HTX đảm nhận bao tiêu nông sản… Hoạt động của các HTX nông nghiệp đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất nông nghiệp và thu nhập của người nông dân. Năm 2020, doanh thu bình quân/HTX đạt 2,44 tỷ đồng/năm (gấp 5,64 lần so với năm 2001); thu nhập bình quân của lao động thường xuyên đạt 40,5 triệu đồng/năm (gấp 9,1 lần so với năm 2001)… qua đó, đóng góp chung vào thành tựu phát triển của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn suốt 20 năm qua.

 Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế như: Quá trình tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW còn chậm, chưa quyết liệt; Nghị quyết và Luật ban hành đã lâu nên các nội dung, giải pháp và quy định chưa được cập nhật, phù hợp với tình hình mới; số HTX hoạt động có hiệu quả còn thấp, thiếu bền vững; quy mô thành viên và doanh thu của các HTX nông nghiệp còn nhỏ bé; các dịch vụ sơ chế, chế biến, bảo quản, số lượng các HTX có khả năng liên kết chưa nhiều, mới đạt 24% tổng số HTX; Nghị quyết số 13 -NQ/TW đặt ra mục tiêu đến năm 2010 đưa kinh tế tập thể, HTX thoát khỏi những yếu kém, tuy nhiên đến nay mục tiêu này mới cơ bản được hoàn thành; cả nước vẫn còn 985 HTX nông nghiệp ngừng hoạt động chưa giải thể được; một số HTX tuy đã đăng ký tổ chức lại theo Luật HTX năm 2012 nhưng không chuyển đổi được mô hình hoạt động nên hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp…

Tham gia vào hợp tác xã các thành viên hưởng lợi nhiều hơn. Ảnh: Internet

Những chuyển biến rõ nét trogn kinh tế tập thể

Tại Thừa Thiên Huế, qua 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW và 10 năm thi hành Luật HTX, kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh đã có bước chuyển biến rõ nét, hiện có 310 HTX, 43 tổ hợp tác với trên 172.000 thành viên, tổng vốn góp của các thành viên trên 280 tỷ đồng. Trong đó HTXNN có 218 HTX với hơn 101.090 thành viên, năm 2020 doanh thu bình quân của 1 HTX là 1,94 tỷ đồng.

 Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phan Quý Phương, việc thành lập HTX Lâm nghiệp bền vững của từng thôn, xã; tiến đến hình thành liên hiệp các HTX lâm nghiệp là hướng đi rất phù hợp. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã giao nhiệm vụ cho Sở Nông nghiệp và PTNT hỗ trợ bà con nông dân giai đoạn 2016-2020 ngoài mục tiêu mở rộng quy mô rừng trồng gỗ lớn khu vực nông hộ, có chứng chỉ rừng tối thiểu là 5.000 ha với ít nhất 1.250 hộ nông dân và 5.000 người dân được hưởng lợi gắn với phát triển 30 hợp tác xã lâm nghiệp bền vững, hoạt động theo chuỗi giá trị rừng trồng gỗ lớn có chứng chỉ rừng; có doanh nghiệp đầu mối bao tiêu toàn bộ sản phẩm gỗ lớn. Và tiến độ đến nay, tỉnh đã có 1.028 lâm hộ dân với diện tích trên 5.100 ha rừng trồng có chứng chỉ rừng; thành lập được 25/30 hợp tác xã lâm nghiệp bền vững; cho thấy chiến lược đề ra của tỉnh là đúng đắn, phù hợp thực tiễn và hợp lòng dân.

Đối với tỉnh Bắc Kạn, hiện nay có tổng số 241 HTX nông nghiệp và 56 HTX phi nông nghiệp, 1 Liên hiệp HTX, hơn 300 tổ hợp tác, 8 trang trại. Các HTX hoạt động tốt chiếm 39% và trung bình chiếm 40%. Toàn tỉnh có 131 sản phẩm OCOP, trong đó có 95 sản phẩm của HTX nông nghiệp. Nhiều HTX mạnh dạn đầu tư xây dựng hạ tầng, ứng dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến, tạo ra được sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đạt chất lượng và an toàn khá cao, có xu hướng phát triển hợp tác liên kết bền vững.

Tại tỉnh Lào Cai, sau 20 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 13, tỉnh Lào Cai đã đạt được nhiều kết quả nổi bật. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ khá cao: Giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt bình quân 7,7%/năm; giai đoạn 2016-2019 tăng trưởng đạt 9,9%/năm, năm 2020, do dịch bệnh Covid-19 tốc độ tăng trưởng đạt 6,31%; GRDP bình quân đầu người của tỉnh đến hết năm 2020 đạt 71,6 triệu đồng/người/năm. Số lượng HTX năm 2021 là 435 HTX (tăng 338 HTX so với năm 2001). Thu nhập bình quân đầu người của lao động trong HTX năm 2021 đạt 38 triệu đồng/năm (tăng 31,4 triệu đồng so với năm 2001). Doanh thu bình quân của HTX năm 2021 đạt 773 triệu đồng/năm; lãi bình quân HTX năm 2021 đạt 93 triệu đồng/năm. Đóng góp của khu vực HTX vào tổng sản phẩm của địa phương và nền kinh tế đạt 0,15% GRDP. Vai trò lớn nhất của khu vực HTX là đóng góp gián tiếp thông qua tác động tới kinh tế thành viên (chủ yếu khu vực kinh tế cá thể, hộ gia đình).

Đối với tỉnh Thái Nguyên, Nghị quyết số 13-NQ/TW đã được triển khai thực đối đầy đủ cả về nhận thức và quan điểm phát triển kinh tế tập thể, HTX, từng bước được khẳng định và thống nhất trong toàn hệ thống chính trị từ tỉnh đến cấp huyện, xã; vai trò của HTX đối với phát triển kinh tế hộ thành viên, kinh tế địa phương dần được khẳng định. Hoạt động khu vực kinh tế tập thể, HTX phát triển cả về số lượng, chất lượng, từng bước vượt qua tình trạng yếu kém kéo dài, có nhiều tín hiệu phát triển. Số lượng các HTX áp dụng khoa học công nghệ mới, hiện đại vào sản xuất, kinh doanh, tham gia vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao ngày càng nhiều, đặc biệt các HTX nông nghiệp đã hoạt động gắn với các sản phẩm chủ lực của tỉnh, thực hiện liên kết chuỗi, nhiều HTX liên kết với các siêu thị, doanh nghiệp để mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh. Số lượng HTX dự kiến tại thời điểm 31/12/2021 là 433 HTX (tăng 363 HTX so với thời điểm 31/12/2001). Trong đó số HTX thành lập mới 06 tháng đầu năm 2021 là 16 HTX; 04 HTX đã giải thể, chuyển đổi lĩnh vực khác.

Vân Khánh (tổng hợp)

Nguồn: VCA

Thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ trong các HTX nông nghiệp

Kinh tế chia sẻ là xu thế tất yếu nếu muốn phát triển HTX nông nghiệp theo chuỗi giá trị hàng hóa bền vững. Tuy vậy, quá trình ứng dụng kinh tế chia sẻ trong các HTX mới chỉ ở bước “sơ khai” và muốn đầu tư sản xuất theo hướng hiện đại, thì HTX còn nhiều việc cần phải làm.

Hội thảo “Vận dụng mô hình kinh tế chia sẻ vào hoạt động của HTX trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn” do Liên minh HTX Việt Nam tổ chức cho thấy, kinh tế chia sẻ (như điện toán đám mây, big data, IoT, robot tự động, thiết bị truy xuất nguồn gốc, sàn giao dịch điện tử….) sẽ giúp người dân, HTX tận dụng lợi thế của công nghệ số để phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp, đồng thời giúp HTX tiết kiệm chi phí, thời gian và nhân lực.

Khó khăn bủa vây

Mang lại những lợi ích thiết thực như vậy nhưng hiện nay, kinh tế chia sẻ vẫn chỉ được số ít HTX hiểu và ứng dụng thành công. Theo khảo sát của Viện phát triển kinh tế hợp tác (Liên minh HTX Việt Nam) trên 1.000 HTX nông nghiệp thực hiện đầu năm 2021 cho thấy, đa số cán bộ quản lý HTX chưa hiểu về kinh tế chia sẻ.

Khảo sát cho thấy, với 400 phiếu điều tra tại các HTX, có tới 104 phiếu trả lời chưa biết gì về kinh tế số (chiếm 26%), 203 phiếu trả lời chỉ biết và hiểu một ít về kinh tế số (chiếm 50,7%), 77 phiếu chọn đã hiểu về kinh tế chia sẻ (chiếm 19,3%), còn lại chỉ có 15 phiếu trả lời hiểu rõ về kinh tế chia sẻ (chiếm 3,8%).

a2-1599106395977516271668-9546-163524533

Ứng dụng kinh tế chia sẻ vẫn còn mới mẻ với các HTX nông nghiệp.

Lý giải điều này, các chuyên gia cho rằng rào cản lớn nhất là trình độ cán bộ quản lý HTX còn hạn chế, năng lực khai thác thông tin, mức độ sẵn sàng ứng dụng và tiếp nhận, đổi mới khoa học, kỹ thuật còn rất hạn chế.

Theo khảo sát của Bộ NN&PTNT, trong số 56.470 cán bộ HTX nông nghiệp chỉ có 11.675 cán bộ có chứng chỉ chuyên môn từ cao đẳng, đại học trở lên (chiếm 20,6%); 17.243 cán bộ có trình độ sơ cấp, trung cấp (chiếm 30,53%); 27.552 cán bộ chưa qua đào tạo (chiếm 48,79%).

Thực tế vẫn còn nhiều HTX nông nghiệp hoạt động dựa vào số cán bộ cao tuổi, trình độ chuyên môn thấp, quản lý chủ yếu bằng kinh nghiệm và uy tín cá nhân. Đây là một trong những rào cản đối với HTX khi ứng dụng mô hình kinh tế chia sẻ vào hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là những vấn đề liên quan đến công nghệ thông minh, công nghệ cao.

Bên cạnh yếu tố nhân lực, quy mô nhỏ lẻ cũng ảnh hưởng đến việc ứng dụng kinh tế chia sẻ của các HTX hiện nay. Theo nghiên cứu, bình quân 1 HTX có 280 thành viên nhưng chủ yếu số thành viên này từ các HTX nông nghiệp được thành lập trước khi có Luật HTX năm 2012. Số HTX được thành lập những năm gần đây thì thành viên bình quân chỉ khoảng 7-30 thành viên.

Cùng với đó, diện tích canh tác khiêm tốn cũng khó thúc đẩy ứng dụng kinh tế chia sẻ. Trong khi việc tích tụ ruộng đất quy mô lớn sẽ tạo thuận lợi cho đầu tư, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Theo Tổng cục thống kê, từ 2016-2020, số thửa đất sản xuất nông nghiệp bình quân của 1 hộ cũng chỉ tăng từ 2,5 thửa (năm 2016) lên 2,8 thửa (diện tích bình quân một thửa ruộng là 2.026,3m2). Thực tế tại các HTX, nhất là các HTX ở phía Bắc, diện tích sản xuất của người dân, HTX còn ít hơn nhiều bởi điều kiện địa hình đồi núi, địa phương chưa chú trọng đến dồn điền, đổi thửa.

Để ứng dụng kinh tế chia sẻ hiệu quả, ngoài việc mở rộng quy mô sản xuất, các HTX cần quản lý giao dịch bằng hệ thống điện tử, thanh toán bằng thẻ. Thế nhưng các HTX nông nghiệp hiện nay vẫn chưa làm được điều này. Theo báo cáo của Liên minh HTX Việt Nam, cuối năm 2020, cả nước có 1.292 HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (chiếm 5% tổng số HTX cả nước) và chỉ những HTX mới đang chú trọng giao dịch bằng hệ thống điện tử, thanh toán bằng thẻ nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường.

Thực hiện các giao dịch điện tử vừa giúp các HTX hạn chế việc phải ghi chép thủ công bằng sổ sách lại bảo đảm yếu tố chính xác, minh bạch, từ đó bảo đảm vấn đề quản lý thông tin sản xuất kinh doanh. Điều này cũng được quy định cụ thể trong Điều 9, Luật HTX 2012 là: “Các HTX phải đưa vào điều lệ việc minh bạch thông tin, cung cấp thông tin cho thành viên, kiểm soát minh bạch thông tin kiểm soát, kiểm toán…”. Nhưng thực tế, nhiều HTX chưa thực hiện tốt nội dung này.

Ông Hoàng Văn Long (Viện Phát triển kinh tế hợp tác) cho biết, khi ứng dụng mô hình kinh tế chia sẻ vào hoạt động của HTX các hoạt động như vay vốn, sử dụng tài nguyên, máy móc, thiết bị, thanh toán… đều làm thủ công thì rất dễ để xảy ra tình trạng trục lợi cá nhân, gây khó khăn cho HTX khi làm việc với ngân hàng, doanh nghiệp và đối tác nước ngoài.

Lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ

Thực tế, ứng dụng kinh tế chia sẻ đã thực hiện thành công ở một số HTX. Ông Bùi Văn Vũ, Giám đốc HTX sản xuất kinh doanh nông nghiệp an toàn Vũ Anh (Thái Bình) cho biết, hiện nay HTX đã đầu tư sản xuất rau màu theo mô hình công nghệ cao. Đặc biệt, nhờ sự phát triển của công nghệ, HTX đã ứng dụng phần mềm truy xuất nguồn gốc kết nối với máy tính để nâng cao chất lượng sản phẩm, giúp thành viên tự tin đưa sản phẩm ra thị trường.

Tuy nhiên theo ông Vũ, không phải HTX nào cũng có thể ứng dụng kinh tế chia sẻ vì ngoài những khó khăn nội tại, các HTX còn gặp rào cản từ các quy định pháp luật về vay vốn, tích tụ đất đai…

Chính vì vậy, để đưa kinh tế chia sẻ vào trong HTX nông nghiệp, ông Vũ cho rằng trước tiên cần tập trung hỗ trợ những HTX trẻ, có đầu tư, tự nguyện tham gia HTX. Sau khi các mô hình này thí điểm, ứng dụng hiệu quả có thể lan tỏa ra các mô hình khác vì đây là mô hình sản xuất mới, cần thời gian để các HTX thích ứng.

anhvinhhagiang-1536x1152-6927-1635245332

Việc liên kết với doanh nghiệp cũng được cho là giải pháp hiệu quả giúp HTX giải quyết những khó khăn trước mắt cũng như lâu dài.

Thực tế cho thấy, kinh tế chia sẻ khá tương đồng với mô hình HTX vì đều thực hiện theo nguyên tắc “mua chung, bán chung và cùng chia sẻ lợi ích”. Theo các chuyên gia, cũng giống như mô hình kinh tế chia sẻ Grab, chỉ cần người biết sử dụng dịch vụ hướng dẫn thì vẫn có nhiều người lớn tuổi có thể sử dụng được dịch vụ này. Điều quan trọng, tất cả các khái niệm, văn bản pháp luật đến ứng dụng về kinh tế chia sẻ cần đơn giản để phù hợp với nhận thức, điều kiện, hoàn cảnh của HTX. Bên cạnh đó, việc liên kết với doanh nghiệp cũng được cho là giải pháp hiệu quả giúp HTX giải quyết những khó khăn trước mắt cũng như lâu dài.

Chia sẻ về vấn đề này, PGS, TS Đỗ Minh Cương, Chủ nhiệm đề tài khoa học “Vận dụng mô hình kinh tế chia sẻ vào hoạt động của HTX trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn” cho biết, trước đây, quả vải của một số HTX ở Bắc Giang chưa đạt VietGAP chỉ bán 20.000 đồng kg, nhưng sau khi được doanh nghiệp hỗ trợ ứng dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc thông qua điện thoại thông minh thì quả vải đã bán được với giá 40.000 đồng/kg.

“Trong mối quan hệ này, HTX chỉ cần bỏ đất, công để trồng còn doanh nghiệp sẽ hỗ trợ về công nghệ. Đây là một cách làm hiệu quả, phù hợp giúp HTX phát triển được những thế mạnh nội lực trong ứng dụng kinh tế chia sẻ”, ông Cương nói.

Huyền Trang 

Để hợp tác xã là “điểm tựa” của nông dân

Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể (KTTT) và 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2012, số lượng HTX nông nghiệp trên cả nước không ngừng tăng nhanh cả về quy mô lẫn chất lượng. Tuy nhiên, trong thời gian tới, để HTX thật sự phát huy vai trò trong phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp, các chuyên gia kinh tế cho rằng cần nhanh chóng hoàn thiện, bổ sung chính sách, thực hiện cơ chế đồng bộ… giúp HTX có thêm những động lực để phát triển.

Sản xuất rau an toàn, hiệu quả kinh tế cao tại Hợp tác xã nông sản hữu cơ Lương Sơn (Hòa Bình). Ảnh: THU CÚC

Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể (KTTT) và 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2012, số lượng HTX nông nghiệp trên cả nước không ngừng tăng nhanh cả về quy mô lẫn chất lượng. Tuy nhiên, trong thời gian tới, để HTX thật sự phát huy vai trò trong phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp, các chuyên gia kinh tế cho rằng cần nhanh chóng hoàn thiện, bổ sung chính sách, thực hiện cơ chế đồng bộ… giúp HTX có thêm những động lực để phát triển.

Những thành tựu hợp tác xã 

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến nay cả nước có khoảng 18.327 HTX nông nghiệp và 79 liên hiệp HTX nông nghiệp. Như vậy, sau 20 năm, số lượng HTX nông nghiệp tăng 12.569 HTX; còn so với thời điểm Luật HTX năm 2012 có hiệu lực thì số lượng HTX nông nghiệp cả nước tăng khoảng 7.917 HTX. Không chỉ tăng về số lượng mà chất lượng và hiệu quả của các HTX nông nghiệp cũng có nhiều đổi mới. Tỷ lệ các HTX nông nghiệp được đánh giá xếp loại khá tốt đạt 60% (so với năm 2013 chỉ đạt 10%). Nhờ sự thay đổi đem đến những tín hiệu như vậy đã thu hút được người dân tham gia vào HTX, số lượng tăng dần theo từng năm. Đến hết năm 2021, cả nước có 3,23 triệu thành viên; tổng số lao động thường xuyên trong các HTX nông nghiệp khoảng 550.000 người.

Bên cạnh việc tăng nhanh về số lượng, các HTX cũng tập trung phát triển chất lượng hoạt động sản xuất bằng việc ứng dụng công nghệ cao. Tính đến nay, cả nước có 2.200 HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (chiếm 12% tổng số HTX nông nghiệp). Ghi nhận tại HTX Bưởi Da Xanh tỉnh Bến Tre, đơn vị đang sở hữu 101 ha bưởi da xanh với sản lượng trung bình 800 tấn/năm, đã áp dụng thành công thực hành nông nghiệp tốt và đạt chứng nhận VietGAP và GlobalGAP. Trong đó, có 37,7 ha đạt VietGAP và 14,7 ha đạt GlobalGAP. Đồng thời, HTX còn xây dựng và vận hành ổn định Website để giới thiệu và bán sản phẩm.

Nhờ những hoạt động sản xuất, kinh doanh sáng tạo, đến nay, tổng số vốn hoạt động của HTX nông nghiệp khoảng 29.425 tỷ đồng; thu nhập bình quân của lao động thường xuyên đạt 40,5 triệu đồng/năm (năm 2020). Bên cạnh việc phát huy nội lực của các HTX thì chính sách của Nhà nước trong những năm qua cũng góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy hoạt động của các HTX. Trong vòng 20 năm qua, kinh phí hỗ trợ cho các HTX đạt khoảng 8.180 tỷ đồng; bên cạnh đó, đã có 312.363 cán bộ quản lý và thành viên HTX được đào tạo, bồi dưỡng…

Gỡ “nút thắt” để phát triển

Mặc dù bước đầu đã có những thành công nhưng các HTX vẫn còn gặp không ít khó khăn trong sản xuất, hội nhập và phát triển. Theo Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN và PTNT) Lê Minh Hoan, khó khăn lớn nhất qua 5 năm hoạt động gần đây của HTX là nhân sự bộ phận kinh doanh chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là giám đốc điều hành dẫn đến nhiều chỉ tiêu, mục tiêu của HTX chưa đạt như mong muốn. Vì vậy, các HTX muốn phát triển, ngoài những chính sách hỗ trợ của Nhà nước cũng cần sự phát huy nội lực của bản thân. Thời gian tới, ngành nông nghiệp sẽ thu hút đầu tư công nghệ hạ tầng logistics để các HTX nâng cao năng lực. Bộ cũng chuẩn bị trình Chính phủ chương trình logistics cho ngành nông nghiệp để giải quyết việc đứt gãy chuỗi cung ứng khi xảy ra thiên tai, dịch bệnh.

Chia sẻ về thực tế bộ máy điều hành tại HTX Bưởi Da Xanh, ông Nguyễn Quốc Bảo, Chủ tịch HĐQT HTX cho biết, chỉ riêng chức danh giám đốc điều hành, gần 5 năm HTX đã thay đổi năm giám đốc. Do hầu hết giám đốc đều là những người trẻ, còn thiếu kinh nghiệm trong công tác quản lý HTX cho nên hạn chế trong điều hành, dẫn đến nhiều kế hoạch sản xuất không thể thực hiện. Chưa kể kinh nghiệm và kinh doanh mặt hàng nông sản của các giám đốc điều hành trẻ còn hạn chế dẫn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, năng lực cạnh tranh của HTX còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu cần có.

Theo Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn Lê Đức Thịnh, hiện tại bộ máy quản lý HTX nông nghiệp còn yếu và mỏng; chính sách hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp còn hạn chế; một số quy định về HTX chưa hoàn thiện… dẫn đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của HTX còn thấp. Khó khăn về nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có bộ máy điều hành sản xuất, kinh doanh không chỉ là khó khăn của HTX Bưởi Da Xanh tỉnh Bến Tre mà còn của hầu hết các HTX hiện nay. Chưa kể, việc các HTX chấp nhận thay đổi mang tính đột phá là “mua chung, bán chung”, dám ký hợp đồng bán hàng giá cố định trong năm còn thấp, dẫn đến hạn chế trong mở rộng thị trường, tăng vốn đầu tư hướng đến sự phát triển bền vững thấp.

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng, cần phải thu hút nông dân với những mảnh ruộng nhỏ lẻ vào HTX để hình thành những cánh đồng lớn, qua đó mới có thể sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ hiệu quả. Các chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến HTX chủ yếu là lồng ghép vào các Chương trình mục tiêu quốc gia mà chưa có chương trình riêng. Vì vậy, việc hoàn thiện khung khổ pháp lý, bổ sung cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX nông nghiệp tích tụ ruộng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp chính là bước đệm quan trọng để HTX, KTTT phát triển bền vững.

HƯNG SƠN/Báo Nhân dân

Thúc đẩy đổi mới sáng tạo – Hướng tới một nền nông nghiệp xanh

Mới đây, Bộ NNPTNT tổ chức hội nghị toàn thể PSAV với chủ đề: “Thúc đẩy đổi mới sáng tạo – Hướng tới một nền nông nghiệp xanh”.

Trên cơ sở sáng kiến “Tầm nhìn mới trong nông nghiệp” của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), mô hình PPP đã được thể chế hóa thành Đối tác phát triển nông nghiệp bền vững Việt Nam (gọi tắt là PSAV) đang triển khai 8 nhóm công tác PPP ngành hàng bao gồm: Cà phê, chè, rau quả, thủy sản, gạo, hồ tiêu, chăn nuôi và hóa chất nông nghiệp, với sự tham gia của 120 tổ chức, các công ty trong nước và quốc tế, hiệp hội ngành hàng, viện nghiên cứu, các tổ chức quốc tế và phi chính phủ.

Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ NNPTNT – Lê Minh Hoan cho biết, mặc dù chịu tác động của dịch Covid-19 và biến đổi khí hậu, thiên tai, nhưng nông nghiệp Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng dương ở mức 2,68% năm 2020 và 9 tháng năm 2021, nông nghiệp duy trì tăng trưởng 2,74%. Vai trò của ngành nông nghiệp càng đặc biệt quan trọng trong điều kiện bình thường mới cả về kinh tế, xã hội.

Hướng tới nền nông nghiệp xanh - Ảnh 1.

Nông dân thu hoạch rau VietGAP trên cánh đồng tại Yên Lạc (Vĩnh Phúc). Ảnh: Hải Đăng

Tuy nhiên, nông nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức như: Khả năng cạnh tranh của các hộ sản xuất quy mô nhỏ, còn hạn chế; tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và dịch bệnh. Đây là cơ sở để Bộ NNPTNT dự thảo Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào cuối năm 2021.

“Theo đó, chiến lược hướng đến mục tiêu cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; đồng thời xoay quanh ba trụ cột: “Nông nghiệp sinh thái”, “nông thôn hiện đại”, “nông dân thông minh”. Ngành nông nghiệp cũng xác định yêu cầu chuyển đổi từ “tư duy sản xuất” sang “tư duy kinh tế”, hướng tới những giá trị xanh được tạo nên từ “chuyển đổi xanh, tiêu dùng xanh, kinh tế xanh”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh. Bộ NNPTNT đánh giá việc triển khai 8 nhóm công tác PPP ngành hàng đã và đang mang lại kết quả tích cực, đáng khích lệ.

 

Nguồn: https://danviet.vn/thuc-day-doi-moi-sang-tao-huong-toi-mot-nen-nong-nghiep-xanh-20211010170624514.htm

Bộ trưởng NN&PTNT: Săn đón ‘đại bàng’ nhưng phải ‘lót ổ’ cho hợp tác xã, tổ hợp tác

Nhắc tới câu chuyện chúng ta có quan tâm “đại bàng” nhưng cũng đừng quên những “con chim sẻ”, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT cho rằng, săn đón “đại bàng” nhưng phải “lót ổ” cho hợp tác xã, tổ hợp tác. Chưa cần tháo gỡ thể chế từ cấp Trung ương, các địa phương có thể thông qua nguồn lực của mình để đầu tư vào khu vực hợp tác xã.

Đây là nhấn mạnh của Bộ trưởng Lê Minh Hoan tại Hội nghị Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2012 trong lĩnh vực nông nghiệp do Bộ NN&PTNT tổ chức sáng ngày 19/10.

Hoi-nghi-HTX-1376-1634611303.png

Hội nghị Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.

Theo ông Hoan, trong phục hồi kinh tế sau dịch cần nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trong nước, không bị lệ thuộc quá nhiều vào kinh tế nước ngoài.

Lấy ví dụ từ xây dựng nông thôn mới của Hàn Quốc, ông Hoan cho biết, chữ đầu tiên trên lá cờ xây dựng nông thôn mới của nước này là hợp tác, làm sao người nông dân sáng ngủ dậy có suy nghĩ trồng, nuôi con gì thì phải hợp tác với ai, làm gì để hợp tác? Không có sức mạnh riêng lẻ mà thắng được sức mạnh tập thể.

“Vừa rồi, tôi có nói chuyện với chuyên gia Trung Quốc, họ cũng phát triển kinh tế nông nghiệp ở nông thôn rất mạnh”, ông Hoan nói.

Hay vừa qua tại chuyến thăm châu Âu cùng Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho hay ở các nước phát triển phát triển rất mạnh khu vực HTX. Họ khuyên Việt Nam đừng quên lãng khu vực HTX.

Theo đó, Bộ trưởng NN&PTNT cho rằng, đừng nhìn vào mức đóng góp của HTX vào ngân sách nhà nước, bởi bản chất HTX không phải là doanh nghiệp. Mà cần nhìn HTX là một mô hình đa giá trị, có thể tác động tích cực tới đời sống kinh tế – xã hội khu vực nông thôn, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp.

“HTX không chỉ phát triển kinh tế đơn thuần mà còn kích hoạt tình yêu nông thôn của người dân. HTX nông nghiệp vẫn có thể làm du lịch, tạo động lực cho các em học sinh, sinh viên học chuyên ngành nông nghiệp để trở về đóng góp làng quê”, ông Hoan chia sẻ.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan: “Chúng ta không thể chậm trễ, lần lữa trong việc quan tâm đến HTX nông nghiệp. Chưa cần tháo gỡ thể chế từ cấp Trung ương, các địa phương có thể thông qua nguồn lực của mình để đầu tư vào HTX”.

Theo Bộ trưởng NN&PTNT, vừa qua, bà con từ thành phố trở về quê là quy luật tất yếu, nhưng rõ ràng khuấy động làng quê có nhiều sức sống để nông nghiệp phát triển tốt hơn. Vì vậy, Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, Bộ NN&PTNT đưa vào thêm một trong những nền tảng là phát triển kinh tế nông thôn, chứ không chỉ xây dựng cầu, đường; thông qua hình thức hợp tác làng nghề, câu lạc bộ khuyến nông, tổ hợp tác, HTX.

Trước vai trò của HTX, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT nhấn mạnh trách nhiệm của các Bộ, ngành Trung ương, địa phương là cần chăm lo cho HTX. Bộ NN&PTNT sẽ trình Chính phủ chương trình đầu tư hạ tầng logistics cho các vùng HTX, tổ hợp tác, hạn chế đứt gãy khi có rủi ro bên ngoài. Từ đó, bà con nông dân sẽ thấy lợi ích cả về đầu vào và đầu ra khi tham gia HTX, chứng minh nền nông nghiệp không còn bán thô mà tích hợp đa giá trị.

“Bản thân chuyển đổi số, đầu tư kết cấu hạ tầng, bảo hiểm nông nghiệp, đưa khoa học công nghệ cũng không thành công nếu không có HTX”, ông Hoan nói.

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT nhấn mạnh một lần nữa: “Ban đầu đừng nhìn HTX nông nghiệp ở lợi ích kinh tế mà cần nhìn rộng ra tác động của khu vực này đến xã hội, đa giá trị hơn. Chúng ta không thể chậm trễ, lần lữa trong việc quan tâm đến HTX nông nghiệp. Chưa cần tháo gỡ thể chế từ cấp Trung ương, các địa phương có thể thông qua nguồn lực của mình để đầu tư vào HTX. Sự hỗ trợ đồng bộ từ Trung ương tới địa phương cho khu vực kinh tế tập thể, HTX là chỗ dựa cho phát triển HTX trong giai đoạn tới.

Theo ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, ra đời cách đây 10 năm, 20 năm nhưng Nghị quyết 13 và Luật HTX năm 2012 đã đánh giá đúng tình hình, chỉ ra được yêu cầu, định hướng trong xây dựng phát triển kinh tế tập thể, HXT trong lĩnh vực nông nghiệp.

Trong thực tiễn, ngày càng xuất hiện nhiều và đa dạng các mô hình HTX hoạt động hiệu quả, trình độ cán bộ quản lý, HTX nông nghiệp được nâng cao rõ rệt, đội ngũ cán bộ quản lý được trẻ hóa. Số lượng, cơ cấu HTX nông nghiệp từ chỗ chiếm tỷ lệ nhỏ hơn trong tổng số HTX, hiện đã vươn lên đạt 13.350 HTX nông nghiệp trong tổng số 26.500 HTX toàn quốc, bằng 70%.

Tuy nhiên, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cũng cho rằng, quá trình tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 13 còn chậm, tại nhiều thời gian, thời điểm chưa quyết liệt. Tuy số lượng HTX thành lập mới tăng mạnh, nhưng số HTX hoạt động hiệu quả còn thấp; quy mô thành viên và doanh thu các HTX nông nghiệp còn thấp, thiếu bền vững; quy mô thành viên và doanh thu của các HTX nông nghiệp còn nhỏ bé.

Trước tình hình trên, Bộ NN&PTNT đề nghị Trung ương, Bộ Chính trị ban hành mới Nghị quyết về “Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể” với trọng tâm và mục tiêu quan trọng là xây dựng quan hệ sản xuất mới trong sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy đoàn kế, tương hỗ và phúc lợi xã hội.

Thy Lê

Nguồn: https://vnbusiness.vn/hop-tac-xa/bo-truong-nn-amp-ptnt-san-don-dai-bang-nhung-phai-lot-o-cho-hop-tac-xa-to-hop-tac-1081796.html

Sẽ có nghị định riêng về phát triển hợp tác xã nông nghiệp

20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2012 trong lĩnh vực nông nghiệp, hoạt động của khu vực kinh tế hợp tác đã có những chuyển biến vô cùng mạnh mẽ.

60% hợp tác xã được xếp loại khá, tốt

Báo cáo tại hội nghị tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012 trong lĩnh vực nông nghiệp, TS Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NNPTNT) cho biết, đến năm 2020, khu vực kinh tế tập thể, HTX nông nghiệp được đánh giá là đã có bản khắc phục hạn chế, yếu kém kéo dài và đang có nhiều tiềm năng, cơ hội để phát triển.

Tính đến ngày 31/12/2021, cả nước có khoảng 18.327 hợp tác xã (HTX) nông nghiệp và 79 liên hiệp HTX nông nghiệp.

Sẽ có nghị định riêng về phát triển hợp tác xã nông nghiệp - Ảnh 1.

TS Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NNPTNT) báo cáo tại hội nghị tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012 trong lĩnh vực nông nghiệp. Ảnh: K.N

“Từ năm 2013 đến nay, số lượng HTXNN tăng nhanh, trung bình mỗi năm tăng gần 800 HTX. Không chỉ tăng nhanh về số lượng, mà chất lượng và hiệu hoạt động của các HTXNN cũng đã được cải thiện. Tỷ lệ các HTX NN được đánh giá xếp loại khá, tốt đã tăng từ 10% (năm 2013) lên 33% (hết năm 2016) và trên 60% năm 2020” – ông Thịnh cho biết.

Cũng theo ông Thịnh, đến nay cả nước có 2.297 HTXNN đã thành lập doanh nghiệp trong HTX, 2.200 HTX ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số trong sản xuất, tương ứng bằng 13% và 12% tổng số HTXNN cả nước. Đặc biệt đã có trên 4.339 HTX nông nghiệp đảm nhận bao tiêu nông sản, bằng 24,5% tổng số HTX nông nghiệp; tỷ lệ này trước năm 2015 chỉ là 5-7%.

Đáng chú ý, các hoạt động dịch vụ của HTX đã góp làm tăng thu nhập nông nghiệp trung bình của hộ thành viên là 20%, trong tổng số trên 5.000 sản phẩm OCOP cả nước, có 39% số sản phẩm thuộc về các tổ hợp tác, HTX.

Tổng vốn hoạt động của các HTX nông nghiệp hiện nay khoảng 29.425 tỷ đồng, bình quân/HTX là 1,61 tỷ đồng (tăng khoảng 800 triệu đồng/HTX so với năm 2013).

Tuy nhiên, theo ông Thịnh, tuy số lượng HTX thành lập mới tăng mạnh, nhưng số HTX hoạt động có hiệu quả còn thấp, thiếu bền vững; quy mô thành viên và doanh thu của các HTX nông nghiệp còn nhỏ bé. Các dịch vụ sơ chế, chế biến, bảo quản, số lượng các HTX có khả năng liên kết hiệu quả với doanh nghiệp, chế biến và tiêu thụ nông sản cho thành viên HTX và nông dân cũng chưa nhiều, mới đạt 24% tổng số HTX.

“Tình trạng thành lập HTX không xuất phát từ nhu cầu của hộ nông dân mà để hoàn thành tiêu chí nông thôn mới hoặc để thụ hưởng chính sách hỗ trợ của nhà nước vẫn còn. Cơ chế chính sách ban hành nhiều nhưng chưa phù hợp với thực tế, thiếu nguồn lực thực hiện” – ông Thịnh nêu một thực tế.

Sẽ có nghị định riêng về hợp tác xã nông nghiệp - Ảnh 1.

Các thành viên Hợp tác xã thanh long xã Kiểng Phước, huyện Gò Công Đông, Tiền Giang cùng nhau trao đổi kinh nghiệm sản xuất. Ảnh: K.N

Tính đến ngày 31/12/2021, cả nước có khoảng 18.327 HTX nông nghiệp và 79 liên hiệp HTX nông nghiệp. Tỷ lệ các HTX nông nghiệp được đánh giá xếp loại khá, tốt đã tăng từ 10% (năm 2013) lên 33% (hết năm 2016) và trên 60% năm 2020.

Coi trọng chất lượng hợp tác xã hơn số lượng

Ông Nguyễn Ngọc Bảo – Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cho biết: “Có một thực tế, chi phí logistics trong ngành nông nghiệp vẫn rất cao, chiếm tới 20% giá thành; trong khi 85% nông sản của nông dân chỉ được phân phối qua thương lái, chỉ có 15% nông sản đi thẳng từ ruộng đến nhà máy chế biến. Do vậy, phải tổ chức sản xuất lại theo chuỗi, trong HTX mới có thể nâng cao sức cạnh tranh” – ông Bảo nói.

Sẽ “coi trọng chất lượng HTX hơn là số lượng”, Thứ trưởng Bộ NNPTNT Trần Thanh Nam đề nghị Trung ương, Bộ Chính trị ban hành mới nghị quyết về “tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể” mục tiêu xây dựng quan hệ sản xuất mới trong sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy đoàn kết, tương hỗ và phúc lợi xã hội.

Bộ NNPTNT cũng kiến nghị Chính phủ sắp tới phê duyệt nghị quyết về phát triển HTX trong lĩnh vực nông nghiệp, tiến tới ban hành Nghị định riêng về phát triển HTX nông nghiệp.

Tăng cường đầu tư cho hợp tác xã

Bộ trưởng Bộ NNNPTNT Lê Minh Hoan khẳng định, phát triển hợp tác xã sẽ tạo ra sức mạnh đa chiều. “Trong bối cảnh hiện nay, ngoài việc thu hút đầu tư nước ngoài thì cũng tăng cường sức mạnh nội tại. Cùng với sức mạnh của doanh nghiệp thì cũng cần chú ý đến kinh tế tập thể và hợp tác xã. Chúng ta quan tâm đến đại bàng nhưng cũng đừng quên những con chim sẻ” – Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh.

Từ thực tế đó, Bộ trưởng Lê Minh Hoan đề nghị các địa phương quan tâm thực sự đến sự phát triển của hợp tác xã, coi hợp tác xã là một phần của kinh tế nông thôn, là một phần không thể tách rời của kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn.

Bộ trưởng Bộ NNPTNT cho biết thêm, Bộ đang chuẩn bị trình Chính phủ chương trình logictics cho ngành nông nghiệp để hạn chế ảnh hưởng của việc đứt gãy chuỗi cung ứng qua những đại dịch, thiên tai, trong đó hợp tác xã sẽ là nhân tố quan trọng trong chuỗi cung ứng.

Theo báo Dân Việt

Nguồn: https://vca.org.vn/se-co-nghi-dinh-rieng-ve-phat-trien-hop-tac-xa-nong-nghiep-a23994.html

HTX nhập cuộc thương mại điện tử xuyên biên giới

Đại dịch Covid-19 đã làm thay đổi hành vi mua sắm của người tiêu dùng từ trực tiếp sang trực tuyến. Việc các HTX đẩy mạnh bán hàng online hay thực hiện bán hàng thông qua các nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới sẽ giúp hoạt động xúc tiến thương mại tốt hơn và mở rộng đầu ra nông sản với các thị trường tiềm năng.

Thuong-mai-dien-tu-8502-1634714559.jpg

Khu vực HTX đang đẩy mạnh bán hàng online, thực hiện bán hàng thông qua các nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới (Ảnh: Int)

Tại hội nghị tổng kết Chương trình kết nối cung – cầu tiêu thụ nông sản cho HTX, THT (Chương trình 503) cho thấy, chỉ trong một thời gian ngắn, các đơn vị trực thuộc Liên minh HTX Việt Nam đã hỗ trợ, kết nối tiêu thụ được 15.047,97 tấn (rau, củ, quả, trái cây, thủy hải sản, hàng tiêu dùng cho các HTX. Đây chính là kết quả mà hệ thống Liên minh HTX Việt Nam làm được sau khi đẩy mạnh hình thức bán hàng trực tuyến. Từ đây, nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới cũng nhận được sự quan tâm của nhiều HTX.

Tăng doanh thu nhờ nhập cuộc sớm

HTX nông nghiệp sản xuất và thương mại Sáu Nhung (Kon Tum) thời gian gần đây đã nắm bắt được vai trò của việc bán hàng qua các trang thương mại điện tử như Shopee, voso, Lazada… Gần đây nhất, HTX đã đưa sản phẩm chế biến từ cà phê, trái cây lên sàn Alibaba.com để tiếp cận khách hàng trong và ngoài nước.

Ông Nguyễn Văn Sáu, Giám đốc HTX cho biết, điều thuận lợi khi đưa sản phẩm lên sàn Alibaba.com là trang thương mại điện tử này đã dịch sang tiếng Việt nên HTX dễ nắm bắt thông tin, không phải tốn thêm chi phí thuê người dịch.

Cũng là HTX mạnh dạn đưa nông sản lên sàn Alibaba.com, HTX Dịch vụ Tổng hợp Kiến Thuận (Yên Bái) nhận thấy đây là kênh bán hàng ưu việt, thích hợp cho các HTX.

Ông Đỗ Tuấn Lương, Phó Giám đốc HTX Kiên Thuận, cho biết trước đây, 70% doanh thu của HTX là bán ở trong nước, phần còn lại mới đến từ xuất khẩu. Tuy nhiên, sau khi gia nhập Alibaba.com, sàn thương mại điện tử này đã giúp doanh thu xuất khẩu của HTX tăng lên đến 80%.

Đến nay, HTX đã có lượng khách hàng tương đối ổn định trên sàn Alibaba. Trong thời gian tới, HTX sẽ đẩy mạnh bán hàng qua nền tảng thương mại điện tử này để gia tăng lượng hàng xuất khẩu cũng như giúp nâng cao thu nhập thành viên.

Có thể thấy, bán hàng qua trang thương mại điện tử xuyên biên giới đang nhận được sự quan tâm của các HTX. Theo các chuyên gia, không chỉ các doanh nghiệp mà các HTX vẫn đang tìm đến sàn trực tuyến xuyên biên giới Alibaba. Nhất là HTX chuyên sản xuất và xuất các mặt hàng như thủ công mỹ nghệ, nông lâm thủy hải sản, may mặc và dệt may, nông sản…

Bán hàng qua các trang thương mại điện tử xuyên biên giới, giúp các HTX mở rộng thị trường nhanh chóng, từ đó nâng cao giá trị sản phẩm và lợi nhuận. Đặc biệt hiện nay, Liên minh HTX Việt Nam đang đẩy mạnh hỗ trợ phát triển các HTX theo chuỗi giá trị hàng hóa. Trong năm 2020, đã có 200 chuỗi giá trị hàng hóa được hỗ trợ xây dựng. Đây là nền tảng vững chắc giúp các HTX này đưa sản phẩm lên các sàn thương mại điện tử xuyên biên giới.

Theo Hiệp Hội Thương mại điện tử Việt Nam, có đến gần 50% doanh nghiệp hiện nay sẵn sàng mua hàng thông qua các trang thương mại điện tử xuyên quốc gia. Đặc biệt, đến nay, chỉ có 22% doanh nghiệp thực sự bán hàng và chỉ có 8% doanh nghiệp thực sự đầu tư bán hàng tại đây. Số còn lại chỉ tham gia mở gian hàng.

Điều này cho thấy, nếu biết cách nắm bắt, bán hàng qua các trang thương mại điện tử xuyên quốc gia chính là cơ hội tiềm năng cho các HTX. Và thị trường bán hàng thông qua các trang thương mại xuyên biên giới vẫn còn nhiều dư địa cho các HTX.

Hiện nay, để hỗ trợ các HTX, Liên minh HTX Việt Nam đã xây dựng gian bán hàng trên Alibaba.com. Gian bán hàng này đã bắt đầu đi vào hoạt động từ đầu tháng 10. Các sản phẩm trên gian hàng đa dạng từ hàng thủ công mỹ nghệ đến sản phẩm tươi là các đặc sản của địa phương do các HTX sản xuất.

Tuy nhiên, để bán hàng thành công trên các trang thương mại điện tử không hề dễ dàng vì đây là vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu và đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao.

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo, cho biết thông qua khảo sát HTX chuyển đổi số của Liên minh HTX Việt Nam cho thấy điều kiện cơ bản để tham gia các sàn thương mại điện tử xuyên biên giới là cán bộ, thành viên HTX phải sử dụng được các công cụ thông minh. Mô hình kinh doanh phải ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo chuỗi để vượt qua các hàng rào kỹ thuật của các đối tác trên thế giới và đặc biệt là có thể đáp ứng số lượng nông sản lớn mỗi lần xuất khẩu. HTX cũng cần phải đầu tư cho logistics để bảo đảm giá trị sản phẩm, đáp ứng nhu cầu mua hàng hóa của khách hàng. Bên cạnh đó, HTX cần phải có hạ tầng công nghệ thông tin, có trụ sở làm việc đầy đủ.

“Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có số ít HTX đáp ứng được những yêu cầu này”, Chủ tịch Nguyễn Ngọc Bảo cho biết.

Ông Nguyễn Công Thừa, Chủ tịch HĐQT HTX Anh Đào (Lâm Đồng) cho biết, các HTX sản xuất quy mô lớn nhỏ, không theo quy trình, thu hoạch theo mùa vụ nên khó làm việc với doanh nghiệp. Đây cũng là rào cản khi tham gia bán hàng trên các trang thương mại điện tử xuyên biên giới.

Gỡ rào cản, tăng cơ hội

Theo các chuyên gia, xuất khẩu nông sản qua kênh thương mại điện tử có nhiều lợi thế như tăng hiệu quả tiếp cận, tăng khả năng marketing đến khách hàng, giảm thời gian chuyển hàng và đặc biệt lợi nhuận có thể tăng gấp ba lần nếu so với xuất khẩu theo cách truyền thống. Tuy nhiên, cơ hội bao giờ cũng đi kèm thách thức.

Đó là những khó khăn trong vận chuyển hàng hoá, bảo quản hàng hoá, khâu thông quan hàng hóa, hiểu biết về thủ tục xuất nhập khẩu… Đây chính là những vấn đề mà các HTX cần phải tìm hiểu, nắm bắt, thực hành thành thạo.

Và để làm được điều này, đòi hỏi HTX phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, am hiểu về xuất nhập khẩu và công nghệ thông tin. Tuy nhiên đây cũng chính là khó khăn của các HTX hiện nay khi phần lớn cán bộ HTX trên 50 tuổi, ít tiếp xúc với công nghệ thông tin.

Để tận dụng lợi thế về bán hàng trên các trang thương mại điện tử, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng, trước mắt, cần tập trung vào làm việc với các địa phương xem các HTX đáp ứng được các yêu cầu về nhân lực, công nghệ thông tin, khả năng về chất lượng và số lượng hàng hóa, Liên minh HTX Việt Nam sẽ hỗ trợ đào tạo các HTX này một cách chuyên nghiệp, sau đó sẽ từng bước nhân rộng trên cả nước.

Ông Trường Sơn, Phó Tổng Giám đốc Saigon co.op, cho biết bán hàng trên Alibaba sẽ tạo sự đột phá cho HTX trong thời gian tới. Tuy nhiên ở đây mang tầm cỡ toàn cầu, chuyên nghiệp HTX cần có chiến lược rõ ràng (hiểu văn hóa các nước đối tác), có dữ liệu được số hóa (hình ảnh, tài liệu, video giới thiệu sản phẩm..), và có giải pháp tiếp cận khách hàng cụ thể.

Bên cạnh đó, HTX cần đăng ký nhãn hiệu, bao bì sản phẩm cần đầu tư bắt mắt đầy đủ thông tin. Có web site để người tiêu dùng thế giới có thể tìm hiểu thêm về HTX, sản phẩm.

Để hạn chế tính nhỏ lẻ, theo ông Hải, cần kết nối các HTX để trở thành các nhóm cùng kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, từ đó đáp ứng được nhu cầu của các đối tác trong và ngoài nước.

Huyền Trang

Chính phủ đặt mục tiêu GDP năm 2022 tăng 6-6,5%

Tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XV diễn ra tại Hà Nội sáng 20/10, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã trình bày Báo cáo kết quả phát triển kinh tế-xã hội năm 2021, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2022. Cổng TTĐT Chính phủ trân trọng giới thiệu toàn văn nội dung Báo cáo.

BÁO CÁO
KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN

KINH TẾ – XÃ HỘI NĂM 2021; DỰ KIẾN KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI NĂM 2022

 (Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính

trình bày tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XV)

_________

Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồng chí lão thành cách mạng!

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước!

Theo chương trình Kỳ họp, Chính phủ đã gửi đến Quốc hội 54 báo cáo và tờ trình về các lĩnh vực, trong đó có các báo cáo đánh giá đầy đủ, toàn diện về kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội (KTXH) năm 2021, dự kiến Kế hoạch phát triển KTXH năm 2022 và về công tác phòng, chống dịch COVID-19. Thay mặt Chính phủ, tôi xin báo cáo Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước những nội dung chủ yếu như sau:

I. TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ PHÁT TRIỂN KTXH NĂM 2021

Năm 2021 diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước; là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2021 – 2030 và các kế hoạch 5 năm 2021 – 2025 trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, thách thức mới gay gắt hơn. Do tiếp tục xuất hiện các đợt dịch COVID-19 với những biến chủng mới, kinh tế thế giới còn nhiều bất định và tăng trưởng không vững chắc; các nước trong khu vực Đông Nam Á bị ảnh hưởng nặng nề[1]. Trong nước, dịch COVID-19 bùng phát lần thứ tư ở nhiều địa phương với sự xuất hiện của biến chủng Delta có tốc độ lây lan rất nhanh, nguy hiểm hơn nhiều so với chủng gốc trước đây[2], lại xâm nhập sâu vào các trung tâm kinh tế, đô thị lớn… buộc chúng ta phải áp dụng nhiều biện pháp phòng, chống dịch chưa có tiền lệ, mạnh mẽ, quyết liệt hơn để thực hiện mục tiêu ưu tiên trước hết, trên hết là bảo vệ sức khỏe, tính mạng của Nhân dân; từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất kinh doanh, sinh kế và đời sống nhân dân.

Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương Đảng, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự kịp thời ban hành những quyết sách đặc thù phục vụ phòng, chống dịch, phát triển KTXH, bảo đảm an sinh xã hội và giám sát hiệu quả của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương và sự đồng tình, ủng hộ, chia sẻ, tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, rất đáng khích lệ trong toàn hệ thống và trên tất cả các lĩnh vực:

1. Tổ chức Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, kiện toàn nhân sự các chức danh lãnh đạo các cơ quan nhà nước

Trong điều kiện dịch COVID-19 diễn biến phức tạp tại một số địa phương, chúng ta đã chuẩn bị chu đáo và tổ chức rất thành công Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và kiện toàn nhân sự các chức danh lãnh đạo các cơ quan nhà nước, góp phần ổn định chính trị – xã hội, khẳng định sự đồng bộ, tính thống nhất của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ, tạo nền tảng vững chắc và điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

2. Về phòng, chống dịch COVID-19

Những tháng vừa qua công tác phòng, chống dịch COVID-19 là ưu tiên hàng đầu trong chỉ đạo, điều hành quyết liệt, mạnh mẽ của Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương; với tinh thần vừa có kế thừa và vừa có đổi mới vì chưa có tiền lệ nên phải bám sát yêu cầu thực tiễn; vừa làm vừa rút kinh nghiệm, bổ sung từng bước hoàn thiện các biện pháp phòng, chống dịch phù hợp với biến chủng mới lây lan nhanh, nguy hiểm, khó kiểm soát hơn theo phương châm 5K + vắc-xin + điều trị + công nghệ + đề cao ý thức của Nhân dân. Khi dịch bệnh đã nhiễm sâu tại các đô thị, vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, chúng ta đã nhanh chóng điều chỉnh tổ chức thực hiện theo cách tiếp cận toàn dân, lấy cấp xã là “pháo đài”, người dân là “chiến sỹ” và là trung tâm phục vụ, là chủ thể tham gia phòng, chống dịch; đưa dịch vụ y tế, an sinh xã hội đến cấp cơ sở để người dân tiếp cận kịp thời, hiệu quả hơn và bảo vệ an ninh, an toàn cho Nhân dân[3].

Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực, quyết tâm cao và phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các địa phương, đặc biệt là các lực lượng tuyến đầu chống dịch như y tế, quân đội, công an, các lực lượng cơ sở và sự đoàn kết, đồng tình ủng hộ, tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, công tác phòng, chống dịch ngày càng chuyển biến tích cực, hiệu quả hơn[4], nhất là sau khi nâng cấp, kiện toàn Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 và kịp thời điều động một lực lượng lớn chưa từng có, trong một thời gian rất ngắn với khoảng hơn 300 nghìn lượt cán bộ, chiến sỹ các lực lượng y tế, quân đội, công an từ Trung ương và các địa phương khác hỗ trợ cho các địa phương thực hiện giãn cách và tăng cường giãn cách xã hội[5]. Đồng thời, đẩy mạnh ngoại giao vắc-xin, thành lập Quỹ vắc-xin phòng chống COVID-19[6], tích cực đẩy mạnh nhập khẩu, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sản xuất vắc-xin trong nước và phát động chiến dịch tiêm chủng lớn nhất từ trước tới nay với tinh thần “vắc-xin tốt nhất là vắc-xin được tiêm sớm nhất”[7]. Kịp thời động viên, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phòng, chống dịch[8]. Duy trì phù hợp hoạt động sản xuất kinh doanh ở những nơi đủ điều kiện, an toàn dịch bệnh; hạn chế tối đa đứt gãy chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động.

Có thể nói, chúng ta đã nỗ lực hết sức mình trong điều kiện có thể vì nguồn lực, năng lực hệ thống y tế còn nhiều hạn chế, bất cập, nhất là ở cấp cơ sở[9], hầu hết các vật tư, sinh phẩm, thiết bị y tế, đặc biệt là thuốc, vắc-xin trong nước chưa sản xuất được, phải nhập khẩu trong điều kiện nguồn cung khan hiếm trên toàn cầu. Vì vậy, kết quả đạt được như Trung ương đã đánh giá: “Các chủ trương, chính sách, biện pháp được triển khai trong thời gian qua là đúng đắn, kịp thời và chỉ đạo, tổ chức thực hiện khẩn trương, quyết liệt, đạt được những kết quả quan trọng. Đến nay dịch bệnh cơ bản được kiểm soát trên phạm vi toàn quốc và đang thực hiện lộ trình thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh tại nhiều địa phương”[10].

Điều nổi bật là, trong những thời điểm khó khăn, thử thách gay gắt nhất của dịch bệnh, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy mạnh mẽ, đã xuất hiện rất nhiều tấm gương, nghĩa cử cao đẹp, lay động lòng người. Hàng chục nghìn y, bác sĩ, nhân viên y tế, những “chiến sỹ áo trắng”, phải xa gia đình trong thời gian dài, chấp nhận hy sinh, kiên cường bám trụ, bất chấp hiểm nguy, “chiến đấu” quên mình vì sức khỏe, tính mạng của người dân. Hàng trăm nghìn cán bộ, chiến sỹ quân đội, công an, Tổ COVID cộng đồng bám sát địa bàn, tận tâm, tận lực, không ngại gian khổ, khó khăn ngày đêm, hỗ trợ các địa phương và người dân. Nhiều người sau khi nhiễm và khỏi bệnh tự nguyện tham gia phòng, chống dịch. Trong số đó, có những người đã ra đi mãi mãi. Hệ thống chính trị các cấp, nhất là lực lượng chức năng tại cơ sở đã “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng” phục vụ phòng, chống dịch, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống cho người dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan Dân vận các cấp, các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể nhân dân, các hội quần chúng, đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, nhà báo, phóng viên, người dân, doanh nghiệp… trong và ngoài nước đã có nhiều sáng kiến, hành động cụ thể, thiết thực tham gia phòng, chống dịch[11] (về phòng, chống dịch COVID-19 có Báo cáo riêng).

Đảng, Nhà nước ghi nhận, đánh giá cao và trân trọng cảm ơn những nỗ lực, hỗ trợ, đóng góp hiệu quả, những nghĩa cử cao đẹp, tận tâm, tận lực hết mình của đồng bào, đồng chí, chiến sỹ và cộng đồng doanh nghiệp, sự giúp đỡ quý báu của đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế trong phòng, chống dịch; đồng thời chia sẻ, cảm thông sâu sắc với những tổn thất, mất mát về người, vật chất và tinh thần mà Nhân dân ta phải gánh chịu do đại dịch COVID-19 gây ra.

3. Về tình hình phát triển KTXH

Nhằm khắc phục những khó khăn do tác động nghiêm trọng của dịch COVID-19, Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương vừa phải quyết liệt triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Quốc hội, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các Nghị quyết, chương trình, kế hoạch hành động của Chính phủ; phối hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác trong chỉ đạo, điều hành; tập trung giải quyết khó khăn, tháo gỡ vướng mắc, vượt qua thách thức; nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã được Quốc hội giao.

Ước thực hiện cả năm dự kiến đạt và vượt 8/12 chỉ tiêu chủ yếu đề ra. Kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định; lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 9 tháng chỉ tăng bình quân 1,82%, cả năm ước tăng dưới mức Quốc hội giao[12]; các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm[13]. Thu NSNN 9 tháng đạt trên 80%, cả năm ước vượt dự toán[14], cơ bản bảo đảm nguồn lực cho công tác phòng, chống dịch bệnh và các nhiệm vụ cấp bách khác; bội chi NSNN trong phạm vi dự toán (4% GDP). Huy động vốn đầu tư toàn xã hội ước cả năm đạt khoảng 35% GDP[15]. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 9 tháng đạt trên 240 tỷ USD, cả năm ước tăng khoảng 10,7%. Mặt bằng lãi suất giảm; tỷ giá, thị trường ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại hối nhà nước tiếp tục được củng cố. Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia[16]; phấn đấu đến cuối năm có khoảng 68% số xã đạt chuẩn nông thôn mới[17]. Tăng trưởng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khá[18]; an ninh năng lượng được bảo đảm[19]. Tiếp tục triển khai nhiều dự án kết cấu hạ tầng quan trọng quốc gia[20].

Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, đột phá, góp phần tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh. Chính phủ tập trung hơn cho công tác xây dựng thể chế[21]; phối hợp ngày càng chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan của Quốc hội trong việc rà soát, sửa đổi, bổ sung kịp thời các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật đáp ứng yêu cầu thực tiễn phòng, chống dịch và phục hồi, phát triển KTXH.

Triển khai Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội[22], Chính phủ ban hành Nghị quyết số 86/NQ-CP về các giải pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19; báo cáo cấp có thẩm quyền và Ủy ban thường vụ Quốc hội để kịp thời triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh[23]; hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp[24]; trình cấp có thẩm quyền sớm triển khai miễn, giảm một số loại thuế, phí, lệ phí             để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh[25]; đồng thời chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách theo tinh thần vướng mắc ở cấp, ngành nào thì cấp, ngành đó chủ động sửa đổi, hoàn thiện để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn, sớm ổn định đời sống và khôi phục, phát triển kinh tế – xã hội[26]

Các hoạt động văn hóa, xã hội được tổ chức theo hình thức phù hợp với tình hình dịch bệnh, nhất là tăng cường các hoạt động trực tuyến. Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, chăm lo đời sống người có công[27], đối tượng chính sách, bảo trợ xã hội, giảm nghèo được đẩy mạnh. Công tác an sinh xã hội, hỗ trợ người dân, người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh được triển khai tích cực, hiệu quả. Các chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, người cao tuổi, trẻ em, gia đình, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ tiếp tục được quan tâm; thể thao thành tích cao đạt một số kết quả ấn tượng[28].

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân tiếp tục được quan tâm; đẩy mạnh kết nối liên thông nền tảng hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh trực tuyến[29]. Khuyến khích nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và sản xuất vắc-xin, thuốc, sinh phẩm trong nước[30]. Tổ chức tốt các kỳ thi tốt nghiệp, tuyển sinh cao đẳng, đại học; khai giảng năm học mới, dạy và học trực tiếp, trực tuyến linh hoạt, phù hợp với tình hình dịch bệnh; tích cực triển khai Chương trình “Sóng và máy tính cho em” [31]. Các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số được thúc đẩy mạnh mẽ trên các lĩnh vực[32].

Công tác quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu được thường xuyên chỉ đạo. Tích cực tổng kết Nghị quyết của Trung ương về đất đai và Nghị quyết của Bộ Chính trị về khoáng sản[33]; tháo gỡ một số bất cập trong quy định về quản lý đất đai, tài nguyên, môi trường[34]. Đang trình các cấp có thẩm quyền kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2021 – 2025[35]. Hoàn thành các chỉ tiêu bảo vệ môi trường theo kế hoạch đề ra[36].

Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính tiếp tục được đẩy mạnh. Hoàn thiện, báo cáo cấp có thẩm quyền về việc phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước và cơ chế tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Tiếp tục rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy bên trong của các bộ, ngành, địa phương gắn với tinh giản biên chế. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính; kiểm tra, thanh tra các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực và dư luận quan tâm. Công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng được thực hiện nghiêm theo đúng tinh thần chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực[37]. Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được chú trọng; tỷ lệ giải quyết các vụ việc tố cáo đạt 88,3%, vượt mục tiêu đề ra (85%)[38].

Quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Xử lý linh hoạt, phù hợp, hiệu quả các tình huống phức tạp trên biển và tuyến biên giới. Tăng cường các biện pháp bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tập trung trấn áp các loại tội phạm[39]; bảo đảm an ninh, an toàn các sự kiện quan trọng của đất nước[40]. Kịp thời đấu tranh, phản bác các quan điểm, tư tưởng sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động

Công tác đối ngoại được triển khai đồng bộ, toàn diện, linh hoạt, hiệu quả, phù hợp với tình hình, nhất là ngoại giao vắc-xin[41], ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế; công tác thông tin đối ngoại, bảo hộ công dân được quan tâm chỉ đạo; qua đó góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển và tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế[42].

Thông tin, truyền thông ngày càng đổi mới tích cực, kịp thời, góp phần tạo đồng thuận xã hội, nhất là trong phòng, chống dịch bệnh và phục hồi, phát triển KTXH. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, cơ quan Dân vận và các tổ chức chính trị – xã hội tăng cường tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và niềm tin trong Nhân dân; kịp thời ngăn chặn thông tin xấu, độc, xử lý nghiêm các vi phạm.

4. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

Trong các báo cáo về KTXH và về công tác phòng, chống dịch COVID-19 gửi đến các vị đại biểu Quốc hội đã nêu cụ thể những tồn tại, hạn chế trên các lĩnh vực; trong đó có những nội dung chủ yếu sau đây:

Công tác phòng, chống dịch có lúc, có nơi còn bị động, lúng túng trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, nhất là giai đoạn đầu khi dịch bùng phát mạnh ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam do biến chủng Delta lây lan nhanh, hết sức nguy hiểm, khó lường, khó kiểm soát; vẫn còn thiếu nhất quán trong triển khai các biện pháp phòng, chống dịch, nhất là trong thực hiện yêu cầu giãn cách xã hội tại cơ sở; việc thực hiện các quy định về đi lại của người dân, lưu thông hàng hóa thiếu thống nhất giữa các địa phương, gây ách tắc, phiền hà cục bộ cho Nhân dân. Tiếp cận nguồn vắc-xin so với một số nước còn chậm, gặp nhiều khó khăn do khan hiếm trên toàn cầu; việc mua vắc-xin chịu nhiều rủi ro, phải chấp nhận các điều kiện áp đặt      của nhà cung cấp. Năng lực y tế, nhất là ở cấp cơ sở còn nhiều hạn chế, bất cập[43], dẫn đến quá tải ở một số địa phương và số ca tử vong cao trong giai đoạn đầu. Việc triển khai công tác cứu trợ, bảo đảm an sinh xã hội tại một số địa bàn, nhất là khu cách ly, phong tỏa còn khó khăn do số lượng người cần được hỗ trợ lên tới hàng chục triệu người[44].

Dự kiến có 4/12 chỉ tiêu KTXH chủ yếu chưa đạt mục tiêu đề ra[45]. Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm đạt 5,64%, tuy nhiên quý III giảm 6,17% do ảnh hưởng nghiêm trọng của đợt dịch bùng phát lần thứ tư nên tính chung 9 tháng GDP chỉ tăng 1,42%. Kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn rủi ro; sức ép lạm phát tăng; xuất khẩu giảm tốc, tiếp tục xu hướng nhập siêu; xuất nhập khẩu phụ thuộc vào khu vực FDI và một số ít thị trường. Xuất hiện tình trạng đứt gãy một số chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động. Thị trường tài chính, bất động sản, chứng khoán có thời điểm tăng nóng. Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công chậm, nhất là vốn ODA và vay ưu đãi[46]. Khu vực dịch vụ gặp khó khăn nghiêm trọng, đặc biệt là du lịch, lưu trú, ăn uống, vận tải hành khách[47]. Lao động, việc làm bị ảnh hưởng nặng nề[48].

Tình hình sản xuất kinh doanh và đời sống một bộ phận người dân gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong các khu cách ly, phong tỏa, các địa bàn tâm dịch. Sức chống chịu của nền kinh tế suy giảm mạnh; số lượng người lao động tạm ngừng việc, thiếu, mất việc làm gia tăng. Đời sống tinh thần, tâm lý của người dân bị ảnh hưởng, nhất là tại các địa bàn thực hiện giãn cách xã hội và tăng cường giãn cách xã hội kéo dài. Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, tạm ngừng hoạt động hoặc chờ giải thể tăng và ở mức khá cao (mặc dù thấp hơn số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động[49]). Tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro[50].

Cơ cấu giữa các ngành, lĩnh vực và nội ngành, lĩnh vực chuyển dịch chậm[51]; khu vực công nghiệp, dịch vụ gặp nhiều khó khăn. Cơ cấu lại 3 lĩnh vực trọng tâm còn hạn chế[52]. Cổ phần hóa DNNN chưa đạt tiến độ. Việc xử lý các ngân hàng yếu kém và các dự án, doanh nghiệp kém hiệu quả còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ; đang đề xuất cấp có thẩm quyền xin cơ chế xử lý 2 ngân hàng thương mại yếu kém và 5 dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả. Công tác lập quy hoạch theo Luật Quy hoạch còn chậm.

Chất lượng nguồn nhân lực chưa chuyển biến rõ nét. Dạy và học trực tuyến còn nhiều bất cập. Công tác bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng và đấu tranh, phòng, chống tội phạm còn nhiều thách thức cần phải vượt qua. Quốc phòng, an ninh còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp…

Những tồn tại, hạn chế, yếu kém nêu trên có nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân khách quan cơ bản là do dịch COVID-19 diễn biến nhanh, phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng và gây hậu quả nặng nề, khiến 23 địa phương phải thực hiện giãn cách, tăng cường giãn cách xã hội trong thời gian dài, trong đó có các trung tâm kinh tế, vùng động lực tăng trưởng[53]. Đồng thời, còn có các yếu tố từ bên ngoài như: chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, đứt gãy; giá nguyên, nhiên, vật liệu, cước, phí vận chuyển hàng hóa quốc tế tăng cao; việc huy động chuyên gia, nhà quản lý, nhà thầu nước ngoài, máy móc, thiết bị nhập khẩu bị gián đoạn. Dòng vốn đầu tư toàn cầu phục hồi chậm đã ảnh hưởng đến tình hình thu hút FDI[54].

Nguyên nhân chủ quan chủ yếu là do công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện có lúc, có nơi còn lơ là, mất cảnh giác, chủ quan, bị động, lúng túng hoặc cứng nhắc, chưa đồng bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo xử lý các tình huống cụ thể, đột xuất; còn hạn chế, bất cập trong phân tích, dự báo tình hình để xây dựng và triển khai thực hiện các kế hoạch, phương án vừa phòng, chống dịch, vừa phát triển KTXH; năng lực một bộ phận cán bộ còn hạn chế; việc thực hiện các biện pháp, chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương về phòng, chống dịch, lưu thông hàng hóa, tổ chức sản xuất an toàn có lúc, có nơi chưa kịp thời, chưa nghiêm, áp dụng thiếu nhất quán, chưa linh hoạt. Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương chưa thật sự chặt chẽ, hiệu quả chưa cao; chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các cơ chế, chính sách đáp ứng yêu cầu thực tiễn diễn biến nhanh, khó lường; thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, người dân vẫn còn phiền hà…

5Một số kinh nghiệm

Qua thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thời gian qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm bước đầu sau đây:

(1) Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, cần phải nhất quán, xuyên suốt, quyết liệt, kịp thời từ Trung ương đến cơ sở; bám sát yêu cầu thực tiễn, kịp thời có kế hoạch, phương án, biện pháp phù hợp để vừa phòng, chống dịch bệnh hiệu quả, vừa phục hồi và phát triển KTXH; tuyệt đối không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác và cũng không hoang mang, mất bình tĩnh, nóng vội trong phòng, chống dịch.

(2) Đẩy mạnh rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi có ý nghĩa quan trọng, không chỉ tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, mà còn tạo động lực thúc đẩy phát triển; coi trọng sơ kết, đánh giá thực tiễn, kịp thời rút kinh nghiệm và nâng cao năng lực phân tích, dự báo, cảnh báo, nắm chắc tình hình, kịp thời ứng phó, xử lý hiệu quả những vấn đề phát sinh.

(3) Để nắm bắt và giải quyết kịp thời, có hiệu quả các vướng mắc, yêu cầu cấp bách của thực tiễn, đặc biệt là các tình huống diễn biến nhanh trong phòng, chống dịch và phát triển KTXH đòi hỏi phải nâng cao năng lực của hệ thống chính trị và năng lực quản lý xã hội của Nhà nước, nhất là ở cấp cơ sở.

(4) Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và tinh thần tự lực, tự cường; huy động hiệu quả mọi nguồn lực, tận dụng cơ hội, tăng cường hợp tác và tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế là rất quan trọng, tạo sức mạnh tổng hợp trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

(5) Phải tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao tính chủ động, tự chủ, ý thức, tinh thần trách nhiệm và trang bị kiến thức, kỹ năng của Nhân dân trong phòng, chống dịch bệnh và phát triển KTXH, đồng thời góp phần củng cố niềm tin trong Nhân dân, tạo sức mạnh đồng thuận xã hội.

6. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu những tháng cuối năm 2021

Tập trung nỗ lực cao nhất cho phòng, chống dịch COVID-19; khẩn trương xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án, kịch bản cụ thể, sát hợp với tình hình thực tế; quyết liệt hành động, triển khai thực hiện hiệu quả, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đề ra theo phương châm nhạy bén, linh hoạt, sáng tạo, bình tĩnh, kịp thời với mục tiêu xuyên suốt là bảo vệ sức khỏe, tính mạng của Nhân dân là trên hết, trước hết; thúc đẩy viện trợ, nhập khẩu vắc-xin, nghiên cứu chuyển giao công nghệ và sản xuất trong nước, đẩy nhanh tiến độ bao phủ tiêm vắc-xin, chuẩn bị thuốc điều trị cần thiết, nâng cao năng lực y tế, nhất là công tác điều trị và ở cơ sở; có lộ trình thích ứng an toàn, linh hoạt, phấn đấu kiểm soát hiệu quả dịch bệnh trên phạm vi toàn quốc để tập trung khắc phục hậu quả của dịch bệnh và khôi phục, phát triển KTXH.

Khẩn trương hoàn thiện, báo cáo cấp có thẩm quyền Chiến lược tổng thể về phòng, chống dịch và Chương trình phục hồi và phát triển KTXH. Rà soát, tháo gỡ ngay khó khăn, vướng mắc về thể chế; giảm thiểu các thủ tục và chi phí sản xuất kinh doanh. Điều chỉnh linh hoạt chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác để giữ vững ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu; kiểm soát chặt chẽ giá cả, thị trường. Tập trung ưu tiên triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ thiết thực, hiệu quả cho người dân, doanh nghiệp; nhanh chóng khôi phục thị trường lao động do bị tác động trực tiếp bởi dịch COVID-19; thúc đẩy phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh; bảo đảm cung ứng, lưu thông hàng hoá thông suốt. Khơi thông mọi nguồn lực cho phòng, chống dịch và phát triển KTXH, bảo đảm an sinh xã hội. Sớm đưa học sinh trở lại trường học an toàn. Củng cố, giữ vững quốc phòng, an ninh; tiếp tục triển khai mạnh mẽ ngoại giao vắc-xin, ngoại giao kinh tế, ngoại giao chính trị; đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin truyền thông.

II. DỰ KIẾN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KTXH NĂM 2022

Năm 2022 là năm có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng thực hiện các mục tiêu của Kế hoạch 5 năm 2021 – 2025. Dự báo tình hình quốc tế, trong nước có những thuận lợi, cơ hội và khó khăn, thách thức đan xen, nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn. Dịch COVID-19 có thể xuất hiện phức tạp, nguy hiểm hơn. Tăng trưởng kinh tế thế giới không đồng đều, chưa vững chắc và thấp hơn năm 2021; rủi ro tiếp tục gia tăng. Trong nước, kinh nghiệm, năng lực, khả năng ứng phó dịch bệnh tiếp tục được nâng lên, nhưng sức chống chịu và nguồn lực của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân giảm sút. Nguy cơ chậm phục hồi kinh tế, suy giảm tăng trưởng vẫn còn tiềm ẩn nếu không kiểm soát được dịch bệnh một cách cơ bản để mở cửa trở lại nền kinh tế; rủi ro lạm phát gia tăng; thiên tai, biến đổi khí hậu là nguy cơ luôn tiềm ẩn.

1. Quan điểm chỉ đạo, điều hành

(1) Bám sát quan điểm phát triển theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc và hệ thống chính trị; nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào nội lực là chính, ngoại lực là cần thiết, quan trọng.

(2) Đặt sức khỏe, tính mạng của người dân lên trên hết, trước hết; từng bước thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19. Phòng, chống dịch là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; tiêm chủng, xét nghiệm, cách ly, điều trị là đặc biệt quan trọng; đề cao ý thức, trách nhiệm, tính tự chủ của người dân, doanh nghiệp trong phòng, chống dịch.

(3) Vừa phòng, chống dịch hiệu quả, vừa phục hồi và phát triển KTXH, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, khôi phục và ổn định thị trường lao động, nâng cao thu nhập, đời sống cho người dân; bảo đảm sự đồng bộ, nhất quán, thông suốt, trách nhiệm trong chỉ đạo điều hành của các cấp, các ngành, các địa phương.

(4) Điều chỉnh chính sách tiền tệ, tài khóa phù hợp, khả thi, linh hoạt,           thích ứng với bối cảnh dịch bệnh có thể kéo dài; tập trung thực hiện 3 trọng tâm: khôi phục, thúc đẩy sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh xuất khẩu; đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công và huy động nguồn lực xã hội, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhất là hạ tầng chiến lược.

(5) Bảo đảm ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tiếp tục củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh và nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế.

2. Mục tiêu và các chỉ tiêu chủ yếu

(1) Mục tiêu: Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh COVID-19, bảo vệ tối đa sức khỏe, tính mạng của Nhân dân, cùng với tập trung tận dụng tốt cơ hội để thúc đẩy phục hồi và phát triển KTXH với các giải pháp tổng thể kích thích nền kinh tế, hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, không để suy giảm các động lực tăng trưởng trong dài hạn. Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao tính tự chủ, khả năng chống chịu, thích ứng của nền kinh tế. Tiếp tục ưu tiên rà soát, hoàn thiện về thể chế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là một số công trình trọng điểm quốc gia; đầu tư nâng cao chất lượng nhân lực gắn với phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Chú trọng phát triển văn hóa, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống của người dân, nhất là người có công, người nghèo, người yếu thế. Quản lý chặt chẽ đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, khơi thông các nguồn lực cho phát triển. Đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại; làm tốt công tác thông tin, truyền thông, tạo đồng thuận xã hội[55].

(2) Chỉ tiêu chủ yếu: gồm 16 chỉ tiêu chủ yếu về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường[56]; trong đó tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt khoảng 6 – 6,5%; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%; bội chi NSNN so với GDP khoảng 4%.

3. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu

(1) Tập trung thực hiện linh hoạt, hiệu quả mục tiêu vừa phòng, chống dịch COVID-19, vừa phục hồi, phát triển KTXH. Triển khai hiệu quả Chiến lược tổng thể về phòng, chống dịch, có lộ trình thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19, coi đây là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của các cấp, các ngành ngay từ đầu năm 2022. Các địa phương vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn nhưng không trái với định hướng của Trung ương. Tiếp tục mở rộng độ bao phủ, tăng tốc chiến dịch tiêm vắc-xin cho người dân; nâng cao năng lực hệ thống y tế, nhất là điều trị và ở cơ sở;          tổng kết thực tiễn, bổ sung, hoàn thiện và thực hiện hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch. Xây dựng kế hoạch nhập khẩu, sản xuất, tiêm chủng vắc-xin một cách khoa học, an toàn, hiệu quả, hợp lý cho năm 2022 và những năm tiếp theo, trong đó có vắc-xin cho trẻ em. Hoàn thiện thể chế, quy định về phòng, chống dịch, nhất là thúc đẩy xã hội hóa, kết hợp công tư, bảo đảm đủ nguồn lực để thực hiện.

Tập trung thực hiện hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển KTXH[57] phù hợp, khả thi. Điều chỉnh linh hoạt, phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách khác để vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn; vừa hỗ trợ phục hồi sản xuất kinh doanh, thúc đẩy xuất khẩu, tiêu dùng nội địa, đẩy mạnh đầu tư, có cơ chế huy động thêm nguồn lực cho phục hồi, phát triển KTXH. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính – ngân sách nhà nước (NSNN), phấn đấu tăng thu[58], triệt để tiết kiệm chi. Huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội và ưu tiên bố trí nguồn NSNN hợp lý cho các nhiệm vụ trọng tâm. Bảo đảm đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế và an toàn hệ thống tín dụng, ngân hàng[59].

(2) Ưu tiên công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế và tổ chức thi hành pháp luật, tập trung tháo gỡ khó khăn, cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Triển khai thực hiện tốt Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022. Nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Khẩn trương xây dựng, ban hành những văn bản pháp luật liên quan đến phòng, chống dịch và phục hồi, phát triển KTXH[60]. Không ngừng nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật; chú trọng giải quyết các tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế và hoàn thiện thể chế  phát triển đồng bộ, ổn định, bền vững các loại thị trường[61]. Từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách cho hoạt động của các mô hình kinh doanh, các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số; tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số quốc gia[62]

(3) Thực hiện thực chất, hiệu quả hơn cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát triển kinh tế số, xã hội số. Làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, phân bổ và đẩy mạnh giải ngân vốn hiệu quả đầu tư công. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án quan trọng quốc gia, các chương trình mục tiêu quốc gia. Thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư ngoài nhà nước gắn với tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, ách tắc trong đầu tư, kinh doanh. Phê duyệt các đề án cơ cấu lại tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Quyết liệt, hiệu quả hơn nữa trong cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu và các dự án, doanh nghiệp kém hiệu quả. Tiếp tục cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công hiệu quả, bảo đảm khả năng trả nợ. Đẩy mạnh cơ cấu lại gắn với phát triển các ngành, lĩnh vực[63] theo hướng khai thác hiệu quả không gian tăng trưởng mới và thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn theo lộ trình phù hợp. Có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Phục hồi các chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động bị đứt gãy, tổ chức kết nối và hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước tham gia. Cơ cấu lại, phát triển hiệu quả một số ngành, lĩnh vực quan trọng bị tác động trực tiếp bởi dịch COVID-19[64].

(4) Đẩy mạnh xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, nhất là về giao thông, năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, thích ứng với biến đổi khí hậu… Lấy đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt đầu tư xã hội, nhất là phương thức hợp tác đối tác công tư. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án kết cấu hạ tầng trọng điểm, hạ tầng thương mại và hạ tầng văn hóa, xã hội; tăng cường kết nối liên vùng, khu vực, quốc tế, nhất là các công trình hạ tầng giao thông quan trọng, trong đó có đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông, cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ[65]; dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, các tuyến đường sắt đô thị… Phát triển hệ thống hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; các dự án chống sạt lở do biến đổi khí hậu.

(5) Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Phê duyệt, triển khai Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo; đưa học sinh trở lại trường học an toàn với dịch bệnh; đa dạng hóa hình thức tổ chức dạy và học trực tuyến trong bối cảnh dịch bệnh còn diễn biến phức tạp. Triển khai các chiến lược, quy hoạch giáo dục nghề nghiệp. Chú trọng đào tạo nghề cho thanh niên, người chưa có việc làm. Thúc đẩy nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và thu hút nguồn nhân lực cho khoa học công nghệ[66]; phát triển phong trào đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo trên phạm vi toàn quốc, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể[67].

(6) Thúc đẩy phát triển liên kết vùng, khu kinh tế và phát triển đô thị, kinh tế đô thị, đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các quy hoạch. Phấn đấu cơ bản hoàn thành việc phê duyệt các quy hoạch trong năm 2022[68]. Đề xuất các cơ chế, chính sách phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, các vùng động lực tăng trưởng mới. Triển khai các kế hoạch, đề án về phát triển đô thị ứng phó với biến đổi khí hậu; lấy đô thị làm động lực phát triển vùng; phấn đấu tỷ lệ đô thị hóa đạt 41,5 – 42%.

(7) Gắn kết hài hoà, hợp lý giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội; phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam, chú trọng thực hiện chính sách người có công, bảo trợ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội. Triển khai hiệu quả Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030. Tổ chức phù hợp các hoạt động văn hóa, xã hội, nghệ thuật, bảo đảm an toàn dịch bệnh. Thực hiện tốt các chính sách người có công, bảo trợ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tạo việc làm, giảm nghèo đa chiều, bền vững; gia tăng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, nhất là bảo hiểm tự nguyện[69]. Tiếp tục rà soát, ban hành và triển khai đồng bộ, kịp thời, hiệu quả các chính sách hỗ trợ người lao động; triển khai các giải pháp phục hồi và ổn định thị trường lao động. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Đẩy mạnh triển khai kịp thời, hiệu quả 3 Chương trình mục tiêu quốc gia[70]. Chú trọng phát triển nhà ở cho công nhân, xây dựng thiết chế văn hoá ở các khu công nghiệp. Quan tâm hơn nữa công tác dân tộc, tôn giáo, vì sự tiến bộ của phụ nữ, gia đình, thanh thiếu niên, chăm sóc người cao tuổi, trẻ em, nhất là trẻ em bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19[71].

(8) Quản lý, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Hoàn thiện, trình Quốc hội xem xét, ban hành Luật đất đai (sửa đổi). Huy động và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực từ đất đai, tài nguyên; chú trọng bảo vệ, phát triển các loại rừng. Khai thác tiềm năng, lợi thế phát triển các ngành kinh tế biển. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu[72]. Sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên nước, bảo đảm an ninh nguồn nước. Chú trọng các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, thực hiện các cam kết theo Thỏa thuận Pa-ri. Phát triển công nghiệp xử lý, tái chế chất thải. Huy động nguồn lực, xây dựng cơ chế, chính sách thực hiện hiệu quả Nghị quyết              số 120/NQ-CP về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long[73].

(9) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực kiến tạo phát triển; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính đi đôi với tạo dựng môi trường đổi mới sáng tạo; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước[74], đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Triển khai thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 – 2030. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, đề cao trách nhiệm người đứng đầu; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm sai phạm. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện v

Phóng sự ảnh: Chúc mừng Ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 và Trao giải Cuộc thi ảnh “Duyên dáng Áo dài Liên minh Hợp tác xã Việt Nam”

Nhân dịp kỉ niệm ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10, Công đoàn Liên minh Hợp tác xã Việt Nam long trọng tổ chức kỷ niệm 91 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 20/10/1930 – 20/10/2021.

Tham dự buổi lễ kỉ niệm có đồng chí Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Bí thư Đảng ủy, Phó chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Thường trực, đại diện Văn phòng, Công đoàn, Đoàn Thanh niên cùng toàn thể các chị em là cán bộ, viên chức khối văn phòng và các Ban tham mưu, đơn vị trực thuộc.

Cũng nhân dịp này, Công đoàn Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tổ chức Lễ trao giải cuộc thi “Duyên dáng áo dài Liên minh Hợp tác xã Việt Nam” do Công đoàn Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Ban nữ công, Đoàn thanh niên phát động.

Một số hình ảnh tại buổi Lễ:

Đồng chí Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tặng lẵng hoa Chúc mừng ngày Phụ nữ Việt Nam cho các chị em là cán bộ, viên chức khối văn phòng và các Ban tham mưu, đơn vị trực thuộc.

Đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Bí thư Đảng ủy, Phó chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam phát biểu chúc mừng ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10

Quang cảnh buổi Lễ kỷ niệm

Đồng chí Phùng Khánh Toản, Chủ tịch công đoàn Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phát biểu tại buổi Lễ

Đồng chí Nguyễn Duy Việt, Bí thư Đoàn thanh niên Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đọc quyêt định trao giải cho các cá nhân, tập thể đạt giải cuộc thi ảnh “Duyên dáng Áo dài Liên minh Hợp tác xã Việt Nam”

Đồng chí Phùng Khánh Toản, Chủ tịch Công đoàn Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trao giải cho các cá nhân, tập thể đạt giải do Ban giám khảo bình chọn

Phó chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Nguyễn Văn Thịnh và Lê Văn Nghị trao giải cho các cá nhân, tập thể đạt giải Bình chọn trên fanpage Liên minh Hợp tác xã Việt Nam

Đồng chí Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cùng đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Phó chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trao giải Đặc biệt của cuộc thi cho 1 cá nhân và 1 tập thể

 

Chị em phụ nữ cơ quan Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chụp ảnh lưu niệm cùng các đồng chí Thường trực, Lãnh đạo các Ban, đơn vị trực thuộc

Lê Huy

Gần hàng trăm ngàn tấn nông sản được kết nối tiêu thụ giúp thành viên hợp tác xã vượt qua khó khăn dịch Covid-19

Sáng ngày 20/10, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tổ chức Hội nghị sơ kết đánh giá kết quả triển khai Chương trình 503, đồng chí Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chủ trì Hội nghị.

Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả triển khai Chương trình kết nối cung – cầu, tiêu thụ hàng hoá do hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất theo chuỗi cung ứng; đặc biệt là lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm thiết yếu cho các địa phương thực hiện giãn cách xã hội (gọi tắt là Chương trình 503) trong thời gian qua; đưa ra giải pháp đẩy mạnh thực hiện Chương trình trong thời gian tới.

Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tại Hội nghị

Ông Vũ Quang Phong, Giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư cho biết, Chương trình 503 đã hướng dẫn 63/63 đầu mối của Liên minh Hợp tác xã tỉnh, thành phố đã đăng ký tài khoản trên Cổng thông tin. Hỗ trợ Hướng dẫn 63/63 đầu mối Liên minh Hợp tác xã tỉnh, thành phố đã đăng thông tin với tổng số 1.035 sản phẩm, 2.044 lượt đăng (1.904 đăng tin bán, 129 đăng tin mua, 11 đăng tin logistics), có 1.010 thành viên (Liên minh Hợp tác xã tỉnh, thành phố, HTX, THT, DN) đã đăng ký tài khoản. 63/63 Liên minh Hợp tác xã tỉnh, thành phố đã đăng ký tài khoản trên.

Cùng với đó, các HTX, THT cũng tích cực tham gia vào Chương trình 503. Các đơn vị trực thuộc Liên minh Hợp tác xã Việt Nam như Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư, Trung tâm Phát triển thương mại và đầu tư hỗ trợ, kết nối tiêu thụ 62.645,97 tấn (rau, củ, quả, trái cây, thuỷ hải sản, hàng tiêu dùng,…; trong đó Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư kết nối 27.404,97 tấn, Trung tâm phát triển thương mại và đầu tư kết nối 28.756 tấn rau củ quả, thuỷ hải sản gia cầm, 1.263.300 quả trứng, 775 tấn gạo) cho HTX, THT.

Ông Nguyễn Mạnh Cường, Bí thư Đảng uỷ, Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tại Hội nghị

Có 30 Liên minh Hợp tác xã các tỉnh, thành phố (Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Ninh Bình, Lào Cai, Yên Bái, Hoà Bình, Cao Bằng, Bắc Giang, Lâm Đồng, Nghệ An, Thanh Hoá, Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Khánh Hoà, Gia Lai, Kom Tum, Đắk Nông, Bạc Liêu, Đồng Tháp, An Giang, Trà Vinh, Bình Thuận, Hậu Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Bình Phước, Bình Dương, Long An, Tây Ninh) đã hỗ trợ kết nối tiêu thụ được 99.359,27 tấn thực phẩm rau, củ, quả, trái cây, gạo, thuỷ sản,…, 682.539 quả trứng gà, vịt; 75.518 combo rau, củ, quả, trái cây và 16.620 lít dầu ăn các loại, 314.440 hộp trà cao an xoa, cà gai leo, nấm linh chi, túi lọc măng tây, cà phê pha sẵn, tinh dầu,… các loại.

Ông Vũ Quang Phong – Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư

Đồng thời, Liên hiệp HTX thương mại thành phố Hồ Chí Minh đã hỗ trợ tiêu thụ được 5.710 tấn, trong đó số lượng nông sản thu mua phân phối tại thành phố Hồ Chí Minh là 3.281 tấn; tại thành phố Hà Nội là 503 tấn, các tỉnh thành khác là 1.926 tấn.

Ông Nguyễn Mạnh Cường, Bí thư Đảng đoàn, Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, thành viên Ban chỉ đạo, Tổ trưởng Tổ công tác điều hành Chương trình, chỉ đạo thực hiện các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam về Chương trình 503, đánh giá cả hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã thực sự vào cuộc và rất chủ động, tích cực thực hiện Chương trình 503 nhanh, kịp thời, có kết quả cụ thể (thành lập Tổ công tác 503, cử cán bộ làm đầu mối, cập nhật thông tin sản phẩm của HTX, THT, chủ động triển khai các hoạt động kết nối tiêu thụ tại địa phương.

“Không chỉ HTX Sáu Nhung (Kon Tum) mà rất nhiều HTX trồng cà phê trên địa bàn tỉnh Kon Tum hiện nay đều khó khăn về đầu ra cho nông sản vì các nhà hàng, khách sạn, cửa hàng đóng cửa; chi phí vận chuyển tăng cao. Thông qua việc tham gia các Hội nghị tập huấn, vận hành, quản trị Cổng thông tin kết nối cung – cầu đã giúp cho đầu ra của các HTX dễ dàng hơn”, Ông Nguyễn Tri Sáu – Giám đốc HTX Sáu Nhung cho biết.

Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho biết cổng thông tin lmhtxvnmart trong thời gian vừa qua đã chủ động quảng bá, cung cấp thông tin sản phẩm cho các đối tác trong nước, quảng bá thông tin HTX và sản phẩm của HTX tới các đối tác nước ngoài (Nga, Anh, Hà Lan, Trung Quốc, Úc, Đức,…). Ông Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng sự hưởng ứng, quan tâm của các HTX, THT trong việc chủ động công nghệ, chuyển đổi số sản xuất, nâng cao chất lượng, đa dạng sản phẩm,… đáp ứng yêu cầu của thị trường; HTX đã dần làm quen, tường bước tiếp cận với thương mại số thông qua Cổng kết nối cung – cầu, phù hợp với xu thế phát triển, đặc biệt trong tình hình khó khăn hiện năy do dịch Covid-19.

Đại diện HTX Nam Sơn cho biết, đứng trước những khó khăn do đại dịch Covid-19, thông qua Chương trình 503, HTX đã tiêu thụ được 1.002 tấn rau củ quả.

Bên cạnh việc tiếp tục tăng cường tổ chức các hoạt động kết nối giữa HTX, THT với các đơn vị liên quan…, người đứng đầu Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nhấn mạnh trong thời gian tới tiếp tục nâng cấp Cổng thông tin, với thiết kế giao diện đẹp và hiện đại hơn, bổ sung các mục video, hình ảnh; tạo diễn đàn trao đổi, trò chuyện cho các đơn vị cung cấp và tiêu thụ; xây dựng mục quản lý các tài khoản phân quyền có hệ thống và dễ sử dụng cho người dùng.

Cũng tại Hội nghị, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã tặng bằng khen cho 12 tập thể đã hoàn thành xuất sắc chương trình kết nối cung – cầu, tiêu thụ hàng hoà chủ lực do hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất theo chuỗi cung ứng.

Quang Trung – Quỳnh Trang
Ảnh: Lê Huy