Sáng ngày 6/12, Ban Kinh tế Trung ương tổ chức Diễn đàn Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội bền vững thời kỳ hậu COVID-19 và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong kỷ nguyên số.
Theo ông Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, từ tháng 12/2019 đến nay, dịch bệnh COVID-19 diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường đang làm thay đổi sâu sắc mọi mặt về kinh tế – xã hội thế giới.
Kinh tế toàn cầu năm 2020 suy thoái sâu, GDP giảm 3,1%, thu nhập bình quân giảm 6%, việc làm năm 2021 giảm 100 triệu và dự báo năm 2022 giảm khoảng 26 triệu lao động. Sự xuất hiện của biến thể mới Omicron nguy cơ làm tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2022 giảm từ 0,2 – 0,4 điểm %.
Ông Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương.
Việt Nam cũng đang chịu tác động mạnh mẽ của dịch COVID-19 đến các hoạt động kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân, ảnh hưởng lâu dài đến cả cung và cầu. Lần đầu tiên tăng trưởng quý III/2021 giảm sâu (- 6,17%), đây là mức giảm sâu nhất kể từ khi Việt Nam tính và công bố GDP quý đến nay, ước tính GDP của Việt Nam năm 2021 chỉ ước đạt 2-2,5%.
Đồng thời, ông Tuấn Anh cho biết quá trình phục hồi kinh tế – xã hội sau dịch COVID- 19 và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng Công nghiệp 4.0 đang gặp phải những trở ngại lớn. Điển hình như mô hình tăng trưởng chưa dựa nhiều trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm; tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp; vẫn còn phụ thuộc lớn vào bên ngoài; chưa quan tâm đúng mức đến chuỗi giá trị và cung ứng trong nước nhằm nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
“Thực tiễn 35 năm qua tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn về công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải tập trung giải quyết để đạt được các mục tiêu đến năm 2025. Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, phấn đấu là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao”, ông Tuấn Anh cho biết.
Hiện nay, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn biến rất nhanh, đột phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu, làm thay đổi căn bản tư duy về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghệ sản xuất kỹ thuật số tiên tiến có thể thúc đẩy phát triển bao trùm và bền vững trong tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Trưởng Ban Kinh tế Trung ương nhấn mạnh yêu cầu cấp bách đặt ra là phải xác định rõ triết lý phát triển, mô hình và chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với bối cảnh và yêu cầu phát triển mới của giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Trong khi đó, ông Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Bộ TT&TT, cho rằng nói đến kinh tế là nói đến sản xuất, trao đổi, tiêu dùng. Nói đến kinh tế số là sản xuất số, trao đổi số và tiêu dùng số. Muốn phát triển kinh tế số thì việc đầu tiên là cần có thể chế số, đóng vai trò kiến tạo, phát triển.
Theo đó, Bộ trưởng Bộ TT&TT dẫn ví dụ cần xây dựng thể chế cho chữ kỹ số, thanh toán số… Bên cạnh đó, người đứng đầu Ngành TT&TT cho rằng kinh tế số cũng cần hạ tầng số, doanh nghiệp công nghệ số, thị trường số, công dân số và xã hội số.
“Cái mới bao giờ cũng có nguy cơ mới như đảm bảo an toàn thông tin, bảo vệ sự thịnh vượng của quốc gia trên không gian mạng. Muốn quản lý, thúc đẩy được thì phải đo lường đánh giá được rủi ro. Từ năm 2022, Bộ sẽ thực hiện đánh giá hiệu quả phát triển kinh tế số, chuyển đổi số”, ông Hùng cho hay.
Đất hữu cơ là nhân mạch chính để tạo ra rau, quả hữu cơ. Nhờ đó rau, quả hữu cơ mới chứa các hàm lượng dinh dưỡng tuyệt vời mà con người muốn thưởng thức.
Trên thị trường hiện nay, rau, quả hữu cơ đang có giá cao hơn rất nhiều so với thực phẩm thông thường, thậm chí gấp hai, gấp ba lần. Tuy nhiên, xu hướng và nhu cầu lựa chọn thực phẩm hữu cơ của xã hội vẫn ngày càng tăng cao. Bởi vì lý do gì? Khi mà rau quả hữu cơ chưa chắc đã ngon hơn các loại rau quả khác.
Giá trị đặc biệt của rau, quả hữu cơ
Rau, quả hữu cơ là những loại hoa màu được trồng theo phương pháp tự nhiên, không có sự tác động bên ngoài của con người đến việc sinh trưởng của chúng.
Điểm chung của trồng rau, quả hữu cơ là luôn hướng đến việc thúc đẩy cân bằng sinh thái, đa dạng và bảo tồn đa dạng sinh học, đáp ứng các tiêu chí: Không phân bón hóa học; không chất diệt cỏ; không thuốc trừ sâu độc hại; không chất biến đổi gen; không chất kích thích sinh trưởng.
Điều này có nghĩa là rau, quả hữu cơ phải được trồng trong môi trường hoàn toàn tự nhiên. Để đáp ứng tiêu chí này, đòi hỏi một quy trình trồng trọt và chăm sóc phức tạp, yêu cầu cao. Đây là yếu tố khiến chúng trở thành “món quà đắt đỏ” của tự nhiên.
Nhưng thật ra rau, quả hữu cơ chưa chắc đã hấp dẫn và ngon hơn rau, quả thường. Vì được trồng tự nhiên nên rau, quả hữu cơ khá nhỏ nhắn, màu sắc nhạt, không quá bắt mắt.
Song chúng thắng ở giá trị dinh dưỡng và hương vị tươi mới. Rau, quả hữu cơ có chỉ số dinh dưỡng cao hơn nhiều so với rau, quả thông thường, giàu hàm lượng vitamin C, sắt, magie, phốt pho và một số chất chống oxy hóa có tác dụng chống bệnh ung thư.
Đặc biệt điều quan trọng khiến rau, quả hữu trở thành xu hướng và nhu cầu tất yếu hiện nay là mức độ sạch sẽ, an toàn cho sức khỏe.
Theo Eat This, Not That, một nghiên cứu mới được xem xét từ Nhóm Công tác Môi trường Hoa Kỳ (EWG) đã phân tích 80.000 loại thực phẩm, phát hiện ra rằng các sản phẩm chế biến hữu cơ chứa ít thành phần ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe hơn so với thực phẩm chế biến không hữu cơ.
Trồng rau, quả hữu cơ phải bắt đầu từ đất
Đất hữu cơ cho cây hữu cơ. Theo tiêu chuẩn của hiệp hội nông nghiệp thì rau, quả hữu cơ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nguồn nước, nguồn giống, không phân bón hay thuốc trừ sâu, nguồn đất và hàm lượng dinh dưỡng. Nhưng để trồng rau, quả hữu cơ thì trước hết phải là đất hữu cơ.
Muốn có rau, quả hữu cơ, trước hết phải xây dựng được nền móng cơ bản là đất hữu cơ. Ảnh: NNVN.
Nguồn đất hữu cơ là một nơi dồi dào vi sinh vật, màu mỡ để trồng các loại cây, kể cả rau, quả hữu cơ khó trồng.
Hiện có nhiều loại rau được trồng theo phương pháp thủy canh với hệ thống tưới nhỏ giọt cũng được gọi là rau hữu cơ. Nhưng với quan niệm của những người nông dân theo hệ đất thì thủy canh hữu cơ là một điều không thể và hoàn toàn không đạt chuẩn.
Làm sao chỉ với chút xơ dừa và bón nguồn thức ăn vào nước tưới đã tạo ra được rau quả hữu cơ? Đối với người tiêu dùng là bạn, sẽ có cái nhìn về vấn đề này như thế nào?
Giá trị dinh dưỡng của nguồn đất mẹ
Trong nguồn đất mẹ hữu cơ có một hệ thống vi sinh đất phát triển rất đa dạng. Các động vật trong đất và vi khuẩn cùng tồn tại, kết hợp với nhau tạo nên những mối quan hệ cộng sinh với cây trồng. Mỗi loại đều có một tác dụng khác nhau đối với đất, tạo ra sự đa dạng nhưng cân bằng và duy trì được thành phần dinh dưỡng trong đất.
Đất hữu cơ là nhân mạch chính để tạo ra rau, quả hữu cơ. Nhờ đó rau, quả hữu cơ mới chứa các hàm lượng dinh dưỡng tuyệt vời mà con người muốn thưởng thức.
Ở mỗi vùng đất riêng biệt, kết hợp giữa yếu tố thổ nhưỡng, nguồn nước và khí hậu mà các thành phần vi lượng trong đất sẽ khác nhau, tạo nên sự đặc trưng cho sản phẩm. Điển hình như các loại sản phẩm quý giá như đông trùng hạ thảo chỉ có tự nhiên ở Tây Tạng, hay sâm Cao Ly, sâm Ngọc Linh.
Bạn có thể đem sâm Cao Ly trồng ở Ngọc Linh, với điều kiện khí hậu như nhau, nhưng chắc chắn sẽ không thể đạt kết quả tương tự. Bởi vì thành phần sâm Cao Ly bây giờ đã bị thay đổi do thành phần đất thay đổi. Dù chỉ là một thành phần nhỏ vi lượng thay đổi cũng quyết định được sự đặc biệt của sản phẩm.
Sâm Ngọc Linh đặc biệt ở chỗ nó được trồng ở chính vùng đất rừng tự nhiên, hữu cơ phù hợp nhất. Ảnh: NNVN.
Môi trường đất tự nhiên tạo nên những mối cộng sinh hữu cơ tuyệt vời
Cây có thể phát triển tốt hay không là nhờ có rễ cây. Tuy nhiên, rễ cây lại có khả năng hấp thụ hạn chế và thường không đi tới được những nơi chứa chất dinh dưỡng.
Rau quả nhờ được trồng ở vùng đất hữu cơ, hoàn toàn có thể phát triển tự nhiên với đầy đủ thành phần dưỡng chất mà cây cần. Bởi vì trong đất hữu cơ có những loại vi khuẩn chuyên biệt và nấm mốc chỉ hợp tác với rễ cây tạo nên những mối quan hệ cộng sinh tuyệt vời.
Vi khuẩn rhizobacteria
Mối quan hệ cộng sinh đầu tiên phải kể đến là vi khuẩn rhizobacteria. Vi khuẩn này được hình thành nhờ vào rễ cây họ đậu, là một nơi trú ngụ tuyệt vời cho chúng. Và ngược lại, chúng chuyển hóa nitơ thể khí thành chất dinh dưỡng mà cây có thể hấp thụ được. Nhờ chất phosphate, nó giải phóng chuyển hóa các loại chất dinh dưỡng không hòa tan để cây có thể hấp thụ dễ dàng các khoáng chất.
Vi khuẩn này tồn tại xung quanh rễ cây và hình thành các khuẩn lạc hay còn gọi là các nốt sần ở rễ cây và được nông dân quen gọi là vi khuẩn cố định đạm. Nhờ hình thành xung quanh rễ cây, nó còn có chức năng tạo màng bọc bảo vệ rễ cây, ngăn chặn sự tấn công từ các yếu tố gây bệnh bên ngoài.
Lạc và các cây họ đậu có tác dụng rất lớn trong việc cải tạo đất. Ảnh: Đào Thanh.
Nấm rễ mycorrhiza
Ngoài vi khuẩn rhizobacteria, trong đất còn có một mối quan hệ cộng sinh khác là nấm rễ mycorrhiza. Đây là một loại nấm rễ sinh trưởng tự nhiên trong đất. Tuy rằng hiện nay nó chỉ còn được tìm thấy trong một số ít đất nông nghiệp. Nhưng loại nấm rễ này lại có tác dụng vô cùng quan trọng đối với sự sinh trưởng và phát triển của cây.
Nấm rễ nhờ vào các sợi nấm tơ mảnh có thể dễ dàng xuyên qua các tầng xốp trong lớp đất, đi sâu dưới lòng đất và hình thành một mạng lưới nấm rễ khổng lồ vững chắc. Những sợi nấm này sẽ vận chuyển các chất dinh dưỡng và nước có trong đất đến cho cây hấp thụ.
Nấm rễ càng phát triển tốt, sự hợp tác càng thành công sẽ giúp cây trồng nâng cao sức đề kháng đối với các loại sâu bệnh và phát triển tốt. Nhờ hệ thống nấm rễ tồn tại bao quanh rễ cây, làm cho mầm bệnh không thể tồn tại, đồng thời làm giảm không gian sinh trưởng của cỏ dại.
Để củng cố mối quan hệ hai chiều, cây thực hiện quang hợp sẽ cung cấp một phần glucozơ cho nấm rễ. Và đương nhiên nó cũng chỉ là một phần chất dinh dưỡng không đáng kể so với những gì cây thu được nhờ nấm rễ.
Hãy bắt đầu từ cải tạo đất hữu cơ
Có thể thấy được tầm quan trọng của đất hữu cơ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, hiện nay thật sự còn bao nhiêu vùng đất được xem là hữu cơ?
Sự lạm dụng sử dụng phân bón tổng hợp và thuốc BVTV đã làm cho đất trở nên nghèo dinh dưỡng và khô cằn. Nhờ nguồn đất hữu cơ mà các cây trồng được bảo vệ bởi các vi khuẩn và nấm mốc. Nhưng phân bón tổng hợp đã làm mất đi sự cân bằng sinh học trong đất, làm biến mất các loại vi khuẩn và nấm mốc bảo vệ cho cây.
Đây cũng chính là nguyên nhân trực tiếp làm xấu đất và là tiền đề khiến chúng ta phải sử dụng thuốc BVTV sau này. Và tất nhiên, đất đã không còn là đất hữu cơ, rau cũng không còn sạch.
Không phải chỉ một, hai tháng hay một, hai năm là đã có thể cải tạo thành đất hữu cơ. Mà đó là cả một quá trình lâu dài và xuyên suốt để có thể đưa những mảnh đất nông nghiệp cằn cỗi, sỏi đá trở về trạng thái ban đầu.
Xây dựng nông nghiệp hữu cơ
Nông nghiệp hữu cơ chính là giải pháp lớn để hướng tới nền sản xuất nông nghiệp sạch. Mục đích của nông nghiệp hữu cơ là tối đa hóa sức khỏe, tối ưu năng suất của các cộng đồng độc lập về đời sống đất đai, cây trồng, vật nuôi và con người.
Hãy trồng 1 mảnh vườn rau, quả hữu cơ để có nhiều loại thực phẩm an toàn hơn cho sức khỏe sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Cũng như có một môi trường tự nhiên, trong lành hơn. Sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm hồn luôn cần được nuôi dưỡng.
Phân trùn quế là loại phân bón sinh học an toàn và dinh dưỡng nhất hiện nay. Ảnh: NNVN.
Trên những mảnh đất nông nghiệp, thực hiện quy hoạch thành vườn cây lâu năm, vừa để giữ đất, kết hợp trồng cây rau màu và cây họ đậu vừa cải tạo đất, vừa có thể nâng cao giá trị trên đất.
Phương thức để cải tạo đất cũng là một quá trình thủ công và thuần tự nhiên theo hai phương pháp:
Trồng cây đậu lạc
Ai làm nông nghiệp cũng biết cách truyền thống và hiệu quả nhất là cải tạo đất bằng cách trồng các loại cây họ đậu, đặc biệt là cây đậu lạc. Trồng đậu lạc có tác dụng giữ đất, giúp che phủ đất tốt và giàu dinh dưỡng.
Bởi vì có nhiều vi khuẩn nốt sần tồn tại xung quanh rễ cây giúp cố định nitơ từ không khí, từ đó tạo ra đạm sinh học cho đất. Nhờ sự phát triển của rễ cây, làm cho đất tơi xốp và tăng độ dinh dưỡng của đất.
Sử dụng phân trùn quế
Theo nghiên cứu một loại phân bón sinh học an toàn và dinh dưỡng nhất hiện nay cũng được sử dụng để cải tạo đất là phân trùn quế.
Đây được xem là phân bón hữu cơ tốt cho cây trồng. Phân trùn quế ngoài chứa hàm lượng dinh dưỡng cao, còn là một môi trường tốt để vi sinh vật đất phát triển. Nhờ đó làm gia tăng hệ sinh học đất, hồi sinh lại đất nghèo dinh dưỡng và chuyển hóa khoáng chất cho cây trồng dễ hấp thụ.
Cây khỏe nhờ đất khỏe
Việc cải tạo đất cũng chỉ là một phần nhỏ trong các giải pháp. Để trồng rau, quả hữu cơ thì nên giải quyết tận gốc nguyên nhân làm đất xấu. Hãy chăm sóc đất trước khi đất chăm sóc lại cây cho chúng ta.
Hãy ngừng sử dụng phân bón và thuốc BVTV, hãy để cho đất và cây có thể tự do phát triển.
Hệ sinh học đất lành mạnh, đất sẽ khỏe. Đất khỏe cây sẽ khỏe. Và nếu cây khỏe mạnh, chúng có thể ngăn chặn hầu hết các bệnh thực vật tấn công chúng. Đất khỏe sẽ tạo ra nguồn thực phẩm hữu cơ. Đất khỏe chính là nguồn nhân mạch tốt nhất, đáng tin cậy nhất để trồng rau hữu cơ. Bởi vì chúng biết cây cần gì để cung cấp và hấp thụ cho cây.
Sáng ngày 2/12, cơ quan Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tổ chức “Hội nghị đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Thường trực tháng 11/2021 và triển khai nhiệm vụ tháng 12/2021”. Hội nghị được tổ chức dưới hình thức trực tuyến. Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chủ trì Hội nghị.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, ông Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chia sẻ, tiếp tục diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, tháng 11/2021, trong điều kiện thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả theo chủ trương của Chính phủ, thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Liên minh HTX Việt Nam, Thông báo kết luận số 784/TB-LMHTXVN ngày 9/11/2021, hệ thống Liên minh HTX Việt Nam đã tổ chức triển khai có hiệu quả, kịp thời các giải pháp về phát triển kinh tế tập thể, HTX và hoạt động. Bên cạnh đó, tiếp tục xác định công tác tư vấn, hỗ trợ và xúc tiến thương mại, cung ứng dịch vụ cho thành viên là nhiệm vụ trọng tâm.
Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo tại Hội nghị
Theo báo cáo tại Hội nghị, công tác điều hành của Thường vẫn diễn ra nhanh chóng, hiệu quả như Ban hành Kế hoạch của Ban Chấp hành Liên minh HTX Việt Nam phân công trực tiếp chủ trì, tham gia xây dựng và chỉ đạo tổ chức thực hiện xây dựng các đề án dự án, một số nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 2021-2025; Quy chế làm việc của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và Thường trực Liên minh HTX Việt Nam khóa VI, nhiệm kỳ 2020-2025; Quy chế về công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế của hệ thống Liên minh HTX Việt Nam ; UBND 21/63 tỉnh tỉnh đã phê duyệt Điều lệ Liên minh HTX cấp tỉnh; tiếp tục triển khai có hiệu quả Chương trình số 503/CTr-LMHTXVN và các công việc khác theo Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 9/9/2021 của chính phủ; Phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương tổ chức thành công Hội thảo “Cơ chế, chính sách huy động và sử dụng nguồn lực phát triển nông nghiệp, nông thôn” nhằm củng cố thêm cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn để bổ sung các luận điểm xây dựng Nghị quyết mới về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trình Ban Chấp hành Trung ương; Hoàn thiện và gửi Ban Chỉ đạo Trung ương Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 về kinh tế tập thể (Nghị quyết 13) và 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012…
Bên cạnh đó, cơ quan Liên minh Hợp tác xã Việt Nam vẫn hoạt động và duy trì các công việc theo chức năng, nhiệm vụ được giao như: Tích cực phối hợp với các bộ, ngành cơ quan, tổ chức tham gia xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược, kế hoạch, dự án, đề án liên quan đến phát triển KTTT, HTX; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thông tin gắn với phong trào thi đua đẩy mạnh phát triển KTTT, HTX; Tư vấn hỗ trợ, cung ứng dịch vụ nhất là tiêu thụ sản phẩm cho thành viên; Tiếp tục cơ cấu tổ chức bộ máy, hoàn thiện quy định nội bộ của cơ quan Liên minh HTX Việt Nam…
Trong Hoạt động của Ủy ban kiểm tra và công tác kiểm tra: Tổ chức thành công Hội nghị trực tuyến hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra giám sát cho cán bộ Ủy ban Kiểm tra Liên minh HTX cấp tỉnh; Phối hợp cơ quan chức năng giải quyết đơn khiếu nại của HTX Hợp Tiến (Đắk Nông) và HTX Phúc Thọ (Hà Nội); Xin ý kiến các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành về chủ trương và nội dung mẫu phiếu khảo sát đánh giá mức độ hài lòng của HTX đối với cấp uỷ, chính quyền địa phương; Hoàn thiện các báo cáo kiểm tra theo chỉ đạo của Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam; Triển khai kiểm tra đối với Công ty TNHH Nhà nước MTV Đầu tư, Thương mại và Du lịch Thắng Lợi và Trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật – Mỹ nghệ Việt Nam; Triển khai Kế hoạch số 758/KH-LMHTX ngày 26/10/2021 của Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam về việc thực hiện giám sát, báo cáo Đoàn giám sát Quốc hội việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016 – 2021.
Quang cảnh Hội nghị
Trong Công tác hợp tác quốc tế: Hoàn thiện các thủ tục liên quan theo quy định sau hội thảo, ký kết Biên bản ghi nhớ giữa VCA và Satake Nhật Bản, Thỏa thuận hợp tác giữa Liên minh HTX Việt Nam và Công ty cổ phần Sorimachi Nhật Bản; Báo cáo Bộ Ngoại giao về điều ước, thỏa thuận quốc tế của Liên minh HTX Việt Nam năm 2021 và kế hoạch ký kết năm 2022; Tiếp tục làm việc với một số tổ chức về triển khai các hoạt động hợp tác trong thời gian tới; Tham dự trực tuyến Đại hội đồng khu vực ICA-AP và các hoạt động trong khuôn khổ ĐHĐ từ ngày 28/11-03/12/2021.
Phát biểu tại Hội nghị, ông Phạm Ngọc Toại, Chánh Văn phòng Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho biết trong tháng 11 cả nước thành lập mới 189 HTX (148 HTX nông nghiệp và 41 HTX phi nông nghiệp); giải thể 30 HTX (21 HTX nông nghiệp và 9 HTX phi nông nghiệp) nâng tổng số HTX hoạt động trên cả nước là 26.661 HTX (vượt 15,5% kế hoạch).
Theo đánh giá, Thường trực Liên minh HTX Việt Nam đã chỉ đạo các ban, đơn vị trực thuộc triển khai hoàn thành 80/122 đầu việc. Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam được bầu vào Ban Lãnh đạo Liên minh HTX quốc tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, nhiệm kỳ 4 năm với số phiếu 200/226 phiếu bầu.
“Một số mặt công tác được đẩy nhanh tiến độ, chất lượng tăng lên như công tác chỉ đạo và xây dựng các báo cáo tổng kết, tuyên truyền, kế hoạch hỗ trợ, xây dựng quy chế, quy định. Tuy nhiên, nhiều công việc lớn, phức tạp cần phải tập trung giải quyết, mới có thể hoàn thành Chương trình công tác năm 2021 (43 đầu việc của các ban, đơn vị; 22 Tờ trình của Thường trực)” – ông Toại nhấn mạnh.
Một số các công việc trọng tâm được Chủ tịch Nguyễn Ngọc Bảo nhấn mạnh tại kết luận Hội nghị, cần thực hiện trong thời gian tới như: Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các địa phương tổ chức thành công Hội nghị toàn quốc Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW và Tổng kết 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012 trong lĩnh vực phi nông nghiệp vào ngày 7/12/2021; Tập trung thực hiện các công việc theo kết luận của Chủ tịch tại Thông báo số 842/TB-LMHTXVN ngày 23/11/2021 về kế hoạch triển khai một số công việc và sự kiện trọng tâm tháng cuối năm 2021, đầu năm 2022; Tiếp tục tổ chức thực hiện hiệu quả Quyết định số 1328/QĐ-TTg ngày 23/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Điều lệ Liên minh HTX Việt Nam (Kế hoạch số 576/KH-LMHTXVN ngày 25/8/2021); Tập trung hoàn thành Kế hoạch công tác năm 2021; Kế hoạch NSNN năm 2021 theo đúng tiến độ xây dựng phương án và dự kiến phân bổ kế hoạch NSNN năm 2022 cho các đơn vị…
Ngày 30/11, Bộ NN&PTNT phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam tổ chức Đối thoại chính sách cấp cao về Chuyển đổi sang hệ thống lương thực thực phẩm xanh, giảm phát thải. Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Lê Văn Nghị tham dự.
Muốn phát triển nông nghiệp xanh cần chuyển từ sản xuất sang kinh tế nông nghiệp – Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Tại Đối thoại, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan khẳng định, nông nghiệp tiếp tục là “trụ đỡ” của nền kinh tế trong bối cảnh đại dịch COVID-19 nhưng ngành lại đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn, từ các vấn đề nội tại lẫn các yếu tố khách quan. Để đảm bảo được mục tiêu phát triển bền vững, việc chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng nông nghiệp mới trở thành một yêu cầu cấp bách.
Bộ NN&PTNT đang xây dựng dự thảo “Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050” nhằm cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới, được thiết kế xoay quanh 3 trụ cột: “Nông nghiệp sinh thái”, “Nông thôn hiện đại”, “Nông dân thông minh” phù hợp với các định hướng của “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050” vừa được Chính phủ ban hành.
Trên cơ sở này, tư duy phát triển nông nghiệp cần chuyển từ sản xuất sang kinh tế nông nghiệp. Theo đó, tư duy đặt năng suất và sản lượng lên hàng đầu trước đây cũng phải chuyển sang lấy giá trị làm trung tâm thông qua tích hợp các hệ giá trị khác nhau vào sản phẩm. Cách làm tận dụng, khai thác cũng phải chuyển thành bồi dưỡng và làm giàu tài nguyên phục vụ nhu cầu sản xuất bền vững. Cùng với đó, cũng xoá dần tư tưởng tự cung tự cấp để hướng tới tư tưởng hội nhập, hòa nhập với dòng chảy của chuỗi giá trị và các xu thế phát triển toàn cầu.
Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, để làm được những điều này cần thay đổi từ tư duy địa phương sang tư duy toàn cầu; từ tư duy khai thác sang tư duy nuôi dưỡng; từ tư duy ngắn hạn sang tư duy dài hạn và bền vững. Cần hướng tới những “giá trị xanh” được tạo nên từ “chuyển đổi xanh, tiêu dùng xanh, kinh tế xanh”. Bộ trưởng Lê Minh Hoan nêu rõ, với tư duy đổi mới và cùng hành động, khát vọng của ngành nông nghiệp sẽ trở thành hiện thực, để không chỉ là “trụ đỡ” của nền kinh tế khi đất nước ở vào thời điểm khó khăn mà ngành quyết tâm hướng đến khát vọng vươn tầm, đủ sức trở thành “thước đo mức độ bền vững của quốc gia”.
“Để tạo nên sự chuyển đổi mới mẻ mang tính dài hạn và bền vững, chúng ta rất cần những tri thức mới, những quan điểm tiếp cận cấp tiến, những kinh nghiệm thực tiễn theo phương châm tư duy toàn cầu, hành động địa phương. Ý tưởng sáng kiến có thể xuất phát từ một người nhưng để triển khai vào thực tế cần sự chung sức đồng lòng của rất nhiều người. Trong quá trình chuyển mình, ngành nông nghiệp không thể chỉ có một mình mà cần đến sự chia sẻ, hỗ trợ, ủng hộ của những người bạn đồng hành, của các bộ, ban, ngành Trung ương và địa phương, của các tổ chức, cá nhân các đối tác trong và ngoài nước”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nêu quan điểm.
Theo bà Carolyn Turk, Giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, nông nghiệp là một trong những tác nhân chính gây nên biến đổi khí hậu khi phát thải khí nhà kính từ lĩnh vực này chiếm 18% tổng lượng phát thải. Lượng phát thải dự kiến sẽ lên tới 120 triệu tấn CO2 vào năm 2030, trong đó một nửa xuất phát từ ngành lúa gạo. Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu như nước biển dâng, mặn xâm nhập, mưa cực đoan, hạn hán…
Ngoài thách thức về biến đổi khí hậu, ngành nông nghiệp còn đang đối mặt với những thách thức nội tại như giảm năng suất trong ngành, áp lực gia tăng sản lượng, yêu cầu ngày càng cao về chất lượng của sản phẩm nông nghiệp.
Bà Carolyn cho biết, với những bài học kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển trong chuyển đổi sang hệ thống lương thực, thực phẩm xanh, phát thải thấp, Ngân hàng Thế giới sẽ tiếp tục hợp tác và hỗ trợ kỹ thuật, mở rộng các hoạt động đầu tư trong nông nghiệp để hướng tới tương lai tươi sáng cho ngành nông nghiệp Việt Nam.
Việt Nam đã có cam kết mạnh mẽ (đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, giảm khí thải metan 30% tính đến năm 2030) tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP26). Bà Carolyn chia sẻ: “Việt Nam cần duy trì vị thế là một trong những nước sản xuất nông nghiệp mạnh trên thế giới và chúng tôi tin rằng việc này hoàn toàn có thể làm được. Để làm được điều này, cần tìm ra động lực tăng trưởng mới và hiệu quả hơn trong nông nghiệp. Tương lai nông nghiệp Việt Nam sẽ dựa vào tri thức nhiều hơn để gia tăng giá trị thay vì sản xuất theo tập quán “thâm dụng” tài nguyên và dấu chân carbon cần phải giảm thiểu. Việt Nam cũng cần nhạy bén hơn trước nhu cầu trên toàn cầu về sản xuất sản phẩm an toàn hơn với môi trường”.
Ngày 30/11, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tham dự Đại đồng Liên minh Hợp tác xã quốc tế khu vực (ICA – AP) và bầu cử Ban lãnh đạo ICA – AP. Liên minh Hợp tác xã quốc tế khu vực và Liên đoàn HTX nông nghiệp Hàn Quốc (NACF) chủ trì cuộc họp. Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trúng cứ Ban lãnh đạo ICA – AP nhiệm kỳ 4 năm (2020- 2024).
Phát biểu khai mạc, Ông Li Chungsen, Chủ tịch của Liên minh Hợp tác xã Châu Á – Thái Bình Dương chủ trì cuộc họp. Ông Li chào mừng tất cả các đại biểu và phát biểu rằng năm 2021 là một năm bất ngờ trước những diễn biến của đại dịch Covid-19. Sự kiện chưa từng có này đã dẫn đến thiệt hại cho nhiều người, đặt ra những thách thức về sức khoẻ và rủi ro cho hoạt động kinh doanh do các hạn chế mà chính phủ quy định. Điều quan trọng hơn bao giờ hết là thực hành theo các giá trị và nguyên tắc chung của hợp tác xã và tiếp tục phát huy tinh thần chiến đấu của các hợp tác xã.
Chân dung Ông Nguyễn Ngọc Bảo Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam trúng cứ Ban lãnh đạo ICA – AP
Ông Balasubramanian Iyer, Tổng Giám đốc khu vực ICA – AP chào đón đại biểu tham gia cuộc họp Đại hội đồng, ông đã trình bày về báo cáo các hoạt động về tình hình thành viên năm 2021, báo cáo tài chính năm 2020 và báo cáo hoạt động dự án của ICA, ICAAP-EU.
Tại đây Ông Balasubramanian Iyer chia sẻ, tại các chương trình/hội thảo/hội nghị đã được diễn ra trong thời gian vừa qua, ông Balu cảm ơn các thành viên đã hỗ trợ các sự kiện tại quốc gia của họ và nói rằng “đây chính là biểu hiện của sự hợp tác giữa các hợp tác xã và đặc biệt là nỗ lực của chúng ta trong giáo dục và đào tạo”. Hiện tại, ICA-AP có 111 tổ chức thành viên đến từ 32 quốc gia. Ông Balasubramanian Iyer yêu cầu các thành viên khuyến khích các tổ chức khác ở quốc gia của họ trở thành thành viên của ICA. ICA cần sự hỗ trợ của tất cả các thành viên trong việc thúc đẩy ICA.
Đại đồng Liên minh Hợp tác xã quốc tế khu vực (ICA – AP) lần này đã bầu Ban lãnh đạo ICA – AP, kết quả như sau: Chủ tịch là ông Chandrapal Sigh Yadav – Chủ tịch Liên đoàn HTX quốc gia Ấn Độ, 02 Phó Chủ tịch: ông Zhenhong Cai – Liên đoàn HTX Cung tiêu toàn Trung Quốc và ông Dato Dr. Abdul Fattah Abdullah – Tổ chức ANGKASA (Malaysia), Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trúng cứ Ban lãnh đạo ICA – AP nhiệm kỳ 4 năm (2020-2024) với số phiếu 200/226 phiếu bầu cử và đại biểu từ các tổ chức HTX các nước Úc, Iran, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nepal, Palestine, Philipines, Sri Lanka.
Báo cáo chi tiết về Kết quả cuộc họp các Uỷ ban chuyên môn và Đại hội đồng Liên minh Hợp tác xã quốc tế khu vực (ICA-AP) trực tuyến và bầu cử Ban lãnh đạo ICA-AP từ ngày 28-30/11/2021 tại đầu cầu Hàn Quốc (tại đây)
Năm 2021, Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường phối hợp với Liên minh HTX tỉnh Khánh Hòa tổ chức khảo sát và lựa chọn HTX nuôi trồng thủy sản Ninh Phú thôn Hang Dơi, xã Ninh Phú, thị xã Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà làm điểm thực hiện mô hình ứng dụng công nghệ sinh học kiểm soát hiện tượng phú dưỡng trong nuôi tôm thẻ siêu thâm canh.
Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Ninh Phú thành lập từ tháng 6/2019 với 10 thành viên theo luật HTX năm 2012. Hiện nay, HTX có 20 ha diện tích mặt nước nuôi tôm thẻ chân trắng theo phương thức nuôi siêu thâm canh mật độ trung bình lên tới 400 con/m2, sản lượng trung bình đạt 400 tấn/năm. Do phương thức nuôi công nghiệp lượng thức ăn đưa vào hàng ngày lớn, cộng thêm lượng phân thải ra nằm lại trong môi trường nước ao dẫn đến hiện tượng quá tải, nước ao bị ô nhiễm các chất hữu cơ sinh ra các khí độc hại như H2S, NH3, NO2… làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của vật nuôi. Bên cạnh đó, lượng thức ăn đưa vào dư thừa là nguyên nhân dẫn đến hàm lượng N, P trong ao tăng cao tạo điều kiện cho một số loài tảo và vi sinh vật gây bệnh phát triển. Nồng độ N, P trong nước tăng cao là nguyên nhân gây nên hiện tượng phú dưỡng trong ao nuôi thủy sản dẫn đến sự bùng phát một vài loài tảo độc, vi sinh vật gây bệnh phát triển quá mức trong ao nuôi.
Trước tình hình đó, Trung tâm Khoa học Công nghệ và môi trường cùng với Liên minh HTX tỉnh Khánh hòa đã tổ chức khảo sát và lựa chọn xây dựng mô hình HTX nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ sinh học để kiểm soát hiện tượng phú dưỡng trong ao nuôi. Để tổ chức thực hiện có hiệu quả, tổ công tác đã tiến hành lấy mẫu và đo đạc một số thông số của nước ao ngay tại HTX, đồng thời lấy mẫu để phân tích tại phòng thí nghiệm. Sau khi thống nhất phương án triển khai, Trung tâm KHCN và môi trường đã lập phương án hỗ trợ cho HTX gồm các nội dụng chính:
– Hỗ trợ 300 kg chế phẩm vi sinh COSTE MT 01 để kiểm soát chất lượng nước ao
– Hỗ trợ 02 máy thổi khí công suất 3.7 kW để tăng lượng oxi hòa tan vào nước, đồng thời đẩy các chất khí độc hại NH3, H2S ra khỏi môi trường nước
– Hỗ trợ tư vấn xây dựng hồ sơ quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14001 và chi phí đánh giá cấp chứng nhận hê thống quản lý moi trường ISO 14001 cho HTX.
Ngày 25/11/2021, đoàn công tác gồm ông Lê Tuấn An – Tổng giám đốc Trung tâm KHCN&MT, Ông Hồ Hữu Đức Phó chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Khánh Hòa, chủ nhiệm đề tài và các cán bộ chuyên môn đã có mặt tại HTX nuôi trồng thủy sản Ninh phú thôn Hang Dơi, xã Ninh Phú, thị xã Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà để nghiệm thu, bàn giao các vật tư thiết bị hỗ trợ cho HTX để tổ chức thực hiện mô hình.
Ông Hồ Hữu Đức – Phó chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Khánh Hoà cùng đoàn công tác của Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường tại lễ nghiệm thu và bàn giao vật tư, thiết bị cho HTX NTTS Ninh Phú
Ông Hồ Hữu Đức – Phó chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Khánh Hoà cùng đoàn công tác của Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường tại lễ nghiệm thu và bàn giao vật tư, thiết bị cho HTX NTTS Ninh Phú
Tại lễ bàn giao, Ông Lê Minh Chính – Giám đốc HTX cho biết: mặc dù dịch bệnh Covid 19 trên địa bàn tỉnh đang diễn biến phức tạp, nhưng công tác nuôi trồng thủy sản của HTX không bị ảnh hưởng do HTX thực hiện rất nghiêm túc các biển pháp cánh li và kiểm soát người ra vào khu vực sản xuất, nuôi trồng thuỷ sản. Toàn bộ tôm của HTX được các doanh nghiệp trong vùng bao tiêu ngay khi thu hoạch. Tuy nhiên, HTX mới thành lập được 2 năm, do vậy, còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, công nghệ, thiết bị cũng như việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về hoạt động bảo vệ môi trường.
Cũng trong buổi làm việc, Ông Phạm Thanh Sinh, chủ tịch UBND xã Ninh Phú chia sẻ, HTX nuôi trồng thuỷ sản Ninh Phú là đơn vị tiên phong trong xã thực hiện các biện pháp nuôi trồng thuỷ sản theo công nghệ cao, trong đó, đặc biệt chú trọng đến công tác ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và bảo vệ môi trường nuôi trồng thuỷ sản. Thay mặt Uỷ ban nhân dân xã Ninh Phú, Ông Sinh đề nghị Trung tâm KHCN&MT – Liên minh HTX Việt Nam, Liên minh HTX tỉnh Khánh Hoà tiếp tục quan tâm hỗ trợ cho HTX nuôi trồng thuỷ sản Ninh Phú cả về vốn tín dụng, cơ sở vật chất và công nghệ để HTX nuôi trồng Thuỷ sản Ninh Phú trở thành mô hình điểm tiêu biểu trong hoạt động sản xuất nuôi trồng thuỷ sản của xã nói riêng và của tỉnh Khánh Hoà nói chung.
Chiều 29/11, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức hội thảo tham vấn “Dự thảo Chiến lược Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2050″. Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo tham dự Hội thảo và phát biểu ý kiến tham luận.
Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phát biểu tại Hội thảo tham vấn “Dự thảo Chiến lược Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2050″. Ảnh: Bích Hồng/BNEWS/TTXVN
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan, hiện nay ngành nông nghiệp Việt Nam đang tồn tại hai vấn đề lớn. Đó là, ngành nông nghiệp vẫn phát triển dựa trên đơn ngành; sử dụng nhiều đất đai, chi phí đầu vào thay vì sử dụng yếu tố khoa học công nghệ hay những mô hình nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ. Muốn phát triển bền vững, ngành nông nghiệp cần chuyển đổi quan niệm và cấu trúc dựa trên việc phát triển những giá trị khác ngoài sản lượng.
“Những năm gần đây GDP đóng góp cho ngành nông nghiệp tăng nhưng chi phí đầu vào cũng tăng theo nên giá trị gia tăng bị giảm đi, thu nhập trực tiếp của người nông dân không đồng hành với sự tăng trưởng của ngành”, Bộ trưởng cho hay.
Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, thị trường hiện không chỉ mua nông sản dựa trên giá cả mà dựa trên nhiều giá trị khác như: không tác động tới biến đổi khí hậu, môi trường, sức khỏe của chính người nông dân… Đó là câu chuyện ngành cần định vị lại những giá trị cối lõi, tiếp cận xu thế tại tất cả những ngành hàng. Chiến lược phải hướng đến sự tăng trưởng bao trùm, tạo ra bao nhiêu việc làm, người nông dân được thụ hưởng sự phát triển của ngành nông nghiệp.
Ông Cao Đức Phát – nguyên Phó Ban Kinh tế Trung ương cũng cho rằng, chiến lược cần có tư duy mới và hoàn toàn khác. Bối cảnh hiện nay đặt ra nhiều yêu cầu thay đổi tư duy. Sản phẩm nông nghiệp ngày càng không chỉ đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm của người tiêu dùng còn nhiều yêu cầu mới như: sản phẩm phát thải carbon thấp. Nông nghiệp Việt Nam không thể không thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Ngành nông nghiệp đang đóng góp 20% phát thải nên không thể đứng ngoài. Do đó, ngành phải thích ứng và tham gia tích cực để giảm phát thải khí ngày kính.
Theo ông Cao Đức Phát, trong nông nghiệp muốn có 1 đồng tăng trưởng thì cần 5 đồng đầu tư. Vậy nếu muốn tăng trưởng tăng 3% thì đầu tư tăng 15%. Bởi vậy, phải duy trì cơ cấu đầu tư; đầu tư của doanh nghiệp có thể tăng nhưng quan trọng là ngân sách và tín dụng.
Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho rằng một số mục tiêu trong chiến lược chưa đề cập đến. Ví dụ, thu nhập bình quân đầu người nước ta năm 2030 là 7.500 USD/năm, vậy thu nhập đầu người ở khu vực nông thôn là bao nhiêu. Đây là chỉ tiêu đầu ra rất quan trọng để tính chỉ tiêu đầu vào.
Về dự thảo chiến lược, ông Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn cho biết, trong bối cảnh mới, cần có một chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn mang tính hệ thống, có định hướng bao quát, dài hạn trong 10 năm và có thể có những tầm nhìn dài hạn hơn nữa.
Chiến lược này hiện thực hóa định hướng của Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XIII; trong đó, quá trình tái cơ cấu nông nghiệp cần gắn chặt hơn với xây dựng nông thôn mới thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững gắn với những cơ hội về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, thị trường. Từ đó, hướng tới xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh.
Mục tiêu đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng GDP nông lâm thủy sản đạt bình quân từ 2,5-3%/năm, tốc độ tăng năng suất lao động nông lâm thủy sản đạt bình quân từ 5,5-6%/năm giai đoạn 2021-2030. Đến năm 2050, phấn đấu Việt Nam trở thành một trong 10 nước có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới.
Theo đó, đổi mới tư duy về quản lý, quản trị nông nghiệp dựa trên các quy luật của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức và hành động xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại.
Chuyển đổi mạnh mẽ từ nhận thức tới hành động về phát triển nền nông nghiệp bền vững theo hướng nông nghiệp xanh, nông nghiệp sinh thái. Cùng đó, chuyển đổi tư duy của nông dân về phát triển kinh tế nông nghiệp, tập trung nâng cao giá trị, chất lượng, hiệu quả sản xuất; chuyển từ phát triển đơn ngành sang tích hợp đa ngành, từ “đơn giá trị” sang “tích hợp đa giá trị”.
Ngoài ra, đẩy mạnh tư duy gắn kết chặt chẽ giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ. Đồng thời, đổi mới, đa dạng hình thức, phương pháp nhằm thay đổi nhận thức và tư duy, tập trung phổ biến những cách làm hay, mô hình tốt trong phát triển nông nghiệp, ông Trần Công Thắng cho hay.
Khuyến khích phát triển thị trường quyền sử dụng đất sẽ tạo điều kiện tích tụ ruộng đất, phát triển vùng chuyên canh, theo Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã.
Chiều 26/11, Ban Kinh tế Trung ương và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đồng chủ trì Hội thảo “Cơ chế chính sách huy động nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, nông thôn”.
Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo cho biết, số hộ cá thể tham gia các HTX nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay quá thấp, khoảng 30%, trong khi con số này ở các nước hầu hết là 100%.
“Nếu hộ nông dân tập hợp vào HTX sẽ tạo ra chuỗi giá trị, hạn chế rủi ro, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng, hạn chế thủ tục cho các tổ chức tín dụng”, ông Bảo nói.
Ông cũng cho rằng, điều kiện cần thiết để phát triển các chuỗi giá trị nông sản chủ lực quốc gia còn nhiều hạn chế. Quy hoạch vùng nguyên liệu trong liên kết vùng, tích tụ và tập trung ruộng đất, kết cấu hạ tầng sản xuất và thông tin… còn bất cập. Do đó, ông đề nghị, cần sớm sửa đổi Luật Đất đai và ban hành chính sách khuyến khích phát triển thị trường quyền sử dụng đất.
“Khi đó sẽ tạo điều kiện tích tụ và tập trung ruộng đất phát triển vùng chuyên canh nông sản lớn. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cho quy hoạch và phát triển chuỗi giá trị sản phẩm nông sản”, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam khẳng định.
Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo. Ảnh: TTX
TS. Nguyễn Như Quỳnh (Phó Viện trưởng phụ trách Viện Chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài chính) đánh giá, chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp chưa khuyến khích người nông dân sử dụng đất hiệu quả. Định hướng, giải pháp về cơ chế, chính sách tài chính phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 nêu rõ phải hoàn thiện các chính sách thuế, hướng đến mục tiêu khuyến khích, hỗ trợ phát triển nông nghiệp bền vững.
Cụ thể, sẽ giảm 50% thuế thu nhập cá nhân với thu nhập từ tiền lương, tiền công của nhân lực công nghệ cao làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông sản… Đồng thời, kéo dài thời gian cho thuê đất đối với khu vực kinh tế tư nhân; ưu đãi trong chuyển nhượng, thế chấp quyền sử dụng đất; giá thuê đất ở mức thấp nhất và miễn tiền thuê đất cho các cơ sở ngành nghề nông thôn, nhất là cơ sở sản xuất nông nghiệp sạch.
Ông Nguyễn Thanh Dương (Vụ trưởng Vụ Kinh tế nông nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thông tin, trong giai đoạn vừa qua, để tạo nên 1 đồng tăng trưởng GDP thì trung bình toàn nền kinh tế phải đầu tư 7,2 đồng vốn. Trong khi đó, để tạo nên 1 đồng tăng trưởng GDP, ngành nông nghiệp chỉ cần đầu tư 5,5 đồng vốn.
Tuy nhiên, cơ chế chính sách đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn vẫn còn chồng chéo, môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thuận lợi. Chính sách đầu tư cũng thiếu đồng bộ, chưa đủ mạnh và bố trí nguồn vốn còn bất hợp lý như nặng về thủy lợi (khoảng 60%), ưu tiên cho cây lúa, một số cây khả năng đem lại lợi nhuận cao lại ít được đầu tư…
Vì vậy, ông Dương kiến nghị đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh, giảm gánh nặng thuế, phí… cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt, tiếp tục đẩy mạnh đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, xác định doanh nghiệp đóng vai trò “bà đỡ” để đưa công nghệ, quản lý, vốn và thị trường vào sản xuất nông nghiệp.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Võ Thành Hưng cho biết hiện có khoảng 14.000 doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, chính sách bảo hiểm nông nghiệp có khó khăn do rủi ro lớn. Do đó, Bộ Tài chính sẽ xây dựng chính sách thuế theo hướng mở rộng đối tượng bảo hiểm nông nghiệp để chia sẻ rủi ro. “Đầu tư ngân sách nhà nước cho khu vực nông nghiệp, nông thôn có thể tăng gấp đôi so với giai đoạn trước để đáp ứng nhu cầu phát triển”, ông Hưng nói.
Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung Nguyễn Duy Hưng. Ảnh: Hiếu Duy
Phó trưởng Ban Kinh tế Trung Nguyễn Duy Hưng cho hay, Nghị quyết Đại hội Đảng XIII đặt ra nhiệm vụ xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Do đó, Nghị quyết 26 về nông nghiệp, nông thôn, nông dân năm 2008 sẽ được tổng kết để xem những kết quả đã làm được, những việc còn nợ người dân.
Phó trưởng Ban chỉ đạo trung ương tổng kết thực hiện Nghị quyết 26 ghi nhận ý kiến đề xuất của các chuyên gia. Ông nói, tất cả sẽ được tập hợp, làm cơ sở nghiên cứu xây dựng dự thảo chính sách mới, đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn, tạo động lực phát triển cho nông nghiệp.
Thống kê cho thấy, sau hơn 13 năm thực hiện Nghị quyết 26, nông nghiệp có bước phát triển vượt bậc, trở thành trụ đỡ của nền kinh tế trong những thời điểm kinh tế gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong giai đoạn chịu nhiều tác động của Covid-19. Thu nhập bình quân năm ở nông thôn tăng nhanh hơn đô thị, từ 12,8 triệu đồng một người năm 2010 lên trên 42 triệu đồng một người năm 2020, vượt mục tiêu đề ra. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều ở nông thôn giảm nhanh, bình quân giảm khoảng 1,5% mỗi năm và đến hết 2020 còn 4,2%.
“Thực tế cho thấy nợ xấu trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn lại thấp nhất trong các ngành kinh tế. Thời gian tới cần tăng cường hơn nữa nguồn vốn tín dụng cho khu vực này”, ông Hưng nhấn mạnh.
Theo Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương, ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Để hiện thực hóa Nghị quyết Đại hội XIII về “nông dân thông minh”, các Bộ ngành chức năng phải đẩy mạnh chuyển đổi số, sử dụng trí tuệ nhân tạo, xây dựng cơ sở dữ liệu số lớn của ngành nông nghiệp từ đất đai, thổ nhưỡng, cây trồng, vật nuôi… đến thị trường. Đồng thời, quan tâm các gói bảo hiểm mùa màng cho người nông dân bên cạnh bảo hiểm khoản vay…
Theo Ban Kinh tế Trung ương, giai đoạn 2008-2020, nông nghiệp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao (2,94% một năm) và phát triển khá toàn diện, chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện hơn. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tăng trưởng 8,17% một năm, cán cân thương mại liên tục xuất siêu, nông sản Việt Nam có mặt trên 196 quốc gia và vùng lãnh thổ, đưa Việt Nam thành một trong những cường quốc nông sản; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, giảm nghèo bền vững. Năm 2020, sản lượng lúa gạo bình quân đầu người đạt 438,2 kg, cao hơn Thái Lan và gấp 3,5 lần Ấn Độ.
Sản xuất nông nghiệp hữu cơ đang là hướng đi của không ít người dân, HTX, doanh nghiệp. Tuy nhiên, làm sao để hạn chế được chi phí và bảo đảm đáp ứng yêu cầu thu mua của các quốc gia trên thế giới vẫn là mong muốn của HTX.
Liên đoàn quốc tế các phong trào nông nghiệp hữu cơ (IFOAM) cho biết năm 2020, đã có không ít người dân, HTX và doanh nghiệp tại 46/63 tỉnh thành ở Việt Nam tham gia sản xuất hữu cơ. Diện tích canh tác hữu cơ đã tăng từ 53.000 ha năm 2016 lên 240.000 ha và có khoảng 60 doanh nghiệp xuất khẩu nông sản hữu cơ đi các thị trường Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản… với mức kim ngạch 335 triệu USD.
Chưa tự tin với tiêu chuẩn Việt Nam?
Với mong muốn phát triển bền vững và nâng cao thu nhập cho thành viên và người dân, thời gian qua đã có không ít HTX đầu tư sản xuất theo hướng hữu cơ. Tiêu biểu như HTX nông sản sạch canh tác tự nhiên Triệu Phong (Quảng Trị) đã được chứng nhận tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ quốc gia (TCVN 11041-1:2017).
Tuy nhiên, theo Giám đốc Nguyễn Hữu Đạt, sản phẩm gạo hữu cơ của HTX mới chỉ đáp ứng được thị trường trong nước thông qua các hệ thống siêu thị Coop.mart, hệ thống cửa hàng Bác Tôm và các kênh phân phối khác ở TP.HCM, Đà Nẵng, Hà Nội và một số tỉnh, thành khu vực miền Trung. Còn việc xuất khẩu ra nước ngoài thì rất khó vì hiện mỗi thị trường yêu cầu một chứng nhận khác nhau.
Tương tự như HTX Triệu Phong, HTX dịch vụ nông nghiệp sạch hữu cơ Thanh Xuân (Hà Nội) sản xuất rau theo tiêu chuẩn PGS (được xây dựng dựa trên tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ quốc gia) nhưng nông sản của HTX chỉ tiêu thụ trong nước, trong đó tập trung vào hệ thống cửa hàng nông sản sạch ở Hà Nội.
Dù dạt tiêu chuẩn hữu cơ của Việt Nam nhưng nhiều HTX vẫn chưa thể xuất khẩu.
Chia sẻ với VnBusiness, bà Hoàng Thị Hậu, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX Thanh Xuân, cho biết đã có doanh nghiệp Nhật về khảo sát vùng trồng rau của HTX nhưng họ không thu mua với lý do dù sản xuất theo hướng hữu cơ nhưng tiêu chuẩn HTX đang áp dụng chưa đủ nghiêm ngặt. Muốn xuất khẩu sang nước này, HTX phải đáp ứng sản xuất theo tiêu hữu cơ nông nghiệp Nhật Bản- JAS.
Thực trạng của hai HTX trên cho thấy, tiêu chuẩn sản xuất hữu cơ trong nước là TCVN 11041-1:2017 dù đã được chính thức ban hành vào năm 2019, tuy nhiên khi áp dụng vào thực tiễn sản xuất của các HTX cho thấy vẫn còn bộc lộ những nhược điểm nhất định.
Chẳng hạn như hiện nay, bộ tiêu chuẩn này mới chỉ quy định khi sản xuất, người dân, HTX, doanh nghiệp phải sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hữu cơ. Tuy nhiên, đó là những loại phân nào, thuốc nào thì lại không nêu cụ thể nên gây khó cho HTX trong quá trình sản xuất.
“Không biết tất cả các phân hữu cơ trong danh mục của Bộ NN&PTNT có được dùng cho sản xuất hữu cơ theo tiêu chuẩn của Việt Nam hay không? Trong khi trên thị trường hiện có nhiều sản phẩm ghi nhãn là hữu cơ nhưng chưa chắc đã đạt tiêu chuẩn trong sản xuất” là băn khoăn của bà Hoàng Thị Hậu.
Không chỉ vậy, do mới được ban hành vào năm 2019 nên việc áp dụng hệ thống tiêu chuẩn TCVN 11041-1:2017 vào sản xuất vẫn chưa lâu nên quá trình kiểm tra, giám sát và chứng nhận vẫn chưa được chặt chẽ. Chia sẻ vấn đề này, ông Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, cho biết việc tính phí để một tổ chức làm chứng nhận hữu cơ vẫn còn chưa rõ ràng nên mỗi nơi làm một kiểu. Có nơi thì thu theo sản lượng nông sản, có nơi thì đóng theo số lượng thành viên, có nơi thì đóng theo diện tích sản xuất.
Nguyên nhân là do trong bộ tiêu chuẩn hữu cơ chưa có quy định mức chi phí cụ thể cho diện tích sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ nên không có căn cứ cho các tổ chức chứng nhận thu phí của nông dân, HTX. Chính vì vậy, việc thu phí làm chứng nhận hữu cơ hiện nay vẫn bị thả nổi. Trong khi HTX, người dân chỉ làm theo cảm tính.
Chính vì chưa có những quy định chặt chẽ, rõ ràng nên việc áp dụng tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam đang gây ra những khó khăn cho các HTX. Mà điều rõ ràng nhất là nông sản dù được chứng nhận tiêu chuẩn hữu cơ nhưng không đáp ứng được các hàng rào kỹ thuật của các nước trên thế giới.
Nâng cấp tiêu chuẩn, giảm chi phí chứng nhận
Vì chưa đảm bảo các yêu cầu nhất định trong quy trình sản xuất nên bộ tiêu chuẩn hữu cơ quốc gia của Việt Nam vẫn chưa thu hút nhiều HTX thực hiện. Thay vào đó, nhiều HTX đã áp dụng các tiêu chuẩn hữu cơ phổ biến khác như: JAS (Nhật Bản), USDA ORGANIC (Mỹ), EcoVeg (Đức)…
HTX Phước Hưng (Bình Phước) chuyên sản xuất hạt điều hữu cơ đạt tiêu chuẩn quốc tế (FLO). Tiêu chuẩn này không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn đáp ứng yêu cầu của các thị trường “khó tính” như Đức, Hà Lan, Hàn Quốc… Điều đó đã khẳng định chất lượng điều của HTX trên thị trường và bảo đảm thu nhập cao cho người nông dân.
Nâng cấp tiêu chuẩn hữu cơ quốc gia sẽ thu hút nhiều HTX mở rộng sản xuất theo hướng này.
Thế nhưng, điều lo lắng của các HTX sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế là chi phí chứng nhận rất cao. Chia sẻ với VnBusiness, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX Phước Hưng Vũ Đức Bộ, cho biết với 1.400 ha điều sản xuất theo tiêu chuẩn FLO, mỗi năm HTX phải đóng tiền tỷ để làm chứng nhận.
“Chỉ có chứng nhận hữu cơ quốc tế mới có thể xuất khẩu được. Nhưng hiện, HTX phải tự lo liệu trong khi chi phí chứng nhận rất cao, năm nào cũng phải chứng nhận lại. Chính vì vậy, việc duy trì chứng nhận hữu cơ chính là gánh nặng đối với HTX”, ông Bộ nói.
Để giải quyết những khó khăn này, theo các chuyên gia, việc làm cần thiết lúc này là cần hoàn thiện tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam để làm sao tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam sẽ tương đồng và được các tổ chức hữu cơ quốc tế chứng nhận. Điều này vừa giúp nông sản sản xuất ra có thể xuất khẩu, vừa giúp các HTX giảm bớt gánh nặng về chi phí.
Ông Phạm Văn Duy, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN-PTNT), cho biết tại Đề án 885/QĐ-TTg của Chính phủ về phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 – 2030, nhiều cấp ngành đã nhận ra những điểm chưa hợp lý trong bộ tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, việc hoàn thiện bộ tiêu chuẩn này là cần thiết để thu hút người dân, HTX sản xuất theo hướng hữu cơ.
“Hiện, Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản đang làm việc với Nhật Bản và Nhật Bản cũng đang hỗ trợ Việt Nam “nâng cấp” chứng nhận hữu cơ sao cho tương đương với chứng nhận hữu cơ của Nhật Bản”, ông Duy chia sẻ.
Còn đối với các nước khác, Việt Nam phải tiếp cận với các tổ chức chứng nhận của họ, từ đó mời chuyên gia của các nước cùng đánh giá, tìm hiểu những vướng mắc trong bộ tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam. Nếu chúng ta đáp ứng đủ về chuyên môn, tài chính, công nghệ, nhân lực… thì họ sẽ chấp nhận hỗ trợ Việt Nam nâng cao tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam
Tuy nhiên, dù như thế nào thì theo ông Duy, việc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn hữu cơ quốc gia phải hài hoà với tiêu chuẩn quốc tế và phù hợp với tiêu chuẩn đã thống nhất trong ASEAN để đảm bảo yêu cầu hội nhập, đồng thời phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, cũng cần tiếp tục xem xét việc tổ chức xây dựng tiêu chuẩn hữu cơ quốc gia phải đảm bảo hướng dẫn chi tiết quá trình sản xuất cụ thể ở từng lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản… và gắn với một số sản phẩm cụ thể có tiềm năng xuất khẩu lớn như gạo, cà phê, tôm… Điều này sẽ giúp người dân, HTX dễ dàng áp dụng, đồng thời sẽ phát triển sản phẩm nông nghiệp mang thương hiệu quốc gia.
Theo khảo sát mới nhất do Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam thực hiện, có đến hơn 40% người tiêu dùng sẵn sàng trả thêm tiền cho thực phẩm sạch. Chính vì vậy, phát triển nông nghiệp theo hướng hữu cơ chính là hướng đi đúng đắn của các HTX để vừa nâng cao được giá trị vừa đáp ứng được nhu cầu thị trường. Để làm được điều này, các cơ quan chức năng của Việt Nam cần nhanh chóng nâng cấp tiêu chuẩn hữu cơ riêng cho thị trường trong nước. Đi kèm với đó là có những chính sách hỗ trợ bằng nhiều cách để HTX bớt tốn kém chi phí trong việc xin chứng nhận hữu cơ từ các tổ chức quốc tế.
(NLĐO) – Đứng trước 3 biến động lớn là biến đổi khí hậu, biến động thị trường và sự dịch chuyển xu thế tiêu dùng, Việt Nam có cơ hội thúc đẩy tăng trưởng xanh nhằm thích ứng với bối cảnh mới.
Tại Nghị quyết 124 về Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2021, Quốc hội giao Chính phủ nhiệm vụ thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn theo nhu cầu thị trường, ứng dụng công nghệ cao, gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị; chuyển đổi cây trồng, vật nuôi phù hợp, thích ứng với biến đổi khí hậu… Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025 cũng nêu nhiệm vụ phát triển nông nghiệp xanh, sạch, sinh thái, hữu cơ, công nghệ cao, thông minh và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Không thể đứng ngoài xu thế
Theo Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) Lê Minh Hoan, nền nông nghiệp Việt Nam đang “giằng xé” giữa những con số về sản lượng trên báo cáo với giá trị gia tăng thu được trên thực tế. Trong đó, tư duy kinh tế lấy giá trị gia tăng làm mục tiêu chứ không phụ thuộc vào sản lượng lớn hay nhỏ. “Một thời nông dân nghĩ sản xuất được sản lượng nhiều thì thu nhập cao hơn. Điều đó là phi thị trường, phi kinh tế. Có những lúc được mùa mất giá, nông dân càng bán lại càng lỗ, cho thấy có sự khập khiễng trong tư duy về sản xuất nông nghiệp. Làm sao để chuyển đổi tư duy từ phía nông dân đến cộng đồng doanh nghiệp (DN), địa phương và cơ quan quản lý thì mới có thể xây dựng được nền sản xuất nông nghiệp hiệu quả” – Bộ trưởng Lê Minh Hoan đặt vấn đề.
Thay đổi sản xuất nông nghiệp theo hướng xanh, sạch, tuần hoàn là đòi hỏi bắt buộc – Trong ảnh: Nhà sơ chế rau hữu cơ tại Nhà Bè – TP HCM (Ảnh: NGỌC ÁNH)
Phân tích rõ hơn về nguyên nhân buộc nền sản xuất nông nghiệp phải thay đổi, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nói Việt Nam đang đứng trước 3 biến động lớn là biến đổi khí hậu, biến động thị trường và sự dịch chuyển xu thế tiêu dùng. Theo đó, người tiêu dùng không còn cần ăn đủ, ăn nhiều mà chuyển sang nhu cầu ăn ngon, sạch, dinh dưỡng hài hòa. Tương tự, nếu trước kia câu chuyện an ninh lương thực chỉ gắn với lúa gạo thì nay cần tiếp cận tư duy bảo đảm an ninh lương thực, thực phẩm và cân bằng dinh dưỡng. Không dừng ở đó, xu thế mới hiện nay trên thế giới là tiêu dùng xanh, tức quá trình sản xuất sản phẩm không tác động tới biến đổi khí hậu, không làm tăng lượng CO2… “Tại Hội nghị lần thứ 26 các Bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP26), tất cả các quốc gia cam kết cắt giảm khí thải CO2 vào năm 2030. Ngoài ra, Ngân hàng Thế giới mới đây cũng đưa ra cảnh báo trong tương lai, bao bì sản phẩm nông nghiệp sẽ ghi rõ tiêu chuẩn không phát thải CO2” – Bộ trưởng Lê Minh Hoan nêu những áp lực cụ thể để nền nông nghiệp Việt Nam thay đổi.
Theo Bộ trưởng Bộ NN-PTNT, nông nghiệp xanh là nền nông nghiệp sản xuất áp dụng đồng bộ các quy trình, công nghệ sử dụng hợp lý, tiết kiệm vật tư đầu vào, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Để làm được điều này, ông cho rằng cần phải thay đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, bảo đảm hài hòa trên 3 trụ cột là kinh tế, xã hội và môi trường.
Tại Hội nghị triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) tổ chức sáng 29-10, Bộ trưởng Bộ KH-ĐT Nguyễn Chí Dũng cho hay chiến lược này nhằm đưa Việt Nam “đi tắt đón đầu”, bắt kịp, hướng tới khát vọng thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội. Khát vọng này thể hiện ở việc Việt Nam quyết tâm lựa chọn cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo định hướng tăng trưởng xanh.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, các ngành kinh tế, sản xuất xanh sẽ từng bước hạn chế phát sinh chất thải lớn, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường; phát triển công nghệ xanh, hệ thống quản lý, kiểm soát hoạt động sản xuất theo kinh nghiệm thực hành tốt để tiết kiệm tài nguyên, giảm phát thải, cải thiện môi trường sinh thái…
“Xanh hóa” để tăng giá trị gia tăng
PGS-TS Tạ Văn Lợi, Viện trưởng Viện Thương mại và Kinh tế Quốc tế – Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, nêu quan điểm việc “xanh hóa” chuỗi cung ứng hàng xuất khẩu sẽ giúp tăng cường xuất khẩu hàng hóa do dễ đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật và kiểm dịch động thực vật của nước nhập khẩu; giúp kiểm soát tốt hơn mặt hàng xuất khẩu của các DN; bảo vệ môi trường và kiểm soát rác thải, phế liệu tốt hơn…
“Tuy nhiên, mức độ “xanh hóa” chuỗi cung ứng hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam còn thấp, thiếu đồng bộ. Cần đổi mới tổ chức sản xuất nhằm nâng cao năng lực triển khai chuỗi cung ứng toàn cầu; tăng cường tuyên truyền nâng cao ý thức của người tiêu dùng trong nước trong việc sử dụng các sản phẩm nông sản xanh; xây dựng, công bố các tiêu chuẩn xanh và công nhận các nguyên liệu xanh cho các tổ chức sản xuất và kinh doanh. Ngoài ra, có thể xây dựng các mô hình liên kết để phát triển và hình thành các sáng kiến xanh hóa chuỗi cung ứng nhằm cắt giảm chi phí. Đặc biệt, cần cao ý thức của DN về vấn đề bảo vệ môi trường” – PGS-TS Tạ Văn Lợi gợi ý.
Giới chuyên gia cho rằng nền nông nghiệp Việt Nam với mức độ phát triển hiện nay là nhân tố quan trọng của quốc gia trong nỗ lực trở thành một nước công nghiệp phát triển. Do đó, cần có chiến lược phát triển nông nghiệp theo hướng tập trung, quy mô lớn, kết hợp chuyên môn hóa với phát triển tổng hợp. Đặc biệt, phát triển theo hướng kết nối ngành hàng, theo chuỗi giá trị gia tăng ngành nông sản; phát triển nông nghiệp sinh thái, bền vững, chú trọng các sản phẩm hữu hình và các sản phẩm vô hình như không khí, cảnh quan, môi trường…
Ông Lê Việt Anh, Vụ trưởng Vụ Khoa học giáo dục tài nguyên và môi trường (Bộ KH-ĐT), cho rằng để thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, các bộ – ngành cần xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách; phối hợp liên vùng, liên ngành; tích hợp mục tiêu, giải pháp tăng trưởng xanh để thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; tối ưu hóa nguồn lực, đặc biệt trong xây dựng hạ tầng đa mục tiêu.
Để huy động nguồn lực tài chính cho tăng trưởng xanh, cần hoàn thiện chính sách, công cụ huy động nguồn lực, hỗ trợ, ưu đãi tài chính; phát triển thị trường vốn, thị trường tín dụng, bảo hiểm xanh, hướng tới phát triển đồng bộ hệ thống thương mại khí thải theo cơ chế thị trường…