Nhiều hoạt động hỗ trợ trong nhiệm vụ bảo vệ môi trường của Viện Khoa học Công nghệ và Môi trường về bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn cho các Hợp tác xã đã đạt được kết quả tích cực.
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu. Hiện nay, tổng diện tích rừng ngập mặn ở Việt Nam khoảng 200.000 ha đã và đang đóng góp vai trò to lớn trong việc làm sạch môi trường và mang lại nguồn kinh tế cho người dân.
Nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của các HTX trong bảo vệ, khai thác rừng ngập mặn, góp phần cải thiện đời sống kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Viện Khoa học Công nghệ và Môi trường đã tổ chức thực hiện và nghiệm thu cấp Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nhiệm vụ: “Đánh giá Thực trạng ô nhiễm rừng ngập mặn sản xuất và đề xuất giải pháp xây dựng, phát triển mô hình HTX lâm nghiệp bền vững, chống biến đổi khí hậu” ngày 15 tháng 3 năm 2024.
Kết quả khảo sát và đánh giá mà nhiệm vụ đã thu được, cho thấy hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản với tần suất khai thác hàng ngày đã mang lại nguồn thu nhập chính cho các HTX và thành viên ở trong khu vực rừng ngập mặn.
Tuy nhiên qua khảo sát, môi trường nước rừng ngập mặn tại các HTX đang có dấu hiệu bị ô nhiễm Coliform, TSS, NH4+ và Fe. Nguyên nhân gây ra tình trạng ô nhiễm nước tại các điểm quan trắc trên được xác định do hoạt động nuôi trồng thủy sản và do nguồn nước thải sinh hoạt của khu dân cư, nước thải chăn nuôi và nước thải công nghiệp ở các khu vực đầu nguồn và lân cận. Bên cạnh đó, các kết quả phân tích trầm tích tại các HTX cũng cho thấy các chỉ tiêu Cd, Pb và Fe ở hầu hết các HTX thuộc các vùng nghiên cứu đều cao và vượt ngưỡng quy chuẩn cho phép của QCVN 43:2017/BTNMT. Nguyên nhân gây ô nhiễm được xác định chủ yếu do các hoạt động dân sinh cũng như hoạt động sản xuất ở các làng nghề ở các khu vực xung quanh.
Trước thực trạng trên, Viện Khoa học Công nghệ và Môi trường đã đưa ra là các giải pháp tổng hợp, ngắn hạn và dài hạn bao gồm: giải pháp đào tạo, tập huấn nâng cao nhận thức về vai trò, giá trị của rừng ngập mặn; giải pháp quản lý là áp dụng các quy định của ISO 14001:2015, giải pháp công nghệ là áp dụng chế phẩm sinh học…
Kết quả sau 2 năm thực hiện, nhiệm vụ đã tập huấn đào tạo và tuyên truyền cho hơn 500 lượt học viên ở khu vực kinh tế tập thể, góp phần nâng cao nhận thức về vai trò giá trị của rừng ngập mặn, bảo vệ rừng ngập mặn, quản lý chất thải hiệu quả góp phần bảo vệ môi trường. Chất lượng nước sau khi hỗ trợ ở cả 2 HTX xây dựng mô hình đã đạt quy chuẩn cho phép trong nuôi trồng thủy sản. Kết quả này đã chứng tỏ hiệu quả môi trường mà nhiệm vụ mang lại, đáp ứng yêu cầu về phát triển bền vững.
Việc áp dụng hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14001:2015 giúp cho các HTX kiểm soát tốt hơn các quá trình sản xuất, ngăn ngừa và xử lý kịp thời những rủi ro, đặc biệt là những yếu tố rủi ro gây ô nhiễm môi trường, nâng cao hiệu quả quản lý, xử lý chất thải cũng như ý thức và nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Thông qua các sản phẩm hỗ trợ khác như; chế phẩm sinh học xử lý ô nhiễm môi trường, kinh phí kết quả theo dõi đánh giá sau 1-2 vụ nuôi trồng như lúa gạo, tôm, cá tại các HTX tham gia mô hình cho thấy sản lượng, chất lượng đều được cải thiện, doanh thu và lợi nhuận thu được sau hỗ trợ đều tăng đáng kể lần lượt 10,3% sau 1 vụ nuôi tôm thẻ chân trắng tại HTX DV NTTS 30/4; tăng 40,7% doanh thu đối các sản phẩm lúa, cá, và tôm của HTX NN Thuận Hòa.
Nhiệm vụ đã đạt được nhiều kết quả tích cực, các nội dung tư vấn và hỗ trợ của nhiệm vụ đã mang lại hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường cho cả 2 HTX tham gia xây dựng mô hình và được các nhà khoa học đánh giá cao.
Nhiều giải pháp đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX một cách đồng bộ như: giải pháp kỹ thuật – công nghệ, giải pháp quản lý hệ thống, giải pháp tuyên truyền, vận động…đã đem lại hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường cho các Hợp tác xã ở khu vực nông thôn, miền núi hiện nay.
Cùng với các lĩnh vực kinh doanh khác, dịch vụ môi trường là một hoạt động đã và đang được nhiều hợp tác xã (HTX) trên nhiều địa phương trong cả nước quan tâm và tiếp cận, đặc biệt khu vực nông thôn và miền núi, góp phần tích cực trong công tác bảo vệ môi trường, tạo ra công ăn việc làm đảm bảo đời sống và xóa đói giảm nghèo cho lực lượng lao động tại chỗ. Tuy nhiên, các HTX hoạt động trong lĩnh vực này còn nhiều khó khăn như: về nguồn vốn, quy mô hoạt động còn nhỏ, công nghệ xử lý rác thải còn lạc hậu, nhận thức của người dân về phân loại rác thải tại nguồn, kinh phí cho công tác thu gom, xử lý rác thải còn thấp …..
Viện Khoa học Công nghệ và Môi trường đã thực hiện nhiệm vụ: “Đánh giá hiệu quả hoạt động và đề xuất giải pháp tổ chức dịch vụ môi trường cho các hợp tác xã ở khu vực nông thôn, miền núi” trong hai năm 2022-2023 và tổ chức nghiệm thu cấp ngành thành công kết quả của nhiệm vụ ngày 15/3/2024 vừa qua.
Thông qua khảo sát thực tế và các kết quả quan trắc chất lượng môi trường tại khu vực tập kết rác thải, khu vực tập kết không được trang bị đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật gây ra tình trạng trạng ô nhiễm không khí cục bộ, ô nhiễm nguồn nước do các với nền chống thấm, mái che, đặc biệt các rác thải hữu cơ chưa được tận dụng để làm phân bón sinh học. Thực tế khảo sát cũng cho thấy việc xử lý rác thải của nhiều HTX chủ yếu theo phương pháp thủ công, chôn lấp tại chỗ, đốt nilon, bao bì… không đảm bảo vệ sinh môi trường.
Trước thực trạng như trên, Viện Khoa học Công nghệ và Môi trường đã đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX một cách đồng bộ như giải pháp kỹ thuật – công nghệ, giải pháp quản lý hệ thống, giải pháp tuyên truyền, vận động, giải pháp đào tạo, tư vấn.
Để kiểm chứng các giải pháp đề xuất, nhiệm vụ đã lựa chọn và hỗ trợ xây dựng 03 mô hình tại 3 HTX: HTX Hùng Việt (tỉnh Phú Thọ), HTX Hưng Khánh (tỉnh Yên Bái), và HTX Phú Riềng (tỉnh Bình Phước). Điểm mới và tiêu biểu trong đó là việc hỗ trợ về công tác quản lý, tư vấn, hướng dẫn và áp dụng hệ thống quản lý môi trường ISO 14001:2015 đã giúp các HTX quản lý và tổ chức hoạt động một cách khoa học, hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh. Doanh thu của 03 HTX tăng lên từ 15,2%- 33%; Thu nhập của người lao động hàng tháng tăng 5-12,5 %. Bên cạnh đó, chất lượng môi trường tại điểm tập kết rác thải đã được cải thiện, giảm ô nhiễm rõ rệt, đồng thời nhận thức của chính quyền, người dân địa phương và các tổ chức đoàn thể trong quản lý chất thải đã được nâng cao.
Sau 2 năm hoạt động, nhiệm vụ đã đạt được nhiều kết quả tích cực như: đánh giá tình hình hoạt động, tổ chức dịch vụ môi trường tại các HTX ở khu vực nông thôn, miền núi; đề xuất giải pháp tổ chức dịch vụ môi trường cho các HTX khu vực nông thôn, miền núi… giúp HTX tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế, góp phần nâng cao chất lượng đời sống của người lao động.
Vấn đề Hợp tác xã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập một cách có hệ thống, từ những ý tưởng mang tính chất lý luận đến những bài nói, bài viết sau này tuy mang tính chất chỉ đạo thực tiễn nhiều hơn nhưng đều chứa đựng quan điểm nhất quán về vai trò to lớn của HTX đối với đồng bào ta, nhất là vùng nông thôn, nông nghiệp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã đưa những quan điểm về hợp tác xã (HTX) vào Việt Nam. Người đã kế thừa những lý luận và thực tiễn về HTX của thế giới, của Chủ nghĩa Mác – Lênin và phát triển một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của đất nước.
Đặc biệt trong tác phẩm Đường Cách mệnh năm 1927, tác phẩm lý luận điển hình, mẫu mực về HTX. Người đã giành hẳn một chương viết về HTX. Người nói “HTX là “góp gạo thổi cơm chung” cho khỏi “hao của, tốn công, lại có nhiều phần vui vẻ”[1]; và vận dụng tục ngữ Việt Nam “Nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó” và “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” để rút ra kết luận: “lý luận HTX đều ở trong những điều ấy”[2].
Hồ Chí Minh nói về tính chất HTX là tổ chức kinh tế – xã hội, nó không thuần túy là kinh tế và cũng không thuần túy là xã hội. Nó khác hội buôn và khác hội từ thiện vì các hội ấy có tiêu đi mà không làm ra. HXT có tiêu đi, có làm ra, chỉ giúp cho người trong hội nhưng giúp một cách bình đẳng.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những vấn đề lý luận cơ bản của HTX như: lịch sử ra đời, mục tiêu, bản chất, tổ chức quản lý,… Đặc biệt Người đề cập vấn đề quan trọng nhất của HTX chính là bản chất, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX, “đã vào hội thì bất kỳ góp nhiều hay ít, vào trước vào sau, ai cũng bình đẳng như nhau”[3], “xã viên là hạt nhân, là trung tâm của HTX nên phải hiểu rõ về HTX, phải nâng cao ý thức trách nhiệm về “HTX là nhà, xã viên là chủ”[4].
Sau khi đã giành được chính quyền cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chỉ đạo thực hiện tư tưởng HTX vào thực tế Việt Nam. Trong “Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam” ngày 11/4/1946 – sự kiện giờ đây trở thành ngày truyền thống HTX Việt Nam – khi lý giải cụ thể HTX , Người viết: “Nói tóm lại, HTX là hợp vốn, hợp sức lại với nhau. Vốn nhiều, sức mạnh, thì khó nhọc ít mà lợi ích nhiều”. Mong muốn của Người là: “anh em ta ai chẳng mong cho nước thịnh, dân cường. Vậy chúng ta hãy mau mau chung vốn, góp sức, lập nên HTX nông nghiệp ở khắp nơi, từ làng mạc đến tỉnh thành đâu đâu cũng phải có HTX”[5].
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đến khi hòa bình lập lại năm 1954, ở miền Bắc, Hồ Chủ tịch luôn chú trọng đến tổ chức phát triển HTX, đến con đường làm ăn tập thể. Với cương vị Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nước, Người đã cùng Trung ương Đảng, Chính phủ có những chủ trương, đường lối phù hợp, đúng đắn để kinh tế HTX được tổ chức, phát triển, tạo được sức mạnh tổng hợp vào thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Kháng chiến, kiến quốc; xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu trang giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Nhìn chung, trong thời kỳ này các HTX được củng cố, phát triển và trở thành một lực lượng kinh tế quan trọng trong nền kinh tế của hậu phương lớn miền Bắc.
Trong giai đoạn hiện nay, trên nền tảng quan điểm Hồ Chí Minh về HTX, Đảng chỉ đạo triển khai, phát triển sát với thực tiễn, với những quyết sách tạo ra cơ chế đột phá cho kinh tế hộ, là giải pháp hiệu lực về củng cố, phát huy hiệu lực của HTX nông nghiệp.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, khu vực kinh tế hợp tác, HTX đã có những biến đổi quan trọng. Khi cơ chế quản lý tập trung bao cấp được xóa bỏ, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước từng bước được hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế. Phần lớn, HTX trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế rơi vào tình trạng khó khăn, lúng túng. Nhiều HTX sản xuất kinh doanh thua lỗ bị tan rã, giải thể. Tuy nhiên, trong khó khăn vẫn có một bộ phận HTX đã kịp thời chuyển đổi thích ứng với cơ chế mới, hoạt động có hiệu quả.
Sự ra đời, tồn tại, phát triển kinh tế tập thể, kinh tế HTX là tất yếu khách quan. Bác Hồ, Đảng ta rất sớm nhận rõ sự cần thiết của kinh tế HTX đối với sự phát triển của đất nước. Quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về HTX là nhất quán. Trong xu thế hội nhập và phát triển, nhận thức rõ và tập trung cho phát triển kinh tế HTX là sự lựa chọn thiết thực.
ThS.ThS.Trần Thu Hương – Khoa Xây Dựng Đảng
Trưởng Chính trị tỉnh Kon Tum
[1] Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, Tập 2, tr. 343.
Các HTX đang có vai trò quan trọng góp phần đưa ngành nông nghiệp Việt Nam dần thoát khỏi tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ. Việc thu hút nông dân, hộ cá thể tham gia tích cực vào HTX không chỉ giúp mô hình HTX nâng được cả chất và lượng mà còn tiếp sức cho nền nông nghiệp lớn mạnh.
Trên thực tế, nhiều nông dân khởi nghiệp hoặc tham gia HTX đã trở thành triệu phú, tỷ phú hoặc đơn giản là thoát được nghèo. Như tại HTX nông nghiệp Đạ M’ri (Lâm Đồng) đang có 123 thành viên, nhờ đầu tư sản xuất trên quy mô lớn, đáp ứng các tiêu chuẩn xuất khẩu mà năm 2023, mỗi thành viên HTX có nguồn thu ít nhất là 1,1 tỷ đồng từ sản xuất sầu riêng theo hướng hàng hóa.
Vẫn khó giữ chân thành viên
Từ những đóng góp của các HTX như HTX Đạ M’ri có thể khẳng định kinh tế tập thể, HTX đang đóng vai trò quan trọng trong phát triển nền nông nghiệp hiện đại.
Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) cho rằng kinh tế tập thể, HTX đang đóng góp tích cực vào phát triển ngành nông nghiệp. Minh chứng rõ nhất là chất lượng, số lượng nông sản hàng hóa của Việt Nam thời gian qua đã được nâng lên, đáp ứng các tiêu chí xuất khẩu của nhiều thị trường quốc tế. Thông qua HTX, doanh nghiệp cũng có những cơ hội đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường. Nhiều HTX cũng đã xây dựng được những vùng nguyên liệu đạt chất lượng, với những nông sản có thương hiệu trên thị trường.
Tuy nhiên, đó là những HTX có quy mô lớn cả về thành viên và năng lực sản xuất. Đến nay, vẫn còn nhiều HTX có quy mô nhỏ cả về thành viên, dịch vụ, diện tích sản xuất nên đang gặp những khó khăn nhất định trong việc nâng cao hiệu quả và phát triển các chuỗi giá trị hàng hóa.
Tại HTX Nông nghiệp dịch vụ và thương mại Hợp Nhất (Đăk Lăk), sau 17 năm hoạt động và chuyển đổi, số lượng thành viên của HTX không những không tăng mà giảm dần từ 30 đến nay còn 8 thành viên. Chính vì vậy, nhiều kế hoạch sản xuất, nâng diện tích, mở rộng dịch vụ, đầu tư máy móc của HTX bị “dậm chân tại chỗ”.
Điều này cho thấy, vẫn có những HTX không chỉ khó khăn trong thu hút thành viên mới mà còn khó “giữ chân” thành viên cũ. Nguyên nhân có thể do HTX bị tác động từ thị trường (dịch bệnh, suy thoái kinh tế…), có thể do HTX chưa minh bạch trong quá trình hoạt động, nhưng cũng có thể do người dân chưa hiểu rõ về bản chất của mô hình kinh tế tập thể, HTX.
Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, cả nước có hơn 19.000 HTX nông nghiệp thì bình quân mỗi HTX nông nghiệp mới chỉ có 176 thành viên. HTX nông nghiệp mới chỉ thu hút được khoảng 31% tổng số hộ nông lâm thủy sản cả nước (9,10 triệu hộ). Chỉ có số hộ liên kết với HTX nông nghiệp là tăng. Cụ thể là đến năm 2023, tổng số lao động thường xuyên trong HTX nông nghiệp vào khoảng 550 nghìn người (tăng 143 nghìn người so với năm 2013).
Tuy nhiên, nếu người dân chỉ liên kết với HTX thì hình thức hợp tác này được đánh giá là chưa thực sự ổn định và bền vững. Các thành viên liên kết không được thụ hưởng quyền lợi như thành viên chính thức.
Trong sản xuất, không phải HTX nào có quy mô thành viên nhỏ cũng hoạt động không hiệu quả. Nhưng xét về bản chất HTX và giá trị kinh tế, khi HTX đứng ra làm các dịch vụ hỗ trợ thành viên, nếu HTX có hàng trăm thành viên thì chắc chắn giá các loại dịch vụ của HTX sẽ mềm hơn, thành viên sẽ được hưởng lợi nhiều hơn.
Chẳng hạn như HTX chăn nuôi liên kết với doanh nghiệp để cung cấp cám thức ăn chăn nuôi cho thành viên. Nếu HTX có số lượng thành viên lớn, có nhu cầu nguồn cám nhiều, chắc chắn doanh nghiệp sẽ có chính sách hỗ trợ, đưa ra mức giá hợp lý hơn so với những HTX có số lượng thành viên nhỏ với nhu cầu mua thức ăn chăn nuôi ít.
Trong mối liên kết với HTX, các doanh nghiệp phân phối, chế biến cũng luôn mong muốn có nguồn nguyên liệu bảo đảm chất lượng, quy mô lớn và phát triển ổn định. Chính vì vậy, những HTX có số lượng thành viên lớn luôn là lợi thế trong liên kết với doanh nghiệp.
Đảm bảo công bằng, minh bạch
Kinh nghiệm thế giới cho thấy, để phát triển các HTX hiệu quả, các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan… luôn chú trọng mở rộng quy mô thành viên. Bởi như vậy, các HTX sẽ rất thuận lợi trong việc mở rộng và đa dạng các dịch vụ, huy động vốn, mở rộng diện tích, quản lý cũng như đáp ứng các nhu cầu sản xuất quy mô lớn.
Do đó, các nước này đã tiếp hành sáp nhập những HTX cũ hoặc hình thành những HTX mới trên quy mô toàn tỉnh, toàn huyện. Như Nhật Bản, sau quá trình sáp nhập và phát triển, cả nước hiện nay chỉ có khoảng 600 HTX. Điều này được đánh giá là giúp Nhật Bản dễ dàng trong việc xây dựng thương hiệu cho nông sản đặc trưng, từ đó tăng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và nâng cao được thu nhập cho người dân.
Hiện nay, một số tỉnh thành ở Việt Nam cũng đang thực hiện hợp nhất, sáp nhập các HTX quy mô nhỏ để hình thành những HTX quy mô lớn hơn. Tuy nhiên, điều này còn hạn chế vì thực chất lãnh đạo ở nhiều địa phương vẫn chưa quan tâm đến mô hình HTX nên chưa tìm được hướng mở rộng và “giữ chân” thành viên phù hợp cho các HTX.
TS Ninh Đức Hùng, chuyên gia phát triển HTX cho rằng muốn thu hút và “giữ chân” các thành viên, HTX cần kết hợp giữa các yếu tố kinh doanh và xã hội. HTX phải biết chia sẻ giữa các lợi ích của thành viên với lợi nhuận của HTX.
Muốn vậy, HTX phải tạo ra được một môi trường làm việc tích cực, được tôn trọng, được cống hiến, ghi nhận. Điều này có thể thông qua việc HTX tổ chức các sự kiện, các buổi đào tạo phát triển năng lực, từ đó thế mạnh của mỗi thành viên được bộc lộ, tạo cho họ cơ hội để đóng góp, tham gia vào công việc tập thể của HTX.
Bên cạnh đó, HTX cần chia sẻ lợi ích một cách công bằng. Để làm được điều này, lãnh đạo HTX phải đảm bảo các thành viên được công bằng từ trong việc phân công công việc, chia sẻ lợi ích, lợi tức kinh doanh của HTX. Vấn đề này có thể đảm bảo được thông qua việc thiết lập cơ chế phân chia lợi nhuận và đưa ra các quyết định một cách công bằng, minh bạch. Nội dung này cũng được thể hiện trong điều lệ HTX.
Đặc biệt, vào HTX là để nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống nên HTX cần đảm bảo công bằng và minh bạch, công khai. Ở đây, lãnh đạo HTX cần bảo đảm mọi hoạt động của HTX được tiến hành một các minh bạch, cung cấp thông tin đầy đủ, chi tiết về quản lý tài chính, phân phối lợi nhuận cũng như tạo ra cơ hội cho thành viên đưa ra ý kiến của mình trong các cuộc họp, đại hội thành viên của HTX.
“Vào HTX, thành viên được tham gia các lớp đào tạo, phát triển kỹ năng, các buổi dã ngoại, tham quan… từ đó tạo cơ hội cho phát triển sự nghiệp và nâng cao năng lực cá nhân. Đó cũng là điều thúc đẩy người dân tham gia và gắn bó với HTX lâu dài”, TS Ninh Đức Hùng cho biết.
Đáng chú ý, những điểm mới trong Luật HTX 2023 được kỳ vọng sẽ mở ra cơ hội cho các HTX trong việc thu hút thành viên, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX mở rộng quy mô sản xuất.
PGS TS Chu Tiến Quang, nguyên Giám đốc Trung tâm tư vấn và quản lý đào tạo, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, cho biết điểm mới của Luật HTX 2023 là đã hình thành quỹ và tài sản không chia, tạo thuận lợi cho HTX trong thế chấp ngân hàng để vay vốn. Đây là khó khăn trong thời gian dài mà các HTX đang gặp phải.
Đi liền với đó, HTX cũng được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các hoạt động giao dịch nội bộ. Từ đây, hoạt động cung ứng sản phẩm cho thành viên HTX sẽ phát triển, tạo niềm tin cho thành viên và người dân.
Một trong những chính sách hỗ trợ khu vực kinh tế tập thể, HTX là Quyết định số 1804/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, quyết định này dù đã ban hành và đi vào thực tiễn được gần 4 năm nhưng số lượng HTX tiếp cận được chính sách hỗ trợ vẫn chưa nhiều.
Quyết định số 1804/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành các chính sách hỗ trợ kinh tế tập thể (KTTT), HTX giai đoạn 2021-2025. Tuy nhiên, qua triển khai tại các địa phương cho thấy chính sách hỗ trợ phát triển HTX trong Quyết định 1804 chưa thực sự tác động mạnh đến các HTX.
Vừa mừng vừa lo
Thực hiện Quyết định 1804/QĐ-TTg, tỉnh Bình Thuận đã ban hành Kế hoạch 1619/KH-UBND (ngày 12/5/2021) để triển khai các chương trình hỗ trợ phát triển KTTT, HTX đoạn 2021 – 2025.
Việc địa phương ban hành chính sách triển khai Quyết định 1804 là điều đáng mừng vì có thể thấy vai trò của KTTT, HTX đã được cơ quan quản lý từ Trung ương đến địa phương quan tâm, từ đó tạo động lực cho HTX phát triển.
Tuy nhiên, mừng là vậy nhưng từ khi triển khai, nhiều HTX cảm thấy lo lắng vì từ năm 2021 đến nay, chỉ ít mô hình KTTT, HTX trên địa bàn tỉnh Bình Thuận có thể tiếp cận và thụ hưởng một trong 5 chính sách hỗ trợ của nghị quyết như: chính sách hỗ trợ thành lập mới, bồi dưỡng nâng cao nguồn nhân lực, tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại…
Theo đại diện Sở NN&PTNT tỉnh Bình Thuận, Quyết định 1804 có 5 nội dung hỗ trợ kinh tế tập thể, HTX từ nguồn kinh phí của Trung ương và địa phương. Nhưng thời gian qua, việc triển khai hỗ trợ chủ yếu được thực hiện từ nguồn ngân sách địa phương, chưa nhận được sự hỗ trợ của Trung ương, trong khi đó khả năng cân đối của tỉnh còn hạn chế.
Bên cạnh đó, một số nội dung của Quyết định số 1804/QĐ-TTg còn quy định chung chung nên địa phương khó triển khai thực hiện. Cụ thể như quyết định này không đưa ra tiêu chí lựa chọn HTX cụ thể mà giao cho tỉnh, thành phố làm việc này. Trong khi, theo quy định tại Điều 14, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và khoản 4, Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020, địa phương không được quy định thủ tục hành chính khi triển khai văn bản của Trung ương không quy định thủ tục hành chính. Đây chính là khó khăn cho Bình Thuận mà một số tỉnh thành khác trong việc đưa ra các tiêu chí, điều kiện lựa chọn HTX để hỗ trợ.
Còn theo Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Bến Tre, Nguyễn Thanh Phương, Quyết định 1804 yêu cầu HTX được hưởng chính sách xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường phải có sản phẩm gắn với chuỗi giá trị, thực hành sản xuất xanh là chưa rõ ràng. Do đó quá trình thực hiện tại Bến Tre còn nhiều khó khăn. Đó là chưa kể hiện nay ngành nông nghiệp chưa có hướng dẫn cụ thể về cấp giấy chứng nhận sản phẩm gắn với chuỗi giá trị, thực hành sản xuất xanh.
Ông Trịnh Quang Hải, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Giám đốc HTX nông nghiệp Thảo Nguyên (Gia Lai), cho biết một trong những chính sách hỗ trợ trong Quyết định 1804 là hỗ trợ lao động trẻ, có tri thức về làm việc tại HTX. Tuy nhiên theo ông Hải, HTX đã nhiều lần kiến nghị với cơ quan quản lý địa phương nhưng đều chưa tiếp cận được chính sách. Nguyên nhân là cơ quan quản lý địa phương cho rằng quyết định này quy định “là lao động trẻ” nhưng như thế nào là “lao động trẻ” thì chưa rõ ràng. Và trong Bộ Luật lao động năm 2019 cũng không có quy định về “lao động trẻ”.
Bảo đảm giá trị của chính sách hỗ trợ
Có thể thấy, thời gian triển khai Quyết định 1804 đã đi được quá nửa chặng đường nhưng việc thực hiện vẫn còn nhiều trắc trở. Bởi nhiều vấn đề, nội dung trong quyết định này vẫn chưa tường minh nên đã phần nào làm mất đi giá trị của chính sách hỗ trợ. Trong khi nhu cầu tiếp cận chính sách của HTX là rất lớn và cấp thiết.
Ông Nguyễn Khải, Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Đắk Nông, cho biết các bộ ngành cần sớm báo cáo Thủ tướng Chính phủ sớm ban hành quyết định sửa đổi, bổ sung chương trình hỗ trợ KTTT, HTX theo Quyết định số 1804/QĐ-TTg. Trong đó cần quan tâm bố trí ngay kinh phí thực hiện chương trình hỗ trợ, nhất là những nội dung liên quan đến ngân sách Trung ương bảo đảm 100% kinh phí thực hiện.
Bộ KH&ĐT cũng cần dẫn cụ thể về điều kiện “sản phẩm HTX có gắn với chuỗi giá trị” và điều kiện “thực hành sản xuất xanh” để địa phương có cơ sở xem xét hỗ trợ HTX đúng quy định. Đồng thời, bộ cần hướng dẫn trình tự thủ tục, hồ sơ thực hiện các chính sách quy định tại Quyết định số 1804/QĐ-TTg để HTX thuận lợi trong khâu chuẩn bị hồ sơ.
Ông Trương Cảm, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX Nông nghiệp Ái (Quảng Nam), cho rằng tại điểm b, khoản 5, mục III về cơ chế đầu tư (Hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng và chế biến sản phẩm) của quyết định 1804 có quy định về điều kiện hỗ trợ là “các địa phương căn cứ tình hình thực tế quy định số lượng thành viên cụ thể…” là chưa rõ ràng, khó triển khai trên thực tế của nhiều địa phương. Do đó, cơ quan quản lý có thể thay đổi thành “ưu tiên các HTX có số lượng thành viên lớn, sản xuất theo cụm liên kết ngành và chuỗi giá trị; HTX hoạt động trên địa bàn đặc biệt khó khăn”. Điều này giúp việc phân loại để lựa chọn HTX hưởng thụ chính sách cũng thuận lợi hơn.
“Cần cụ thể những tiêu chí, điều kiện hỗ trợ để HTX tự đánh giá, xem xét xem mình có đủ điều kiện nhận hỗ trợ hay không và cũng giúp quá trình triển khai được nhanh chóng”, ông Cảm cho biết.
Bên cạnh đó, trong quyết định này chưa đề cập nội dung hỗ trợ xây dựng trụ sở làm việc cho HTX. Trong khi hiện nay, đa số các HTX đều chưa có trụ sở hoặc trụ sở bị xuống cấp, cần đầu tư mới để đáp ứng nhu cầu làm việc, liên kết kinh doanh.
Chiều 17/7, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tổ chức hội nghị đối thoại với doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Tham dự hội nghị có đại diện một số sở, ngành và hơn 30 doanh nghiệp, HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Theo báo cáo tại hội nghị, hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 334 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp với 4.340 thành viên; 3.790 doanh nghiệp đăng ký hoạt động với số vốn đăng ký đạt 38.785 tỷ đồng, trong đó, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông – lâm – nghiệp chiếm 11%.
Thời gian qua, các doanh nghiệp, HTX nông nghiệp đã có nhiều chuyển biến tích cực, từng bước ổn định và phát triển cả về số lượng, trình độ, quy mô sản xuất, đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sản xuất.
Để hỗ trợ, thúc đẩy phát triển sản xuất cho các doanh nghiệp, HTX trên địa bàn tỉnh, Sở NN&PTNT cũng như các sở, ngành liên quan đã triển khai nhiều chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp, HTX như: đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực; hỗ trợ về khoa học – công nghệ, xây dựng chuỗi liên kết sản xuất; xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của các doanh nghiệp, HTX trên địa bàn tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, thách thức như quy mô nhỏ, lẻ; thiếu sự liên kết; lúng túng trong việc định hướng phát triển lâu dài…
Đại diện HTX nuôi ong lấy mật xã Vân Thủy nêu ý kiến tại hội nghị
Tại hội nghị, đại diện các doanh nghiệp, HTX đã nêu một số kiến nghị liên quan đến việc tiếp cận nguồn vốn vay từ Nghị quyết 08 ngày 10/12/2019 của HĐND tỉnh về chính sách đặc thù khuyến khích đầu tư, phát triển hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2020 – 2025 và Nghị quyết số 15 ngày 17/7/2021 của HĐND tỉnh (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết 08); duy trì và nâng cấp sao đối với sản phẩm OCOP (chương trình mỗi xã một sản phẩm); điều chỉnh thời gian nộp tiền thuê mặt nước để nuôi trồng thủy sản; việc quảng bá, liên kết, tiêu thụ sản phẩm….
Lãnh đạo Chi cục kiểm lâm tỉnh giải đáp khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, hợp tác xã
Trong chương trình, lãnh đạo Sở NN&PTNT cùng đại diện các sở, ngành liên quan đã giải đáp, làm rõ những kiến nghị, vướng mắc của các doanh nghiệp, HTX. Đồng thời đưa ra các giải pháp để hỗ trợ các doanh nghiệp, HTX từng bước khắc phục khó khăn, vươn lên phát triển trong thời gian tới.
Ngày 20.3 tại Hà Nội, Đoàn khối các cơ quan Trung ương tổ chức hội thảo “Nông nghiệp sinh thái, nông dân chuyên nghiệp – Khát vọng vươn tầm” nhằm hướng tới sự đổi mới sáng tạo trong sản xuất nông nghiệp đặc biệt trong lực lượng đoàn viên, thanh niên.
Tại hội thảo, BCH Đoàn thanh niên Bộ Nông Nghiệp, Cơ quan Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Cơ quan Liên minh hợp tác xã Việt Nam ký biên bản ghi nhớ phối hợp Chương trình công tác Đoàn và phong trào thanh niên giai đoạn 2024 – 2027.
Cũng tại hội thảo chủ đề về “Vai trò của đội ngũ đoàn viên, thanh niên trong khu vực kinh tế tập thể phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu ở Việt Nam” là một trong ba nội dung được trao đổi tại hội thảo được nhiều đoàn viên, thanh niên quan tâm.
Đồng chí Phạm Trung Bắc – Phó Bí thư Chi đoàn Viện khoa học Công nghệ và Môi trường thông tin – theo số liệu của Tổng cục Thống kê công bố năm 2022, nhóm thanh niên chiếm 47,9% so với tổng lực lượng lao động của Việt Nam. Bên cạnh đó, số lượng lao động làm việc ở nông thôn đạt 50,5% năm 2021, tăng lên 51,4% năm 2022; số lượng lao động có việc làm trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp chiếm 27,5% trong tổng số lực lượng lao động có việc làm toàn quốc năm 2022.
Như vậy, có thể thấy rằng lực lượng lao động thanh niên đang đóng góp vào sự phát triển của ngành nông nghiệp một cách đáng kể. “Vì vậy đội ngũ này cần được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà toàn Đảng, toàn Dân và toàn Quân ta đang hướng đến” – ông Bắc chia sẻ thêm.
Thống nhất với tầm quan trọng của Đoàn viên, thanh niên trong phát triển nông nghiệp, bà Nguyễn Thị Trâm – nông dân sản xuất kinh doanh giỏi cấp TW bày tỏ mong muốn trong thời gian tới, các tổ chức, cơ quan, ban ngành liên quan hỗ trợ, giới thiệu, làm cầu nối cho đoàn viên thanh niên, nông dân với các đơn vị có thể chuyển giao khoa học kỹ thuật trong việc chế biến sâu sản phẩm nông sản.
“Có chương trình kết nối phân phối, đào tạo kỹ năng quản lý, kỹ năng bán hàng trên đa nền tảng thương mại xã hội. Hiện thực hóa ý tưởng, tiết kiệm chi phí, thời gian, giảm thiểu rủi ro trong quá trình nghiên cứu quy trình” – bà Trâm bày tỏ.
Phát biểu tại hội thảo ông Tạ Hồng Sơn – UV BCH TW Đoàn, Bí Thư Đoàn thanh niên Bộ NNPTNT thông tin – xác định rõ vai trò, vị trí quan trọng của Thanh niên trong việc từng bước nâng cao nhận thức và phát huy vai trò tiên phong trong lao động, đổi mới sáng tạo.
“Góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa và “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh” vào năm 2045”, ông Sơn nhấn mạnh.
Ba nội dung chính được tham luận trao đổi tại hội thảo: Xây dựng mẫu hình người đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh ở nông thôn Việt Nam có trình độ, năng lực; Nông nghiệp sinh thái và vai trò của thanh niên với khát vọng “Tam nông”; Vai trò của đội ngũ đoàn viên, thanh niên trong khu vực kinh tế tập thể phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu ở Việt Nam.
Từ ngày 26/2 đến ngày 1/3, Chương trình Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP), với sự hợp tác của Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức hai khóa đào tạo về Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải (ETS) và thị trường các-bon cho các cơ quan nhà nước liên quan, các tổ chức và các doanh nghiệp tại Hà Nội. Các khóa đào tạo này là một phần trong hoạt động hỗ trợ của ETP nhằm thúc đẩy triển khai thị trường các-bon tại Việt Nam.
Nhu cầu thực từ địa phương, doanh nghiệp
Hiện nay, Chính phủ đã có quy định thành lập thị trường các-bon tại Việt Nam và giai đoạn thí điểm sẽ bắt đầu từ năm 2025. Thời gian qua, nhiều hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức về các quy định pháp luật liên quan đã được triển khai, tuy nhiên, hiểu biết về thị trường các-bon, đặc biệt là hệ thống giao dịch hạn ngạch còn khá hạn chế.
Đơn cử tại tỉnh Tuyên Quang, địa phương có diện tích rừng lên tới hơn 400 nghìn ha, bao gồm 230 nghìn ha rừng tự nhiên và 200 nghìn ha rừng trồng nên có tiềm năng lớn về tín chỉ các-bon rừng. Theo ông Triệu Đăng Khoa – Phó Chi Cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Tuyên Quang, thời gian qua, tỉnh đã xây dựng thí điểm dự án tạo tín chỉ các-bon đối với rừng trồng và hiện đang chờ các cấp có thẩm quyền xem xét, triển khai thực hiện. Đối với rừng tự nhiên, tỉnh đã phối hợp với Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) để đánh giá trữ lượng tín chỉ các-bon.
Các cán bộ lâm nghiệp cùng với cơ quan tư vấn cũng tiến hành đánh giá sơ bộ khả năng cung cấp tín chỉ các-bon ra thị trường và sắp tới sẽ tham vấn các cơ quan liên quan về các hành động chuẩn bị cụ thể cho việc tham gia thị trường, ngay khi các quy định liên quan có hiệu lực. Tuy nhiên, thách thức hiện nay là thể chế, chính sách liên quan đến thị trường các-bon còn đang thiếu. Nghị định số 156/2018/NĐ-CP đã có dịch vụ môi trường rừng về hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng. Tuy nhiên, Nghị định lại chưa có hướng dẫn cách tính cũng như thu hoạch tín chỉ các-bon như thế nào. Mặt khác, thị trường các-bon là vấn đề hoàn toàn mới đối với địa phương, bởi vậy, rất cần có các hoạt động đào tạo tăng cường năng lực để các cán bộ quản lý có thể triển khai thực hiện một cách hiệu quả các quy định liên quan trong thời gian tới.
Theo một khảo sát mới đây, có tới hơn 60% doanh nghiệp không hiểu về cách hệ thống giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính (ETS) và thị trường các-bon hoạt động, hoặc có hiểu nhưng không biết về nguyên tắc hoạt động cơ bản. Chỉ có khoảng 5% doanh nghiệp nắm được sự khác nhau giữa hai hệ thống này và sự tương tác trên sàn giao dịch các-bon.
Công ty Cổ phần Tư vấn Năng lượng và Môi trường (VNEEC) cũng đã thực hiện khảo sát vào cuối tháng 12/2023 trên 237 doanh nghiệp phát thải lớn, có tên trong danh mục cơ sở phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính theo Quyết định 01/2022/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Kết quả cho thấy phần nào nhu cầu tăng cường nhận thức trong vấn đề này trong doanh nghiệp, và ngay cả đối với các cơ quan quản lý liên quan.
Thúc đẩy triển khai thị trường các-bon
Bà Mai Kim Liên – Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu cho biết: Trong khi thị trường các-bon mới trong giai đoạn xây dựng, trên thực tế, doanh nghiệp Việt Nam đã trao đổi tín chỉ các-bon từ Việt Nam trên thị trường các-bon tự nguyện thế giới từ giữa những năm 2000. Việt Nam hiện đã có 150 dự án được cấp 40,2 triệu tín chỉ các-bon và đã có trao đổi trên thị trường thế giới; là 1 trong 4 nước có nhiều dự án tín chỉ theo Cơ chế phát triển sạch đăng ký nhất.
Để thiết lập và vận hành thị trường các-bon trong nước, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định về tổ chức và phát triển thị trường các-bon tại Điều 139 và quy định các cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính, có quyền trao đổi, mua bán trên thị trường các-bon trong nước. Do vậy, việc hướng dẫn thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế rất quan trọng và cần thiết.
Đại diện Chương trình Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Châu Á (ETP), bà Fritzie Vergel bày tỏ, khóa đào tạo về Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải (ETS) và thị trường các-bon là hoạt động đào tạo năng lực đầu tiên ở Việt Nam với sự tham gia của các bên liên quan thuộc cả khu vực công và tư. Đây là một chương trình toàn diện có hệ thống về ETS và thị trường các-bon kết hợp sử dụng công cụ mô phỏng thị trường.
Đối với Việt Nam, việc xây dựng một hệ thống giao dịch hạn ngạch phát thải hiệu quả đóng một vai trò then chốt trong việc đạt được mục tiêu giảm phát thải quốc gia. Bằng cách đặt một hạn mức về tổng lượng phát thải và cho phép các doanh nghiệp mua bán hạn ngạch phát thải, hệ thống giao dịch hạn ngạch tạo ra các động lực kinh tế giúp các doanh nghiệp tìm giải pháp giảm lượng phát thải KNK phù hợp với điều kiện của mình. Ngoài ra, doanh thu từ việc đấu giá hạn ngạch có thể được tái đầu tư vào các dự án liên quan đến khí hậu, hỗ trợ thêm cho các nỗ lực của quốc gia trong thực hiện mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, đóng góp vào nỗ lực chung toàn cầu.
Theo bà Đặng Thị Hồng Hạnh – Giám đốc Điều hành Công ty Cổ phần Tư vấn Năng lượng và Môi trường (VNEEC), thông qua khóa đào tạo, các bên liên quan sẽ hiểu biết rõ ràng về hoạt động của Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải, đặc biệt là hai loại hàng hóa chính trên thị trường là hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon. Việc hiểu rõ vị trí, vai trò của mình trong việc phát triển thị trường các-bon ở Việt Nam sẽ giúp các bên chủ động chuẩn bị sẵn sàng tham gia khi thị trường các-bon Việt Nam thực hiện thí điểm năm 2025 và chính thức vận hành vào năm 2028 theo quy định pháp luật; cũng như thúc đẩy mối quan hệ hợp tác chặt chẽ để thiết lập và vận hành thành công thị trường.
Trong những năm gần đây, chính sách xây dựng sàn thương mại điện tử (TMĐT) cho từng địa phương đã được quan tâm và triển khai tích cực. Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành trên cả nước có sàn thương mại điện tử riêng và thu hút được nhiều doanh nghiệp, người dân, HTX trên địa bàn tham gia đăng ký tài khoản bán các đặc sản địa phương, sản phẩm OCOP.
Cùng với sự hỗ trợ của các ngành chức năng, hoạt động thương mại trên sàn TMĐT của các tỉnh thành diễn ra ngày càng sôi nổi và bắt đầu ghi nhận được những kết quả tích cực.
Những kết quả tích cực
Sở Công Thương tỉnh Đồng Nai vừa đưa thông tin, tính đến cuối năm 2023, Sàn giao dịch thương mại điện tử tỉnh Đồng Nai (ecdn.vn) đã có sự tham gia 40 gian hàng của các doanh nghiệp, HTX, cơ sở sản xuất kinh doanh với 300 sản phẩm, trong đó có 90 sản phẩm OCOP.
Được biết, đây là sàn thương mại điện tử đầu tiên ở các địa phương trên cả nước ứng dụng, tích hợp thanh toán trực tuyến, kết hợp với dịch vụ logistics… Từ khi đi vào hoạt động tháng 12/2021, sàn giao dịch thương mại điện tử tỉnh Đồng Nai đã hoạt động hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp mở rộng khả năng tiếp cận thị trường của người dân, HTX, doanh nghiệp tại địa phương.
Nhiều đơn vị tại Đồng Nai đã bày tỏ sự hưởng ứng, cũng như chia sẻ về việc bán sản phẩm trên sàn thương mại điện tử của tỉnh đã giúp đem về những tín hiệu tích cực.
Các trang TMĐT của địa phương đăng bán nhiều loại sản phẩm OCOP.
Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Trường Phát (Nhơn Trạch, Đồng Nai) Nguyễn Thị Bích Lệ cho biết, HTX đã được Sở Công thương hỗ trợ đưa sản phẩm lên sàn ecdn.vn. Sau một quá trình tích cực tham gia, thử nghiệm, hiện HTX đã đưa được khoảng 20 sản phẩm lên sàn này. Sàn đã góp phần kết nối quảng bá, giới thiệu sản phẩm OCOP của HTX.
Từ chỗ kinh doanh chậm, dựa chủ yếu vào bán hàng truyền thống và các đơn vị liên kết. Đến nay, hoạt động bán hàng trực tuyến qua trang TMĐT của tỉnh đã giúp việc bán sản phẩm của HTX phát triển đáng kể. Bà Lệ chia sẻ, doanh thu của HTX từ các giao dịch mua bán trên sàn này trung bình đạt khoảng 100 triệu đồng/tháng.
Tương tự tại tỉnh Gia Lai, đến cuối năm 2023, Sở Công Thương ghi nhận toàn tỉnh có 206 đơn vị sản xuất nông nghiệp tham gia sàn TMĐT tại địa chỉ http://thuongmaigialai.vn với 375 loại sản phẩm. Trong quá trình hoạt động sàn đã giúp nhiều đơn vị, đặc biệt là HTX có sự phát triển vượt trội về doanh thu và khả năng tiếp cận với người tiêu dùng.
Bà Trần Thị Hoàng Anh,Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Giám đốc HTX Mật ong Phương Di Ia Grai ( Ia Grai, Gia Lai) chia sẻ: Thông qua các sàn TMĐT, HTX tiếp cận nhiều khách hàng và ký kết được nhiều hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.
“Kênh bán hàng online giúp HTX nâng cao hiệu quả hoạt động, thúc đẩy phát triển sản xuất. Thời điểm hiện tại, kênh bán hàng truyền thống gặp khó khăn nhưng nhờ bán qua sàn TMĐT nên doanh thu của HTX vẫn tăng khoảng 20% so với trước”, bà Hoàng Anh bày tỏ.
Với nhiều lợi thế là không tốn chi phí cho khâu trung gian, có sức lan tỏa rộng đến nhiều đối tượng khách hàng ở khắp mọi nơi, các sàn TMĐT địa phương đang thể hiện được sự hữu dụng của mình trong việc giúp người dân, HTX, doanh nghiệp tại địa phương tăng cường khả năng tiêu thụ sản phẩm, mở rộng đầu ra.
Nhận thức được tiềm năng và tầm quan trọng của việc bán hàng qua TMĐT, khi được Sở Công thương hỗ trợ kiến thức liên quan đến việc mở gian hàng trên các sàn giao dịch TMĐT, người dân, doanh nghiệp HTX cũng đã nhiệt tình hưởng ứng.
Vẫn còn nhiều hạn chế
Dù đem lại những kết quả tích cực như trên, nhưng xét về thực tế cho thấy hoạt động của các sàn TMĐT của các tỉnh vẫn còn bộc lộ không ít yếu điểm, hạn chế.
Theo Sở Công Thương các địa phương, các nhóm sản phẩm được giới thiệu trên sàn gồm: nông sản, đặc sản địa phương, sản phẩm OCOP, sản phẩm công nghiệp nông thôn… đều có chất lượng rất tốt. Tuy nhiên, sức mua của các sàn vẫn chưa được như kỳ vọng.
Trang TMĐT của tỉnh đã góp phần quảng bá, giới thiệu được sản phẩm tới người tiêu dùng nhưng nhìn chung hoạt động vẫn còn nhỏ lẻ, chưa có phương án phát triển lâu dài, chưa theo kịp thị trường… Do đó, số lượt bán nhìn chung vẫn thấp, lượng giao dịch, tương tác, doanh thu nhìn chung vẫn còn khá khiêm tốn…
Bên cạnh đó, nhiều người tiêu dùng cũng phản ánh các sàn TMĐT của một số tỉnh, địa phương vẫn cần cải thiện nhiều yếu tố về mặt giao diện, tính năng, nâng cao tính nhận diện, hình ảnh thương hiệu hoạt động tuyên truyền để làm tăng sức mua, thu hút người tiêu dùng.
Chị Mỹ Thơm (Mang Yang, Gia Lai), một khách hàng của sàn TMĐT tỉnh nhận xét: “Dù đã có được những tính năng cơ bản của một sàn TMĐT nhưng thiết kế, giao diện của website vẫn khá đơn giản, chưa tối ưu và kém thu hút. Bên cạnh đó, các sản phẩm đăng lên cũng chưa đẹp, nhiều hình ảnh do người bán tự chụp chưa đầu tư vào hình thức, khó tạo được hứng thú cho người mua”.
Qua đó, các chuyên gia về truyền thông, thương mại nhận định, các địa phương cần cải tiến giao diện, nội dung và có kế hoạch lâu dài để hỗ trợ, thúc đẩy ứng dụng rộng rãi TMĐT trong cộng đồng để ngày càng tiệm cận với thị hiếu thị trường. Để người tiêu dùng biết đến nhiều hơn, địa phương cũng cần tăng cường công tác truyền thông, thông tin về sàn TMĐT, nhất là gắn với hoạt động tuyên truyền vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm OCOP.
Đối với các doanh nghiệp, HTX đã đưa sản phẩm lên sàn cần chú trọng tạo bộ nhận diện thương hiệu, hình ảnh sản phẩm đồng thời tạo nên một môi trường kết nối giao thương đa chiều, hiệu quả hơn. Ngoài ra, khi đã tham gia sàn cần tích cực tương tác, hỗ trợ và tiếp nhận thông tin phản hồi từ khách hàng.
Dù còn nhiều hạn chế nhưng nhìn chung các sàn TMĐT địa phương đã góp một bước phát triển tích cực, tạo “bệ phóng” cho sự mở rộng về kết nối giao thương cho người dân, doanh nghiệp, HTX địa phương kinh doanh các sản phẩm, nông đặc sản vốn còn thiếu, yếu về mặt đầu ra.
Ngoài trang TMĐT, hiện nhiều đơn vị doanh nghiệp, HTX cũng bày tỏ mong muốn các cơ quan chức năng, chính quyền tỉnh có thể mở thêm những kênh truyền thông trực tuyến khác, nhằm tăng cường sự liên kết, đẩy mạnh giới thiệu, quảng bá rộng rãi hơn nữa những sản phẩm của địa phương sản xuất tới thị trường cả nước.
Để HTX tồn tại và phát triển, mỗi HTX phải có kế hoạch, phương án sản xuất kinh doanh phù hợp. Vậy nhưng do cả lý do khách quan và chủ quan, nhiều HTX vẫn sản xuất nhưng chưa biết kết quả ra sao. Điều này khiến sản phẩm hàng hóa của HTX khó đứng vững trên thương trường, HTX cũng rơi vào tình trạng bị động, chịu nhiều rủi ro.
Là một trong những HTX sản xuất lúa và nuôi tôm quy mô lớn ở Bạc Liêu với 383ha, thu hút gần 170 thành viên nhưng HTX nông nghiệp tổng hợp Ba Đình cho biết vẫn gặp những khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Ông Nông Văn Thạch, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX, cho biết thiếu vốn sản xuất, đầu tư máy móc sơ chế, đóng gói gạo là một trong những trở ngại của HTX. Điều này một phần là do HTX còn gặp khó khăn trong xây dựng phương án sản xuất kinh doanh nên dẫn tới chưa tiếp cận được với những đơn vị cho vay vốn.
Nhiều HTX chưa có phương án hiệu quả
Thống kê cho thấy đến 2023, cả nước có hơn 31.700 HTX, 158 liên hiệp HTX và 73.000 tổ hợp tác. Từ những con số này Ts Nguyễn Bích Thủy (Trường Đại học Thương Mại) cho biết, khoảng 60-70% HTX hoạt động hiệu quả, không thể không nhắc đến vai trò của việc xây dựng kế hoạch, phương án sản xuất kinh doanh. Ngược lại, có những HTX hoạt động khó khăn, hòa vốn hoặc lỗ một phần cũng vì chưa có phương án sản xuất kinh doanh rõ ràng, dài hơi. Hoặc có những HTX có phương án sản xuất kinh doanh nhưng chưa hiệu quả, không đủ sức thuyết phục nên không hấp dẫn được nông dân, thành viên và cũng khó thuyết phục đơn vị vay vốn, các dự án, doanh nghiệp đầu tư, hỗ trợ vay vốn.
Ông Ma Ngọc Thành, Giám đốc HTX nông lâm nghiệp Thổ Bình (Tuyên Quang) cho biết, phương án sản xuất kinh doanh tưởng là không quan trọng nhưng thực chất lại rất quan trọng với HTX.
Ngay tại Thổ Bình, dù phát triển nhiều dịch vụ, trải qua dịch bệnh và gặp không ít khó khăn trong sản xuất nông nghiệp nhưng nhờ lên phương án sản xuất kinh doanh cụ thể, HTX đã củng cố được hoạt động, thực hiện vừa tái sản xuất nông nghiệp, vừa phát triển được chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa, hỗ trợ đắc lực cho người dân làm nông nghiệp thông qua bảo đảm đầu vào và đầu ra, kết hợp với đầu tư chế biến nông sản. Từ đó, doanh thu và lợi nhuận được bảo đảm theo đúng kế hoạch. Việc tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ cũng thuận lợi hơn.
Lập kế hoạch sản xuất như một công cụ nâng cao hiệu quả sản xuất cho HTX.
“Phương án sản xuất kinh doanh giúp lãnh đạo HTX tổ chức, điều hành và cân đối sản xuất kinh doanh. Phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh còn giúp HTX kiểm soát vấn đề tài chính, tránh tình trạng doanh thu thì lớn nhưng lợi nhuận thì chẳng là bao”, ông Ma Ngọc Thành cho biết.
Khẳng định phương án sản xuất kinh doanh là cần thiết đối với một HTX nếu muốn hoạt động hiệu quả những ông Nguyễn Khải, Chủ tịch Liên minh HTX Đăk Nông, cho rằng việc này hiện đang được các HTX có nguồn nhân lực trẻ làm khá tốt. Còn những HTX có nhân lực lớn tuổi lại gặp nhiều khó khăn vì chưa biết lập kế hoạch sản xuất kinh doanh sao cho hiệu quả, phù hợp.
Do chưa có phương án sản xuất kinh doanh khả thi mà nhiều khi, HTX tham gia quá nhiều vào việc thực hiện sản xuất, kinh doanh. Cũng có khi HTX chỉ tập trung vào xử lý các vấn đề về tài chính trong ngắn hạn mà không có nhiều quỹ thời gian hoặc không phân bổ tài chính hợp lý để giúp các thành viên định hướng cho tương lai hoặc ngược lại.
Cần con số cụ thể cho từng giai đoạn
Tuy nhiên, nhiều HTX không lập được phương án sản xuất, kinh doanh có đủ sức thuyết phục cũng có lý do. Bởi hiểu một cách đơn giản, lập kế hoạch sản xuất kinh doanh chính là việc đánh giá nhu cầu và tiềm năng của thành viên, nông dân để họ có những kỳ vọng thực tế về những gì họ có thể cung cấp và những gì họ có thể có nhận lại.
Nhưng đối với các HTX, thành viên và ban giám đốc HTX điều này không dễ dàng vì họ rất khó lên kế hoạch sản xuất lúa hay rau màu trong một đợt hạn hán hoặc một đợt dịch hại sẽ xảy ra. Ngay như đợt dịch Covid-19 đã diễn ra, nhiều HTX cũng “trở tay không kịp” vì nhiều vấn đề xảy ra khá bất ngờ.
Dưới góc độ một doanh nghiệp đang liên kết với HTX và hỗ trợ HTX xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, bà Trung Thị Sơn, Giám đốc công ty cổ phần Đông Nam dược miền Trung, cho rằng thực tế nhiều điều khó có thể dự báo trước khiến HTX rơi vào tình trạng bị động. Nhưng xét về khía cạnh sản xuất kinh doanh thông thường, dường như ngành nông nghiệp không thay đổi nhiều về diện tích đất có sẵn, số lượng cây-con, hoặc vấn đề trả lãi suất cho một khoản vay là những con số HTX có thể dự kiến được một cách phù hợp. Việc tìm kiếm đầu ra, quảng bá nông sản cũng có thể dự trù hoặc có kế hoạch cụ thể nhờ chủ động hoặc tham khảo các dự báo về thị trường.
Một điều quan trọng hiện nay là với nhiều HTX có ban lãnh đạo lớn tuổi, việc làm một kế hoạch sản xuất hiệu qủa không hề dễ nên cần cung cấp, hỗ trợ cho nông dân, giám đốc HTX trong vấn đề này. Cụ thể là có thể tạo điều kiện cho HTX tham gia các khóa đào tạo về lập kế hoạch, phương án sản xuất kinh doanh.
Nhưng dù thể nào HTX cũng cần có mục tiêu sản xuất kinh doanh với những con số về chi phí, doanh thu, lợi nhuận, dự phòng, phát sinh cụ thể cho từng giai đoạn, từ đó làm nền tảng có những kế hoạch, mục tiêu về sau.
Ông Ưng Thế Lãm, chuyên gia tư vấn, giám đốc Công ty TNHH Tư vấn xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại Toàn Cầu, cho rằng có lập phương án sản xuất kinh doanh chi tiết, HTX mới biết mình thu lợi khoảng bao nhiêu sau quá trình đầu tư, tránh tình trạng mất tiền bạc, công sức sản xuất kinh doanh nhưng không biết mình có thu được lợi nhuận hay không hoặc không biết đầu ra tiêu thụ ở đâu.
Để giải quyết được điều này, một trong những việc HTX cần làm trong quá trình lập kế hoạch đó là lập bản đồ, bảng biểu chính xác của từng tài sản, kết hợp phân tích chi tiết nguồn nước và đất, hỗ trợ thành viên quyết định những loại cây-con thích hợp.
Chẳng hạn như một HTX chăn nuôi cần có kế hoạch cụ thể, một bảng ghi lại thời gian sinh và thời gian giao phối, theo dõi tốc độ tăng trưởng và lập kế hoạch thời gian tối ưu để bán vật nuôi ra thị trường. Việc thống kê, lưu dữ những thông tin trong sản xuất kinh doanh một cách đầy đủ có thể giúp HTX có những quyết định tốt hơn, từ đó có thể dẫn tới cải thiện đời sống cho nông dân. Chính vì vậy, cần ứng dụng công nghệ vào lưu trữ thông tin từ đó tạo thuận lợi cho lập kế hoạch cụ thể.