Khai phá tiềm năng, mở rộng cơ hội cho nông đặc sản Phú Bình

Ngày 25/11, Hội nghị xúc tiến, kết nối tiêu thụ sản phẩm gà đồi Phú Bình và các sản phẩm nông sản tỉnh Thái Nguyên 2023 đã được tổ chức nhằm lan tỏa các sản phẩm nông sản đặc trưng, từ đó tạo lợi thế cho người dân, HTX tiếp cận khách hàng, xây dựng thương hiệu, mở rộng đầu ra.

Phát biểu tại Hội nghị, ông Nguyễn Huy Hoàng, Phó Giám đốc Sở Công Thương nhấn mạnh, Thái Nguyên có tiềm năng phát triển nông nghiệp, góp phần phát triển kinh tế, thu nhập cho người dân. Trong đó, huyện Phú Bình được biết đến là địa phương có nhiều thế mạnh về phát triển nông nghiệp với nhiều sản phẩm như gà đồi Phú Bình, tương nếp Úc Kỳ, nếp Thầu Dầu…

Nhằm mở rộng đầu ra cho nông đặc sản địa phương, Hội nghị xúc tiến, kết nối tiêu thụ sản phẩm gà đồi Phú Bình và các sản phẩm nông sản tỉnh Thái Nguyên 2023 đã được tổ chức. Đây là một trong những giải pháp tích cực, thiết thực nhằm giải quyết hướng đi cho nông nghiệp, trong đó có sản phẩm gà đồi và các sản phẩm nông đặc sản trên địa bàn.

Ông Nguyễn Huy Hoàng, Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Thái Nguyên đánh giá Hội nghị sẽ giúp các sản phẩm đặc trưng của địa phương có đầu ra rộng hơn.

“Hội nghị sẽ tạo cơ hội giúp các đối tác được tiếp cận hợp tác với các HTX, người dân trong tiêu thụ gà đồi và các sản phẩm thế mạnh của địa phương, từ đó có các kế hoạch liên doanh liên kết trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kết nối cung cầu, phát triển thị trường trong nước cũng như đẩy mạnh Chương trình người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, ông Nguyễn Huy Hoàng chia sẻ.

Ông Lê Thanh Sơn, Chủ tịch UBND huyện Phú Bình cho biết, tổng đàn vật nuôi của huyện Phú Bình đang lớn nhất tỉnh, trong đó huyện có đến 4 triệu con gia cầm và có 25 sản phẩm OCOP. Đặc biệt, Gà đồi Phú Bình, tương nếp Úc Kỳ là những sản phẩm đã được cấp chứng nhận nhãn hiệu tập thể.

“ Vì vậy, việc tổ chức Hội nghị xúc tiến thương mại là lực đẩy, động viên các HTX, doanh nghiệp trong sản xuất để tiếp tục đầu tư, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và hướng đến xuất khẩu”, ông Lê Thanh Sơn nhấn mạnh.

Một trong những sản phẩm tiêu biểu của Phú Bình là gà đồi. Với nền tảng sẵn có cùng sự đầu tư trong suốt thời gian qua, huyện đã khuyến khích, thu hút 13 nghìn hộ tham gia chăn nuôi gà, chủ yếu là nuôi theo hình thức thả đồi.

Nhờ đẩy mạnh xây dựng các chuỗi giá trị hàng hóa gà đồi, đẩy mạnh chăn nuôi theo hướng an toàn, hữu cơ thông qua phát triển các HTX và hỗ trợ các HTX liên kết với HTX, HTX liên kết với doanh nghiệp, đến nay, sản phẩm gà đồi Phú Bình đã có thị trường tiêu thụ rộng khắp tại các cửa hàng, siêu thị và chợ đầu mối lớn trong và ngoài tỉnh.

Xác định gà đồi là một trong 8 sản phẩm chủ lực của địa phương, từ năm 2021 đến nay, huyện đã hỗ trợ người dân, HTX, doanh nghiệp phát triển chăn nuôi gà, đặc biệt là tham gia chương trình OCOP. Đến nay, toàn huyện đã có 8 cơ sở chăn nuôi gà đạt tiêu chuẩn VietGAP, 3 sản phẩm thịt gà đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao.

Tiêu biểu như HTX Gà đồi hữu cơ Tân Phú đã chú trọng chăn nuôi theo chuỗi giá trị hàng hóa, áp dụng quy trình chăn nuôi hữu cơ và đẩy mạnh sơ chế, chế biến các sản phẩm từ gà. Đến nay, HTX đã có 2 sản phẩm đạt OCOP 3 sao là Khô gà lá chanh và Gà đồi Tân Phú.

“HTX sẽ tiếp tục nghiên cứu để có thêm nhiều sản phẩm và các sản phẩm đó có giá trị hơn nữa”, ông Nguyễn Văn Tuyên, Giám đốc HTX thông tin.

Không chỉ có gà đồi, Phú Bình còn nổi tiếng với gạo nếp Thầu Dầu. Đến nay, sản phẩm này đã được cải tạo sản xuất theo hướng an toàn, khoa học, được công nhận nhãn hiệu tập thể. Gạo nếp Thầu Dầu đang được HTX dịch vụ nông nghiệp Hồng Kỳ liên kết với nhiều HTX khác để sản xuất cơm cháy, các loại bánh…

Ông Dương Văn Duy, Giám đốc HTX dịch vụ nông nghiệp Hồng Kỳ cho biết, HTX luôn chú trong đến vấn đề liên kết để mở rộng đầu ra để nâng cao thu nhập cho người dân, thành viên. Việc tham gia Hội nghị xúc tiến, kết nối tiêu thụ sản phẩm lần này giúp HTX có thêm nhiều cơ hội giới thiệu, ký kết hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp, siêu thị, và với cả các HTX trong và ngoài huyện.

Chủ tịch UBND huyện Phú Bình Lê Thanh Sơn khẳng định, xúc tiến thương mại sẽ giúp cung-cầu gặp được nhau.

Bên cạnh các sản phẩm chủ lực, huyện còn có nhiều sản phẩm chất lượng như trám đen, cao ngựa bạch, đậu đỗ, nhung hươu…. Các sản phẩm này đều được chú trọng sản xuất theo hướng hàng hóa, với sự dẫn dắt của các HTX. Nhiều sản phẩm đã được sơ chế, chế biến sâu, đầu tư bao bì, nhãn mác để đáp ứng nhu cầu thị trường.

Là một trong những đơn vị đang tham gia liên kết phát triển và tiêu thụ gà đồi Phú Bình, ông Nguyễn Hoàng Nguyên, Thành viên Hội đồng quản trị Tập đoàn Dabaco chia sẻ, việc liên kết với HTX, doanh nghiệp ở Phú Bình để sản xuất, tiêu thụ gà đồi đang đóng góp vào việc thúc đẩy chuỗi giá trị gà đồi của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp yên tâm hơn về nguồn nguyên liệu, mở rộng hợp tác đầu tư theo hướng bền vững.

Các HTX, doanh nghiệp, siêu thị ký kết hợp đồng hợp tác, tiêu thụ nông đặc sản của huyện.

Ông Dương Thế Hùng, Công ty TNHH Thái Hưng chi nhánh Thái Nguyên cho biết, siêu thị đã bày bán các sản phẩm của huyện Phú bình như gạo, tương, đậu, đỗ… Qua Hội nghị có thể thấy huyện có rất nhiều sản phẩm chất lượng cao, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Doanh nghiệp mong muốn tiếp tục tiếp cận được với các nhà sản xuất, các HTX và ký kết các hợp đồng hợp tác tiêu thụ để đưa các sản phẩm chất lượng của huyện đến với đông đảo người tiêu dùng.

Thời gian tới, huyện Phú Bình sẽ tiếp tục khuyến khích và tạo điều kiện để người dân, HTX phát triển chăn nuôi, sản xuất theo quy mô tập trung; liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị; đẩy mạnh quảng bá, kết nối cung – cầu tiêu thụ sản phẩm. Huyện phấn đấu đến năm 2025, sản lượng thịt gà hơi đạt 21.000 tấn; giá trị sản phẩm gà đạt gần 1,6 nghìn tỷ đồng/năm…

 

Theo Huyền Trang – Phạm Hòa – Vnbusiness.com

Nâng cao vai trò của kinh tế HTX trong thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững

Dưới sự chỉ đạo của Liên minh HTX Việt Nam, sáng 24/11, Diễn đàn “Phát triển mô hình kinh tế hợp tác xã, thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững” do Tạp chí Kinh Doanh tổ chức đã chính thức khai mạc tại Hà Nội.

Diễn đàn có sự tham dự của lãnh đạo các Bộ, ban, ngành: Ban Kinh tế Trung ương, Liên minh HTX Việt Nam, Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT), Vụ thị trường trong nước (Bộ Công Thương), lãnh đạo Liên minh HTX các tỉnh, thành phố; các Hiệp hội ngành nghề, doanh nghiệp, hợp tác xã; các chuyên gia, các nhà đầu tư, các tổ chức quốc tế,…

Diễn đàn “Phát triển mô hình kinh tế hợp tác xã, thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững”

“Đặt mục tiêu mỗi người dân là thành viên của ít nhất một HTX’

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân đánh giá Diễn đàn là cơ hội để lắng nghe tiếng nói của các doanh nghiệp, HTX thể hiện tâm tư nguyện vọng, đề xuất phát triển mô hình kinh tế tập thể, HTX theo hướng bền vững, trong đó ưu tiên HTX nông nghiệp, nâng cao chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp.

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân phát biểu khai mạc Diễn đàn.

Theo thống kê, hiện nay, cả nước có gần 30.000 HTX, trong đó HTX nông nghiệp chiếm tỷ trọng hơn 60%, với 3,5 triệu thành viên, tác động lớn về xã hội. Vì vậy, HTX nông nghiệp cần được đặc biệt quan tâm.

“Một đất nước muốn ổn định là phải quan tâm tới lĩnh vực này”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nhấn mạnh.

Tuy nhiên, lâu nay, nhiều người vẫn nghĩ rằng nói tới HTX thấy yếu thế, nghèo về nhiều thứ, nhân lực, tài lực, kinh nghiệm. Song, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nhìn nhận suy nghĩ này cần thay đổi vì HTX có nhiều “cái giàu”: giàu tính cộng đồng, tình cảm, liên kết, đất đai, nguồn lực con người. Thành viên HTX có rất nhiều kinh nghiệm.

“Có nông dân không học kỹ sư nhưng sáng tạo hơn kỹ sư, kinh nghiệm sản xuất của họ khiến nhà khoa học ngỡ ngàng”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nói.

Tuy vậy, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân cũng thừa nhận, cái yếu của HTX là liên kết sản xuất chuỗi từ sản xuất, phân phối. Hay nói cách khác, yếu nhất hiện nay là yếu quản trị.

Theo Chủ tịch Cao Xuân Thu Vân, HTX cần chính sách đặc thù chứ không phải chính sách ưu tiên. “Trên thế giới, vai trò của HTX rất quan trọng. Tại Hà Lan, thành viên HTX gấp 3 lần dân số, một người tham gia làm thành viên nhiều HTX. Còn ở Hàn Quốc, mô hình HTX có nhiều thành viên, giáo viên của họ là thành viên HTX, phụ huynh học sinh là thành viên HTX. Các nước trên thế giới cũng có HTX giáo dục, y tế. Đây là những vấn đề mà Việt Nam cần lưu ý”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nêu ví dụ.

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cũng kể những câu chuyện về HTX phát triển bền vững như một HTX trồng trái sầu riêng, nhưng thay vì bán tươi đã tạo thành bánh, thu hút các du khách nước ngoài tới trải nghiệm…

Liên minh HTX Việt Nam đại diện cho HTX, thực hiện quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp cho HTX. Và sâu xa hơn, “HTX cần nhìn lại mình, tìm ra điểm nghẽn của chính mình. HTX cần phát triển xử lý điểm nghẽn nào. Liên minh HTX tham gia xử lý vấn đề gì, cơ quan quản lý cần tham gia xử lý vấn đề gì”, Chủ tịch Cao Xuân Thu Vân nhấn mạnh.

Theo Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam, HTX phát triển bền vững mới giúp nông nghiệp Việt Nam thoát khỏi tình cảnh manh mún tự phát. HTX phải biết phát triển vùng nguyên liệu, mà câu chuyện này rất cần sự hỗ trợ của các bộ ngành.

Chuyển đổi xanh, HTX nông nghiệp sẽ có nhiều cơ hội phát triển

Phát biểu tại Diễn đàn, TS. Vũ Mạnh Hùng, Phó vụ trưởng Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Ban Kinh tế Trung ương) cho biết, nông nghiệp bền vững phát triển hài hoà dựa trên 3 trụ cột: có sự tăng trưởng ổn định, lâu dài; bảo vệ môi trường và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm, hợp lý tài nguyên thiên nhiên; bảo đảm sự công bằng quyền và lợi ích giữa các bên tham gia hoạt động nông nghiệp và không làm ảnh hưởng tới lợi ích của các thế hệ trong tương lai.

TS. Vũ Mạnh Hùng, Phó vụ trưởng Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Ban Kinh tế Trung ương) khẳng định chuyển đổi xanh, HTX nông nghiệp sẽ có nhiều cơ hội phát triển.

TS. Vũ Mạnh Hùng chỉ ra 5 cơ hội phát triển cho các HTX khi chuyển đổi xanh.

Thứ nhất là có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và cả hệ thống chính trị. Điển hình là Nghị quyết số 20 của Ban Chấp hành Trung ương Khoá XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể đã chỉ đạo “có chính sách ưu tiên cho các tổ chức kinh tế tập thể trong lĩnh vực nông nghiệp, gắn hoạt động sản xuất kinh doanh với chuỗi giá trị sản phẩm, ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; ưu tiên phát triển các tổ chức kinh tế tập thể gắn với phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức”.

Thứ hai, Nhà nước có nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích, thúc đẩy, tạo cơ hội cho các HTX nông nghiệp chuyển đổi xanh như: Quyết định số 1658 về Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050”, với định hướng “phát triển nông nghiệp hiện đại, nông nghiệp sạch, hữu cơ bền vững, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của sản xuất nông nghiệp thông qua việc điều chỉnh, chuyển dịch cơ cấu vật nuôi, cây trồng, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và áp dụng các quy trình, công nghệ sử dụng tiết kiệm, hiệu quả giống, thức ăn, vật tư nông nghiệp, tài nguyên thiên nhiên…; đẩy nhanh tiến độ các dự án trồng rừng, tái trồng rừng, phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững”.

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09 về “Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/ 6/2022, Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới. Mục tiêu đến năm 2030 có khoảng 140.000 tổ hợp tác, với 2 triệu thành viên; 45.000 HTX với 8 triệu thành viên; 340 liên hiệp HTX với 1.700 HTX thành viên; bảo đảm trên 60% tổ chức kinh tế tập thể đạt loại tốt, khá. Trong đó, có ít nhất 50% tham gia liên kết theo chuỗi giá trị; có trên 5.000 HTX ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; phát triển các chuỗi giá trị nông sản hàng hóa gắn với liên kết sản xuất, cung cấp dịch vụ chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp…

Thứ ba, trong tiến trình chuyển đổi xanh, các HTX nông nghiệp sẽ có cơ hội nâng cao năng lực quản trị, năng lực nội tại của mình thông qua việc đào tạo nâng cao trình độ của cán bộ và lao động của HTX.

Thứ tư, các HTX nông nghiệp sẽ có cơ hội chuyển đổi, áp dụng công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường trong hoạt động nông nghiệp. Chuyển đổi xanh là xu hướng toàn cầu, ở đó các HTX nông nghiệp sẽ có cơ hội liên kết, hợp tác, tiếp cận mở rộng thị trường cả trong nước và quốc tế, từ đó mở rộng quy mô hoạt động của HTX, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường.

Thứ năm, chuyển đổi xanh thúc đẩy các HTX nông nghiệp gia tăng tiết kiệm chi phí thông qua việc giảm con giống, vật tư, nguyên liệu đầu vào, giảm tiêu hao, nâng cao lợi nhuận trong chuỗi giá trị nông nghiệp, mang lại lợi ích lớn hơn cho HTX và các thành viên.

Tuy vậy, Phó vụ trưởng Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khẳng định, quá trình chuyển đổi xanh cũng mang đến nhiều thách thức cho các HTX nông nghiệp như sự phát triển không đồng đều của HTX giữa các địa phương, vùng, miền dẫn đến việc các HTX khó hấp thụ được các cơ chế, chính sách chuyển đổi xanh như: chính sách đào tạo, các chương trình đào tạo, tích hợp nội dung tăng trưởng xanh trong hoạt động của HTX; các chính sách hỗ trợ thuế, tín dụng đối với việc giảm phát thải carbon.

Bên cạnh đó, chuyển đổi xanh trong nông nghiệp là quá trình hết sức khó khăn, đỏi hỏi sự kiên trì và quyết tâm chính trị rất cao, trong khi không ít thành viên tham gia hoạt động của HTX còn hình thức, chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ trong HTX.

Ngoài ra, năng lực nội tại của HTX còn yếu, hiệu quả hoạt động chưa cao, mô hình tổ chức lỏng lẻo, chưa phù hợp, trình độ cán bộ quản lý HTX còn hạn chế. Phần lớn HTX, tổ hợp tác có quy mô nhỏ, vốn ít, phạm vi hoạt động hẹp, năng lực cạnh tranh, lợi ích mang lại cho thành viên thấp dẫn đến khó áp dụng các công nghệ sạch, công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, phát thải carbon thấp; khó hấp thụ được các chính sách tín dụng, hỗ trợ vốn; khả năng chuyển đổi mô hình hoạt động kém linh hoạt.

Mặt khác, tính liên kết trong nội bộ HTX còn rất yếu, các hoạt động liên doanh, liên kết giữa các HTX và giữa HTX với các tổ chức kinh tế khác chưa phổ biến dẫn đến khả năng cạnh tranh dựa vào lợi thế quy mô kém.

TS. Vũ Mạnh Hùng cho rằng để nâng cao hiệu quả quá trình chuyển đổi xanh của các HTX nông nghiệp cần chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, các cơ chế, chính sách pháp luật của Nhà nước về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh đối với các HTX.

Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý quan tâm hỗ trợ các HTX thực hiện tốt các chương trình, đề án về phát triển xanh, nhất là “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050”; “Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 20, Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới”; Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025.

Song song với đó là tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với HTX, gắn liền với công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong phát triển HTX nông nghiệp.

Ngoài ra, cơ cấu lại nguồn lực thực hiện chính sách để đảm bảo nguồn lực được tập trung đúng và đủ cho các chính sách tạo động lực để HTX nông nghiệp tự thân phát triển bền vững như chính sách Hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ mới đối với HTX; Liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; Mở rộng thị trường; Tiếp cận vốn và Quỹ hỗ trợ phát triển HTX…

Bên cạnh các chính sách hỗ trợ của Chính phủ và cơ quan quản lý, TS. Vũ Mạnh Hùng cũng nêu rõ, các HTX nông nghiệp cần nâng cao ý thức sản xuất, tiêu dùng có trách nhiệm. Việc sản xuất có trách nhiệm chính là thực hiện sản xuất theo các tiêu chuẩn bền vững hoặc hướng tới bền vững và không làm hại tới môi trường.

“Ở đây chính là việc sử dụng hạn chế đầu vào như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, là sản xuất theo các tiêu chuẩn bền vững như VietGAP hay các tiêu chuẩn thế giới; sản xuất bền vững tiến tới áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế phát thải khí nhà kính. Việc chế biến tiêu dùng cũng cần phải thay đổi, các doanh nghiệp chế biến cũng phải đảm bảo những yêu cầu tiêu chuẩn chế biến, các tiêu chuẩn để đáp ứng các yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu…”, Phó vụ trưởng Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhấn mạnh.

Song song với đó, cần tăng cường tính liên kết giữa các chủ thể trong chuỗi giá trị nông nghiệp. Đặc biệt, cần phải có sự liên kết không chỉ doanh nghiệp, HTX và nông dân mà cần có sự tham gia mạnh mẽ của thành phần khác như doanh nghiệp cung cấp đầu vào, ngân hàng và sự tham gia của Nhà nước. Cùng với đó, cần phải có những chính sách thiết thực hiệu quả, để hỗ trợ sự liên kết này thông qua ưu đãi về thương mại, tín dụng, khoa học công nghệ, bảo hiểm, đất đai hay hỗ trợ xây dựng vùng nguyên liệu, đầu tư cơ sở hạ tầng.

Càng nhiều nông dân tham gia vào HTX, càng nhiều hộ được hưởng lợi ích 

Theo ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT), nông nghiệp tuần hoàn là một chu trình sản xuất khép kín, các chất thải được quay trở lại, trở thành nguyên liệu cho sản xuất, từ đó giảm mọi tác động tiêu cực đến môi trường, bảo vệ hệ sinh thái và sức khỏe con người.

Ông Thịnh chỉ ra một số mô hình phát triển HTX tiêu biểu như mô hình kinh tế sử dụng trấu làm chất đốt trong xay xát lúa tại Nhà máy xay xát gạo Vĩnh Bình – tỉnh An Giang. Mô hình này đang được áp dụng với nhà máy xay xát gạo với công suất 80.000 tấn/năm, tạo ra 16.000 tấn trấu (lượng trấu sẽ sử dụng vào việc sấy lúa cho nhà máy chiếm khoảng 50% (8.000 tấn trấu) và phần còn lại sẽ được chế biến thành thanh củi trấu bán ra thị trường)…

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT)

“Giảm tiêu thụ năng lượng tại các cơ sở xay xát-sấy lúa (50% dung sấy lúa trực tiếp, 50%-củi trấu bán cho các cơ sở chế biến để đốt lò hơi) – giảm chi phí năng lượng 30%, tăng lợi nhuận 400.000 đồng/tấn từ việc bán củi trấu (8.000 tấn x 400.000 đồng/tấn = 3,2 tỷ đồng/năm)”, ông Thịnh cho biết.

Hay mô hình kinh tế tuần hoàn Vườn – Ao – Chuồng – Rừng (VACR) tại Phú Thọ. Mô hình do một hộ gia đình tại xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa thực hiện, có diện tích trên 40ha. Đây là mô hình trang trại khép kín và người chăn nuôi có thể tận dụng triệt để nguồn nước, nguồn thức ăn, các loại chất thải để đem lại hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm được rất nhiều chi phí.

Đáng chú ý, Cục trưởng Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển nông thôn cho biết, Bộ NN&PTNT đang triển khai nhiều mô hình hỗ trợ phát triển HTX bền vững.

Cụ thể, Bộ NN&PTNT tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị quyết về phát triển HTX nông nghiệp trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, với mục tiêu “Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HTX nông nghiệp theo định hướng phát triển bền vững. Hiện nay, các địa phương đang khẩn trương xây dựng và ban hành chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết.

Bộ NN&PTNT cũng đang phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tham gia xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật HTX; xây dựng Nghị định về HTX; tham mưu, đề xuất các nội dung cần sửa đổi tại các Quyết định ban hành chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, HTX.

Đồng thời, Bộ cũng đang triển khai các chính sách, đề án, dự án, kế hoạch ưu tiên đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ NN&PTNT ban hành để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức kinh tế tập thể, HTX trong lĩnh vực nông nghiệp.

Đến nay, cả nước thực hiện các chuỗi liên kết – chế biến – tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp với 4 tác nhân tham gia liên kết có 286 tổ chức khoa học, 686.445 hộ nông dân, 4.228 HTX nông nghiệp tham gia liên kết với 2.167 doanh nghiệp trong sản xuất, thu hoạch chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp… Cả nước có 2.038 chuỗi liên kết được xây dựng theo quy định Nghị định 98, với 1.250 HTX nông nghiệp tham gia.

Bên cạnh đó, Bộ NN&PTNT xây dựng đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022-2025. Đề án đã đưa ra các nội dung, giải pháp phát triển triển các vùng nguyên liệu tập trung đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, trong đó tập trung phát huy vai trò, trách nhiệm của các HTX nông nghiệp trong việc kết nối từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Mục tiêu chính của Đề án là hình thành được 5 vùng nguyên liệu đạt chuẩn, quy mô tập trung với tổng diện tích khoảng 166.800 ha….

Đáng chú ý, Bộ NN&PTNT hỗ trợ hoạt động chuyển đổi số cho các HTX nông nghiệp, như tập huấn nâng cao nhận thức cho trên 1.400 cán bộ quản lý và thành viên HTX nông nghiệp ứng dụng phần mềm nhật ký sản xuất FaceFarm; Triển khai sàn giao dịch điện tử tiêu thụ sản phẩm cho HTX (thị trường xuất khẩu) sử dụng công nghệ blockchain (giúp dữ liệu không thể thay đổi, minh bạch quy trình, thông tin của sản phẩm); Xây dựng và quản lý thông tin, dữ liệu vùng nguyên liệu (Xây dựng và áp dụng phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu vùng nguyên liệu (cây ăn quả, gỗ rừng trồng, cà phê, trái cây, lúa gạo)…

Cục trưởng Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển nông thôn nhấn mạnh, quan điểm của Bộ NN&PTNT là quan tâm bao nhiêu nông dân trong khu vực HTX, càng nhiều nông dân tham gia vào HTX thì càng nhiều hộ được hưởng từ các chương trình hỗ trợ, trong đó có chiến lược phát triển bền vững.

“Nếu bình thường, HTX sinh ra là sửa đổi khiếm khuyết của thị trường, nhưng ở châu Á cứ 30-40 năm lại có một thế hệ HTX. HTX là công cụ phát triển nông nghiệp bền vững, khắc phục được công nghệ, vốn, thị trường…”, ông Thịnh nhấn mạnh. Đồng thời khẳng định, HTX tập hợp nông dân lại để tham gia vào thị trường, chứ nông dân không cạnh tranh với nhau.

Phát triển nông nghiệp bền vững không còn là vấn đề khuyến khích, mà trở thành yêu cầu bắt buộc

Bà Lê Việt Nga, Phó Vụ trưởng Vụ thị trường trong nước (Bộ Công Thương) đánh giá cao việc tổ chức Diễn đàn “Phát triển mô hình kinh tế HTX thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững”, là dịp để tuyên truyền xu hướng chính sách, ích lợi của sản phẩm nông nghiệp bền vững, khuyến khích sử dụng sản phẩm nông nghiệp bền vững tại Việt Nam.

Theo Vụ Thị trường trong nước, sản xuất xanh, xuất khẩu xanh, tiêu dùng xanh… đã và đang trở thành xu hướng phát triển trên toàn cầu. Tại các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như Hoa Kỳ, Châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…, người tiêu dùng ngày càng có xu hướng quan tâm nhiều việc bảo vệ môi trường bên cạnh chất lượng và giá cả sản phẩm. Tại các quốc gia phát triển này đã và đang triển khai chương trình phát triển xanh, khung pháp lý để nhập khẩu hàng hóa của các nước phải bảo đảm sản xuất xanh.

Bà Lê Việt Nga, Phó Vụ trưởng Vụ thị trường trong nước (Bộ Công Thương)

Bà Lê Việt Nga dẫn ví dụ như thị trường châu Âu (EU) – khu vực vốn được mệnh danh là thị trường tiềm năng nhưng rất khó tính, đang có xu hướng dịch chuyển rất mạnh sang tiêu dùng xanh, sạch, đòi hỏi đáp ứng các yêu cầu về kiểm dịch động thực vật, các quy tắc về truy xuất nguồn gốc, các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và quy trình đóng gói, vận chuyển.

Các yêu cầu hết sức khắt khe của thị trường EU mới được cập nhật và phổ biến rộng rãi đến cộng đồng doanh nghiệp tại Việt Nam bao gồm: Hướng dẫn 79/117/EEC của Ủy ban châu Âu (EC), dư lượng thuốc bảo vệ thực vật được phép tồn dư trên sản phẩm nhập khẩu vào EU rất thấp, gần như bằng 0; Quy định không gây mất rừng (EUDR) được EC thông qua ngày 16/5/2023; Các yêu cầu cầu nhà xuất khẩu phải tuân thủ các đạo luật về Thỏa thuận xanh châu Âu, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM)…

“Với nền kinh tế định hướng về xuất khẩu như Việt Nam, việc chuyển đổi xanh của các HTX, doanh nghiệp được xem là tất yếu và sống còn”, bà Nga nhấn mạnh.

Theo bà Nga, có thể thấy, phát triển nông nghiệp bền vững giờ đây không còn là vấn đề khuyến khích, mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc của nhiều thị trường xuất khẩu. Vì vậy, nếu Việt Nam muốn tận dụng được cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do để tăng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản vào các thị trường có yêu cầu cao như EU thì không thể không quan tâm đến các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững.

Đối với thị trường trong nước, bà Nga cho biết, trong 15 năm gần đây, xu hướng tiêu dùng các sản phẩm xanh, thân thiện môi trường, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng ngày càng nhận được sự quan tâm của xã hội.

Theo điều tra của Công ty NielsenIQ năm 2023, theo thời gian, người tiêu dùng ngày càng coi trọng yếu tố bền vững, thân thiện môi trường khi mua sắm với 55% người được khảo sát coi yếu tố này là rất quan trọng và 37% coi là quan trọng.

Trước tình hình trên, Bộ Công Thương đã triển khai thí điểm các mô hình, hàng hóa được phân phối trong các hệ thống hiện đại luôn được doanh nghiệp phối hợp với các nhà cung ứng, trong đó có các liên minh HTX, HTX, hộ nông dân cùng nỗ lực kiểm soát nhằm đảm bảo đáp ứng các tiêu chí về hồ sơ chứng từ, quy trình sản xuất, trồng trọt, đặc biệt là nông sản được kiểm tra an toàn thực phẩm để đảm bảo chất lượng trước khi đến tay người tiêu dùng.

Cùng với sự phát triển của các chuỗi siêu thị, các kênh hiện đại, các chợ truyền thống cũng từng bước có sự thay đổi, nâng cấp để phù hợp với xu hướng phát triển. Trong thời gian qua, tại 63/63 tỉnh thành phố đã xây dựng và nhân rộng mô hình thí điểm chợ kinh doanh thực phẩm. Tới nay, trên cả nước đã có gần 200 mô hình chợ thí điểm bảo đảm an toàn thực phẩm. Tiêu chí chợ an toàn thực phẩm đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là một trong các tiêu chí để xét công nhận xã nông thôn mới nâng cao thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia về nông thôn mới giai đoạn 2021-2025.

Để phát triển sản phẩm nông nghiệp bền vững ở Việt Nam, Bộ Công Thương cho biết đang phát triển và kết nối hệ thống chợ đầu mối nông sản thành các đầu mối logistics, dịch vụ tổng hợp và cung ứng đầu vào cho sản xuất nông nghiệp; Nâng cao năng lực cho các tổ chức và cá nhân trong truy xuất nguồn gốc, ghi nhãn xuất xứ sản phẩm lương thực thực phẩm; Tăng cường các hoạt động thương mại điện tử, quảng bá, kết nối thị trường tiêu thụ lương thực thực phẩm theo chuỗi giá trị với các kênh thương mại điện tử, mạng xã hội…

Tuy vậy, đại diện Vụ Thị trường trong nước cũng cho rằng, cần các giải pháp tổng thể để hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế thúc đẩy phát triển bền vững, trong đó có phát triển bền vững nông nghiệp; Thực hiện quản lý năng lượng, giảm khí nhà kính, quản lý các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm bằng cách áp dụng mô hình sản xuất theo các tiêu chuẩn xanh đã được chuẩn hóa; Thúc đẩy hình thành các chuỗi liên kết giá trị, chuỗi giá trị sản phẩm bền vững, từ sản xuất đến thu mua – chế biến – bảo quản – tiêu thụ theo các tiêu chuẩn do thị trường đề ra, trong đó “có vai trò quan trọng của Liên minh HTX Việt Nam và các HTX đóng góp vào mục tiêu xây dựng nền kinh tế xanh và nước Việt Nam thịnh vượng”, bà Nga nhấn mạnh.

Tháo gỡ khó khăn về nguồn vốn để HTX phát triển bền vững

Ông Trần Khánh, Giám đốc Khối khách hàng doanh nghiệp Ngân hàng TMCP Bắc Á (BacABank) nhận định, mô hình kinh tế HTX có vai trò, vị trí quan trọng trong việc giải quyết việc làm, đảm bảo đời sống cho đông đảo người lao động.

HTX đóng vai trò là trung gian đầu mối, giúp cho các hộ sản xuất nhỏ tham gia vào chuỗi giá trị; cải thiện trình độ sản xuất, khuyến khích ứng dụng công nghệ cao và có thể kiểm soát rủi ro trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Ông Trần Khánh, Giám đốc Khối khách hàng doanh nghiệp Ngân hàng TMCP Bắc Á (BacABank)

Trên góc độ quản lý vĩ mô, HTX góp phần giải quyết vấn đề an ninh lương thực, tạo sự ổn định về chính trị – xã hội, hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế trong hội nhập quốc tế.

Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy đến cuối năm 2022, dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng đối với HTX, liên hiệp HTX đạt 6.316 tỷ đồng, với gần 1.200 HTX, liên hiệp HTX còn dư nợ. Tổng dư nợ của HTX, liên hiệp HTX mới chỉ chiếm 0,26% tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế. Và với 1.200 HTX, liên hiệp HTX còn dư nợ thì chỉ chiếm 0,5% số lượng HTX, liên hiệp HTX.  Ông Khánh cho rằng đây là một tỷ lệ khiêm tốn so với quy mô và đóng góp của loại hình kinh tế này.

Còn theo khảo sát của hệ thống Liên minh HTX thì chỉ có khoảng 10% số HTX được vay vốn của các Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX trung ương và địa phương; 0,5% số HTX tiếp cận được vốn vay của các tổ chức tín dụng, riêng các HTX nông nghiệp, tỷ lệ này còn thấp.

Do vậy, BacABank nhận thấy việc tiếp cận vốn của các HTX, liên hiệp HTX và các thành viên chưa tương xứng với quy mô và vai trò, đóng góp của HTX đối với nền kinh tế Việt Nam.

Ông Khánh cho hay, theo tìm hiểu của BacABank nói riêng và đánh giá chung của các tổ chức tín dụng thì việc tiếp cận vốn của HTX, liên hiệp HTX và các thành viên còn hạn chế. Nguyên nhân là do phương án sản xuất, kinh doanh khi đề xuất vay vốn chưa mang tính khả thi. Cùng với đó, năng lực tài chính, vốn tự có, phương tiện sản xuất, cơ sở vật chất… của HTX còn chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất, kinh doanh hiện nay.

Ngoài ra, các HTX thường không có tài sản bảo đảm khi vay vốn, một số ít HTX được thành viên dùng tài sản thế chấp để đảm bảo cho khoản vay, tuy nhiên giá trị thấp. Liên kết trong sản xuất của các HTX còn chưa tương xứng với số lượng, quy mô của HTX hiện nay.

Bên cạnh đó, việc hình thành các chuỗi liên kết sản xuất gắn từ đầu vào – sản xuất – tiêu thụ sản phẩm vẫn còn chưa thật sự lớn mạnh. Hiện cũng chưa có đầy đủ hệ thống sổ sách, báo cáo để đánh giá hiệu quả hoạt động.

Giám đốc Khối khách hàng doanh nghiệp chia sẻ, BacABank đang hướng đến các khách hàng phát triển bền vững, tập trung đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và an sinh xã hội như nông – lâm – ngư – nghiệp, dược liệu sạch,… là ngân hàng phục vụ tư vấn cho các khách hàng ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, nông thôn và các ngành phụ trợ cho nông nghiệp.

Vì vậy, thời gian qua, BacABank cũng đã nghiên cứu và xây dựng các gói sản phẩm, dịch vụ ngân hàng chuyên biệt cho từng loại hình HTX để cung cấp một cách linh hoạt các ưu đãi về lãi suất và thủ tục, phương thức giải ngân, thanh toán…; Đồng thời, ngân hàng còn là đầu mối kết nối, tư vấn về năng lực quản trị, khả năng áp dụng khoa học công nghệ giúp các HTX phát triển theo hướng nông nghiệp công nghệ cao.

Điển hình như “Sản phẩm cấp tín dụng cho HTX, Liên hiệp HTX” với những điều kiện về cấp tín dụng, Hồ sơ cấp tín dụng, điều kiện về tài sản bảo đảm phù hợp với đặc thù của HTX, liên hiệp HTX của Việt Nam.

Bên cạnh đó, với tính chất đa dạng về ngành nghề kinh doanh của loại hình kinh tế HTX tại Việt Nam, BacABank cũng đã triển khai các sản phẩm cấp tín dụng cho đối tượng bao gồm HTX hoạt động trong các ngành mà HTX Việt Nam hoạt động lớn mạnh như: Gạo, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, cà phê, sản phẩm tài trợ nhà cung cấp – là sản phẩm hướng tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung và HTX nói riêng trong chuỗi cung ứng cho các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn TH…

Song song với đó, BacABank có mạng lưới các chi nhánh phủ kín các địa bàn có mô hình HTX mạnh như: Hà Giang, Lạng Sơn, Yên Bái, Điện Biên, Lào Cai, Hoài Đức (Hà Nội), Hòa Bình, Sơn La, Nghệ An, Đà Lạt (Lâm Đồng), Cà Mau, Kiên Giang…

BacABank cũng liên tục đào tạo cho cán bộ tại các đơn vị để hiểu về hoạt động của HTX.

Đối với mảng khách hàng cá nhân, BacABank tiếp tục nghiên cứu để tài trợ cho các thành viên thông qua các HTX trồng dược liệu, gia công chế biến nguyên liệu cho các sản phẩm của Tập đoàn TH; đồng thời triển khai các sản phẩm tín dụng cá nhân tuỳ biến cho người nông dân như Cho vay sản xuất nông nghiệp trồng rau củ quả, Cho vay trồng và chăm sóc cây công nghiệp….

Để đạt được mục tiêu đồng hành cùng HTX, ông Trần Khánh đề xuất cơ quan quản lý HTX cần có chính sách hỗ trợ và tổ chức các khóa tập huấn, đào tạo cho cán bộ quản lý, thành viên làm công tác chuyên môn, kỹ thuật, tập trung vào các chuyên đề: Kỹ năng quản lý, điều hành HTX; Nâng cao năng lực lãnh đạo của HTX.

Đồng thời, tập huấn tìm hiểu về cách thức và quy trình vay vốn ngân hàng; Các kiến thức cơ bản trong vay vốn ngân hàng cho các HTX. “BacABank sẽ đồng hành phối hợp”, ông Khánh khẳng định.

Bên cạnh đó, đại diện BacABank kiến nghị, cần có các buổi kết nối hội thảo, diễn đàn để ngân hàng tham gia cùng các hiệp hội, liên hiệp HTX nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình tiếp cận vốn của HTX.

Những kinh nghiệm quý từ chuyển đổi nông nghiệp xanh của Hà Lan

Bà Lê Thị Thu Hiền, Giám đốc Agriterra Việt Nam cho biết, Hà Lan tự hào có nền nông nghiệp phát triển, với dân số 17 triệu người nhưng đứng thứ 2 về xuất khẩu nông sản sau Hoa Kỳ. Đây là quốc gia đứng thứ 4 trên thế giới về các sáng tạo nông nghiệp, hiện có 51 nghìn trang trại, với quy mô doanh thu trung bình 600.000 USD/năm.

Hà Lan đã có 150 năm phát triển HTX, chiếm 86% phần trong nông nghiệp, hiện tại có nhiều HTX phát triển mạnh mẽ, có công ty nằm trong HTX.

Theo bà Hiền, Hà Lan cũng phải đối mặt với thời tiết khắc nghiệt, và biến đổi khí hậu.

Bà Lê Thị Thu Hiền, Giám đốc Agriterra Việt Nam.

Chính phủ Hà Lan đã đặt mục tiêu 2030, tất cả các tổ chức nông nghiệp trong đó có HTX ứng phó biến đổi khí hậu; Chiến lược chính sách nông nghiệp của Hà Lan là tăng diện tích sản xuất nông nghiệp hữu cơ…

Các HTX tại Hà Lan hiện nay cũng đã ứng dụng sản xuất xanh, thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu. Điển hình là công ty FrieslandCampia, gần như toàn bộ trang trại nuôi bò sữa là thành viên HTX. Đáng chú ý, HTX có chiến lược nuôi dưỡng hành tinh xanh với 100% các trang trại vận hành bằng năng lượng gió, năng lượng mặt trời; Đồng thời, HTX triển khai đồng cỏ đa dạng sinh học…

Từ những mô hình chăn nuôi xanh giúp HTX, thành viên, nông dân có thu nhập tốt hơn để duy trì hoạt động kinh doanh lành mạnh và phát huy sáng kiến.

Đồng thời, người tiêu dùng cá nhân, các đơn vị phân phối, ngành công nghiệp thực phẩm cần trân trọng giá trị của thực phẩm, tránh tạo ra rác thải.

Ông Võ Văn Vang, Giám đốc Vùng nguyên liệu An Giang – Tập đoàn Lộc Trời.

Ông Võ Văn Vang, Giám đốc Vùng nguyên liệu An Giang cho biết, Tập đoàn Lộc Trời đang làm việc với bà con nông dân, HTX trên toàn Việt Nam. Với sứ mệnh cùng nông dân phát triển bền vững, 5 điểm trọng tâm của Lộc Trời là: kinh doanh vật tư nông nghiệp, kinh doanh giống, cơ giới hóa phục vụ sản xuất nông nghiệp, lương thực, nghiên cứu giống.

Trong thời gian qua, Lộc Trời có thành công bước đầu là tổ chức vùng nguyên liệu với quy mô 300.000 ha ở Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên…, làm việc với 100 liên hiệp, HTX.

“Lộc Trời cùng địa phương thành lập 5 liên hiệp HTX, tiên phong cam kết với các tỉnh điều hành liên hiệp, HTX. Lộc Trời sẽ trả lương để các thành viên quản lý và cam kết thu mua toàn bộ nguyên liệu, xây dựng hiệu quả kinh doanh”, ông Vang thông tin.

Thêm vào đó, Lộc Trời thực hiện mô hình bền vững từ năm 2018. Trong đó, doanh nghiệp thực hiện cánh đồng không dấu chân, lúa hữu cơ, lúa mùa nổi, đem lại lợi ích cho nông dân, giảm phát thải. Lộc Trời cũng cơ giới hóa toàn bộ vùng nguyên liệu, tự đầu tư 200 máy nông nghiệp, máy bay không người lái phục vụ vùng nguyên liệu liên kết với nông dân.

Đặc biệt, Lộc Trời đang thực hiện chuyển đổi số, số hóa thực hiện trên điện thoại thông minh từ ký hợp đồng sản xuất, đặt hàng vật tư nông nghiệp, xác định giá bán.

Ngoài ra, Lộc Trời liên kết với ngân hàng để cấp vốn, đầu tư sản xuất, thu mua lúa, thông qua hợp đồng liên kết sản xuất để bà con nông dân vay tín chấp.

Để phát triển bền vững, Lộc Trời đang đồng hành với chương trình 1 triệu ha lúa chất lượng cao, đã ký cam kết với 4 tỉnh An Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, nhưng còn nhiều việc phải làm. Vì vậy, Tập đoàn kiến nghị các bộ ngành hỗ trợ kết nối với địa phương khác, đồng hành với dự án.

Thứ hai, Lộc Trời không thể một mình liên kết với nông dân, HTX mà cần sự ủng hộ lớn về chủ trương, đường lối, hỗ trợ của các cấp địa phương.

Thứ ba, Lộc Trời đang liên kết với gần 100 HTX, có những HTX đủ mạnh nhưng cũng có HTX chưa tương xứng. Vì vậy, cần nâng tầm, kết nối liên kết HTX để thực hiện thành công vùng nguyên liệu.

Bên cạnh đó, Lộc Trời cũng đẩy mạnh công tác đào tạo nhân sự. Tuy nhiên, doanh nghiệp rất mong sự hỗ trợ của các Bộ ngành tập huấn, đào tạo nguồn nhân lực cho các HTX.

Về chính sách đặc thù, Lộc Trời tâm đắc với 2 chính sách đã ban hành về hỗ trợ liên kết, kết nối với địa phương nhưng việc giải ngân, thủ tục nhiêu khê. Thực tế, hiện HTX và nông dân được giải ngân chỉ đếm trên đầu “ngón tay”. Theo đó, Lộc Trời mong muốn các các bộ ngành tháo gỡ nút thắt này.

Cũng liên quan tới tín dụng, Lộc Trời đã tìm đến các ngân hàng, làm sao cung cấp tín dụng thông qua chuỗi liên kết, cho vay dựa trên tín chấp.

“Hiện nay, để mua lúa được thì phải dùng tài sản thế chấp. Nhưng vùng nguyên liệu 300ha lớn nên không đủ tài sản để vay vốn”, ông Võ Văn Vang chia sẻ.

TikTok đồng hành cùng nông dân, HTX

Theo ông Nguyễn Lâm Thanh, CEO TikTok Việt Nam, năm 2022, TikTok triển khai nền tảng thương mại điện tử cho phép người dùng bán trực tiếp sản phẩm và nhà sản xuất có thể bán hàng trực tiếp trên nền tảng. Hiện nay, mỗi ngày có trên 1 triệu đơn hàng, mô hình phù hợp với quy mô của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ, các HTX.

Hiện, TikTok triển khai hàng loạt chương trình hỗ trợ cho các sản phẩm vùng nông thôn nói riêng, trong đó có khu vực HTX. Điển hình, TikTok đã làm chương trình giới thiệu các sản phẩm OCOP.

Ông Nguyễn Lâm Thanh, CEO TikTok Việt Nam.

“Sản phẩm OCOP được Chính phủ đầu tư và tuyên truyền nhiều nhưng số lượng người biết đến còn rất hạn chế. Cách đây một năm, TikTok đã chạy từ khoá OCOP – đặc sản Việt Nam trên nền tảng để các chủ thể giới thiệu sản phẩm OCOP của mình”, ông Thanh cho hay. Trong 6 tháng vừa rồi có hơn 10.000 video giới thiệu về các sản phẩm OCOP với hơn 1 tỷ lượt xem.

“Đây là một con số rất lớn, trong thời gian ngắn”, ông Thanh nhận xét.

Cũng theo CEO Tik Tok Việt Nam, nhiều chủ thể OCOP đã trở thành những nhà bán hàng thành công. Điển hình, tại HTX Ba khía Đầm Dơi (Cà Mau), sau khi giới thiệu cách ăn ba khía trên nền tảng Tik Tok, mỗi ngày HTX bán hết tất cả các sản phẩm của HTX đã được sản xuất. Hiện nay, HTX đang xây kho để mở rộng thêm.

Tương tự, HTX Vườn nhà Đà Lạt giới thiệu rau củ quả tươi sống ở Đà Lạt trên nền tảng TikTok, đến nay mỗi tháng HTX bán được 1,6-2 tỷ đồng rau củ quả tươi.

Doanh nghiệp mong không chỉ hình thành một HTX xanh, mà cần hình thành vùng sản xuất xanh 

Ông Nguyễn Khắc Tiến, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Ameii Việt Nam cho biết, doanh nghiệp chuyên xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp, trong đó chủ lực là vải thiều đưa sang các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU…

Để xuất khẩu sang thị trường khó tính, điều đầu tiên là doanh nghiệp phải phát triển vùng nguyên liệu sạch. Tuy nhiên, việc phát triển cũng không hề dễ.

“Giai đoạn đầu rất khó khăn. Bình thường, bà con sản xuất bao nhiêu, thương lái đóng hàng ngay vườn để xuất khẩu sang Trung Quốc, nhưng giờ buộc phải chuyển hướng sản xuất, ký kết hợp đồng với doanh nghiệp”, ông Tiến nói.

Ông Nguyễn Khắc Tiến, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Ameii Việt Nam.

Theo đó, doanh nghiệp phải đồng hành cùng với bà con nông dân, HTX chuyển đổi quy trình sản xuất. Đầu tư xanh là một khoản đầu tư cho tương lai không phải khoản chi phí, bởi bà con dùng phân bón hữu cơ để tiết kiệm chi phí.

“Chúng tôi nói với bà con rằng tham gia giá trị sản phẩm trên một đơn vị diện tích tăng, doanh nghiệp cam kết thu mua 10-20% giá trị, ứng trước một phần phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Doanh nghiệp đồng hành cùng bà con đưa ra sản phẩm bền vững, xanh”, Chủ tịch Ameii cho biết.

Thêm vào đó, doanh nghiệp, HTX phát triển xanh nhưng vùng xung quanh không chuyển đổi thì sản phẩm không đồng đều nên cần sự chung tay của cấp chính quyền, địa phương.

Theo ông Tiến, doanh nghiệp rất vất vả mới tìm được nguồn hàng. Sản phẩm vải thiều, cà rốt có những thời điểm không tìm được vùng nguyên liệu. Do vậy, “chúng tôi mong muốn không chỉ hình thành một HTX, mà cần hình thành vùng sản xuất xanh đồng bộ, ông Tiến nói.

Chủ tịch Ameii bày tỏ mong muốn doanh nghiệp đi đâu cũng có nông sản xuất khẩu được, chứ không phải đi đâu cũng phải test. Có thời điểm, công ty phải test 5 lần mới tin tưởng để xuất khẩu sản phẩm.

Liên quan tới nguồn vốn, doanh nghiệp cũng gặp khó khăn là chu kỳ từ khi hỗ trợ vật tư đầu vào cho bà con để xây dựng vùng liên kết đến thu hoạch kéo dài 9 – 10 tháng. Vì vậy, doanh nghiệp rất mong được ngân hàng tạo điều kiện cho vay với lãi suất ưu đãi, từ đó doanh nghiệp mở rộng liên kết.

Khó khăn của HTX là đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử

Bà Nguyễn Thị Bình, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX nông nghiệp Bản Dao (Hòa Bình) bày tỏ rất vui khi được tham dự Hội nghị. HTX được thành lập với mục đích phát triển mô hình kinh tế bền vững, tạo việc làm, bao tiêu sản phẩm làm ra cho người lao động. HTX còn tham gia triển khai nghiên cứu, bảo tồn cây dược liệu, cây gỗ quý hiếm.

Bà Nguyễn Thị Bình, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX nông nghiệp Bản Dao (Hòa Bình)

Hơn nữa là thành viên của Liên minh HTX Việt Nam, HTX được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, tập huấn kiến thức về phát triển KTTT, tham gia hội chợ thương mại…

Chình vì vậy, HTX có sản phẩm đạt OCOP 3 sao, 4 sao. Ngoài ra, nhiều sản phẩm đạt tiêu chuẩn thực phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm.

Cụ thể, năm 2020, HTX được Liên minh HTX Việt Nam hỗ trợ phát triển sản phẩm tinh dầu sả, đạt doanh thu cao, tăng lợi nhuận cho thành viên từ 10-12%..

HTX nông nghiệp Bản Dao còn phát triển các sản phẩm chế biến sâu như sữa rửa mặt thảo dược, dung dịch vệ sinh từ thảo dược…

Tuy vậy, bà Bình chia sẻ khó khăn lớn nhất đối với các HTX hiện tại đó là công nghệ số, đưa sản phẩm lên sàn thương mại gặp phải khó khăn. Với người nông dân thì việc cập nhật thông tin này hơi chậm, nghèo về kiến thức.

Thêm vào đó, Chủ tịch HTX Bản Dao cũng bày tỏ mong muốn được vay vốn ưu đãi, với thời gian dài hơn để vững bước trên con đường phát triển bền vững.

HTX mong có sự đồng hành, hỗ trợ trong phát triển nông nghiệp bền vững

Ông Hoàng Văn Thám, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc HTX rau quả sạch Chúc Sơn (Hà Nội) cho biết, HTX hướng đến nền sản xuất xanh. Tuy nhiên, hiện nay, HTX gặp khó khăn là thay đổi nhận thức cho người nông dân, nhưng khó khăn lớn hơn đó là thay đổi nhận thức cho đội quản lý.

“Để người nông dân tiếp cận chính sách và thay đổi nhận thức sản xuất xanh, sạch như thế nào cần quá trình. Hiện, HTX đang hợp tác với các tổ chức quốc tế như JICA để tạo môi trường xử lý phụ phẩm công nghiệp cũng như tạo mô hình công nghệ sinh thái. Tuy nhiên, dù đã diễn ra nhiều cuộc trao đổi, tập huấn nhưng hiệu quả chưa được cải thiện”, ông Thám nói.

Ông Hoàng Văn Thám, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc HTX rau quả sạch Chúc Sơn (Hà Nội).

Khó khăn tiếp theo được lãnh đạo HTX rau quả sạch Chúc Sơn nhắc đến đó là nguồn nhân lực. Hiện, HTX có 7 kỹ sư, nhưng nguồn nhân lực vẫn khó khăn. Bởi, HTX mời các bạn trẻ về làm việc rất khó. Ví dụ lĩnh vực marketing hay nhân viên kinh doanh, HTX sẵn sàng trả lương 10 triệu/tháng nhưng vẫn khó thu hút được lao động.

Thậm chí, ông Thám cho biết, thu hút nhân lực trình độ phổ thông cũng không dễ dàng. Hiện, HTX có 30 công nhân nhưng vẫn thiếu nên có thời điểm công nhân phải làm đến 12-14 tiếng/ngày để đủ sản phẩm cung cấp cho thị trường.

Ngoài ra, việc tích tụ đất đai và phát triển hạ tầng cũng gặp khó. “HTX tự bỏ tiền ra để làm đường bê tông vào khu sản xuất. Tuy nhiên, có nhiều công trình địa phương bỏ không, HTX có thể tham gia quản lý các công trình này nhưng nhận thức của lãnh đạo địa phương để giao các công trình này cho HTX quản lý lại là cả vấn đề, nên cần sự vào cuộc của Liên HTX Việt Nam và Liên HTX TP Hà Nội”, ông Thám kiến nghị.

Mặt khác, các HTX cũng đang rất khó khăn về nguồn vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.

Từ những khó khăn trên, ông Thám kiến nghị Liên minh HTX Việt Nam tạo cuộc vận động sâu rộng nhằm thay đổi nhận thức cho khu vực HTX về phát triển nông nghiệp bền vững, tăng trưởng xanh.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách thực chất hỗ trợ cho các HTX. “Thực tế, Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ cho các HTX, nhưng xuống địa phương và HTX với nông dân đã “rơi rớt””, ông Thám cho hay.

Ngoài ra, cần có cơ chế phát triển nguồn nhân lực cho các HTX, nếu thiếu nguồn nhân lực thì HTX sẽ không phát triển được, nguồn nhân lực quyết định sự thành bại đi lên của HTX.

Song song với đó, “thuyền trưởng” HTX rau quả sạch Chúc Sơn kiến nghị cần có chính sách thúc đẩy công nghệ cho HTX. “Hiện nay, chúng tôi đã ứng dụng công nghệ 4.0 trích xuất nguồn gốc, nhưng vẫn mong Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX TP Hà Nội giới thiệu các đơn vị uy tín về quản trị HTX, kế toán… để hỗ trợ phát triển HTX”.

Đồng thời, ông Thám kiến nghị hỗ trợ cho các HTX tiếp cận các quỹ phát triển công nghệ, khuyến nông, tín dụng…

Nông dân không phải chờ xuất khẩu mới làm sạch 

Phát biểu kết luận Diễn đàn, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân đánh giá các ý kiến đóng góp của doanh nghiệp, HTX rất sâu sắc, thể hiện tâm huyết của người tham gia.

Hiện, nhiều HTX đang phát triển bền vững, đạt được kết quả trên con đường xanh.

Điều đó cho thấy sự phát triển HTX thể hiện bằng con số và tăng trưởng cụ thể, cải thiện thu nhập của các thành viên.

Về chất lượng sản phẩm, để trả lời câu hỏi muốn mở rộng thì phải thế nào? Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam chia sẻ, bà có nói với nông dân rằng “không phải chờ xuất khẩu mới sản xuất sạch, mà sản xuất ra là ăn phải an toàn, đảm bảo đồng bộ chất lượng, phục vụ người Việt ở thị trường trong nước. Lúc đó mới phát triển được vùng nguyên liệu”.

Theo đó, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nhấn mạnh, cần phải phát triển HTX để xây dựng vùng nguyên liệu lớn. Các cấp, ngành địa phương vận động bằng được việc phát triển các HTX, nông dân trở thành thành viên của HTX.

Tiếp tới, HTX phải có hệ sinh thái thì mới đánh giá được HTX tốt, khá, vùng nguyên liệu ra sao.

Đặc biệt, HTX phải liên kết với doanh nghiệp để tạo thành chuỗi giá trị, và phải có nguồn nhân lực tốt về quản trị, thường xuyên được đào tạo về kiến thức. Các HTX cần cùng nhau để liên kết, phân vai nhiệm vụ để tăng tính hiệu quả.

Về vốn, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cho biết, đối với thành viên là Hội nông dân, thì cần thành lập chi hội nghề nghiệp để vay vốn. Đồng thời, HTX có thể vay vốn từ các Quỹ tín dụng nông dân. Nếu HTX mạnh, thì ngân hàng phải xem mình là đối tác.

“Tôi xin nhắc một lần nữa, HTX không bao giờ yếu mà rất mạnh, rất nhiều thành viên. Đơn cử như một HTX phát triển nghêu sạch có tới cả ngàn thành viên, giúp nhau thoát nghèo, cùng nhau phát triển kinh tế”, Chủ tịch Liên minh HTX chia sẻ. HTX có thể bắt đầu làm từ những việc nhỏ, để phát triển bền vững trong tương lai.

 

Theo Thuý Hoa – Vnbusiness.com

Liên minh Hợp tác xã các tỉnh, thành phố trong Cụm Đồng bằng sông Hồng tổng kết phong trào thi đua năm 2023 và ký kết giao ước thi đua năm 2024

Chiều ngày 18/11/2023, tại thành phố Phủ Lý (tỉnh Hà Nam), Liên minh Hợp tác xã (HTX) các tỉnh, thành phố trong Cụm Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) tổ chức hội nghị tổng kết phong trào thi đua năm 2023 và ký kết giao ước thi đua năm 2024

Toàn cảnh hội nghị

Dự  hội nghị có các đồng chí: Cao Xuân Thu Vân – Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam; Nguyễn Đức Vượng – Tỉnh ủy viên – Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban Chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể tỉnh; Đỗ Xuân Trường – Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh – Trưởng Khối thi đua Liên minh HTX các tỉnh, thành phố trong Cụm ĐBSH năm 2023; lãnh đạo Liên minh HTX các tỉnh, thành phố trong Cụm ĐBSH…

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đức Vượng phát biểu chào mừng hội nghị

Phát biểu chào mừng hội nghị, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đức Vượng đã giới thiệu về tiềm năng, thế mạnh, những kết quả nổi bật trong phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Hà Nam năm 2023. Phó Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh: Những năm qua, Liên minh HTX tỉnh Hà Nam đã bám sát các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, nhiệm vụ được UBND tỉnh giao, chủ động trong công tác phối hợp với các sở, ngành, địa phương làm tốt công tác tham mưu cho chính quyền địa phương, Ban Chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể chỉ đạo hoạt động lĩnh vực kinh tế tập thể, HTX của tỉnh. Trên địa bàn tỉnh tiếp tục có nhiều mô hình HTX mới, năng động trong cơ chế thị trường, huy động được các nguồn lực để đầu tư, tích cực ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh, mạnh dạn kết nối, khẳng định khá rõ nét hướng đi và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của HTX. Phó Chủ tịch UBND tỉnh trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Liên minh HTX Việt Nam đã quan tâm và đồng hành với tỉnh Hà Nam và Liên minh HTX tỉnh Hà Nam trong những năm qua. Phó Chủ tịch UBND tỉnh mong rằng Liên minh HTX Việt Nam tiếp tục quan tâm tạo điều kiện để Liên minh HTX tỉnh Hà Nam và các tỉnh trong cụm ĐBSH ngày càng phát triển. Đồng thời tin tưởng Liên minh HTX các tỉnh cụm ĐBSH sẽ không ngừng đổi mới, phát huy những kết quả đạt được, nghiêm túc khắc phục kịp thời những tồn tại, hạn chế; tăng cường hỗ trợ, mở rộng liên kết, đẩy mạnh hợp tác vì sự nghiệp phát triển của các thành viên; quyết tâm vượt qua thách thức, thi đua hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Năm 2023, Liên minh HTX các tỉnh, thành phố trong cụm ĐBSH đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu đề ra; chủ động tham mưu với Tỉnh ủy, Thành ủy, UBND, Ban Chỉ đạo kinh tế tập thể cấp tỉnh, Liên minh HTX Việt Nam về công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, của tỉnh về kinh tế tập thể. Tăng cường công tác tuyên truyền, hoạt động hỗ trợ nhằm đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, HTX. Phát huy hiệu quả công tác phối hợp với các sở, ban, ngành, đoàn thể đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ, xây dựng mô hình HTX, tổ hợp tác hoạt động hiệu quả, có sức lan tỏa mạnh mẽ, tham gia xây dựng nông thôn mới và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế – xã hội ở cơ sở. Nhờ đó, kinh tế tập thể, HTX các tỉnh ĐBSH cơ bản hoạt động ổn định, tiếp tục phát triển về số lượng, chất lượng hoạt động. Tính đến hết ngày 31/10/2023, các tỉnh trong cụm đã thành lập mới 227 HTX; nâng tổng số toàn cụm lên 2.288 tổ hợp tác, 4.647 HTX, 24 Liên hiệp HTX. Toàn cụm đã tổ chức cho 677 lượt HTX tham gia các hội nghị xúc tiến thương mại do Liên minh HTX Việt Nam, Liên minh HTX tỉnh, thành tổ chức; tổ chức 17 Hội nghị kết nối cung cầu, tọa đàm về phát triển kinh tế tập thể, HTX…

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân phát biểu tại hội nghị

Phát biểu tại hội nghị, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân đề nghị: Liên minh HTX các tỉnh, thành phố trong Cụm ĐBSH tiếp tục chủ động, sáng tạo, xây dựng chương trình công tác, cụ thể hóa các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra; triển khai kịp thời các chính sách hỗ trợ, phát triển kinh tế tập thể, HTX, nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh, dịch vụ của HTX. Tiếp tục mở rộng tập hợp đoàn kết thành viên, bám sát cơ sở, hỗ trợ, tạo điều kiện để phát triển khu vực kinh tế tập thể; liên kết tiêu thụ sản phẩm gắn với lễ hội; quan tâm thí điểm loại hình HTX giáo dục, HTX giao thông, HTX chuyển đổi số…; liên kết, quảng bá, trao đổi kinh nghiệm, xúc tiến thương mại, góp phần để kinh tế tập thể, HTX tiếp tục đổi mới, phát triển hơn nữa…

Liên minh HTX các tỉnh, thành phố trong Cụm ĐBSH ký kết giao ước thi đua năm 2024

Tại hội nghị, Liên minh HTX các tỉnh, thành phố trong Cụm ĐBSH đã ký kết giao ước thi đua năm 2024./.

Theo Lương Hậu – Theo vca.org.vn

 

Để HTX không còn gặp ‘hạn hán’ trên cánh đồng chuyển đổi số

Các HTX hiện nay hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp nên việc chuyển đổi số cần phù hợp với lĩnh vực này thay vì áp đặt những mô hình chuyển đổi số ở những lĩnh vực khác vào ngành nông nghiệp khiến HTX dở dang trên con đường ứng dụng công nghệ.

Chuyển đổi số trong nông nghiệp là một trong những lĩnh vực ưu tiên trong chuyển đổi số quốc gia. Trong đó, người nông dân là trung tâm của chuyển đổi số.

HTX chưa là trung tâm chuyển đổi số?

Tuy nhiên theo các HTX, nhiều ứng dụng, công nghệ hiện nay chưa thực sự hướng đến người nông dân nên chưa tạo ra được ứng dụng rộng khắp trong nông nghiệp. Lấy ví dụ về vấn đề này, ông Trần Quang Võ, Phó Giám đốc HTX Nông nghiệp hữu cơ Sơn Lâm (Tuyên Quang) cho rằng, trong chăn nuôi hiện rất có rất nhiều ứng dụng như: Pigmania (Australia), Porcitec (Tây Ban Nha), Vietpig (Viện Chăn nuôi)…

Tuy mỗi phần mềm có một ưu điểm nhưng theo ông Võ, các ứng dụng này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế về quản lý giống tại các HTX nên gây nhiều khó khăn cho thành viên khi ứng dụng. Có phần mềm không cho dùng thử, phải mất thêm phí khi đồng bộ hóa với các thiết bị khác, có phần mềm đưa ra các yêu cầu quản lý quá rườm rà, mang nặng tính lý thuyết… Đặc biệt là các ứng dụng từ nước ngoài còn bất cập về ngôn ngữ, chi phí chuyển giao phần mềm cao nên gây khó cho người nông dân.

Ông Nguyễn Quốc Hưng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị HTX Nông nghiệp-dịch vụ Ia Ring (Gia Lai) cho biết, ngay việc ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm thôi nhưng sử dụng công nghệ châm phân tự động loại nào để phù hợp với cây trồng, nâng cao được giá trị sản xuất thì không phải người nông dân nào cũng biết. Trong khi trên thị trường có rất nhiều công nghệ châm phân với xuất xứ khác nhau.

Ông Hưng cũng cho rằng, có rất nhiều ứng dụng tích lũy tiền được các nhà sản xuất giới thiệu như Infina, MoMo, ZaloPay… nhưng rủi ro từ lừa đảo trên không gian mạng quá nhiều đi liền với các tranh chấp liên quan với các đơn vị cung cấp. Trong khi thực tế nhiều trường hợp gặp rủi ro nhưng chắc chắn chịu phần thiệt nên dù biết những ứng dụng này tiện dụng nhưng các thành viên HTX cũng hết sức e dè.

Có lẽ rất nhiều HTX mong muốn và hiểu được hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số vào trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, không phải họ muốn là có thể thực hiện được.

Nhiều HTX cho rằng hiện nay có rất nhiều công nghệ mới ra đời và khi họ đầu tư vào công nghệ mới cũng chính là đánh cược cả trang trại, vốn liếng vào đó. Đầu tư công nghệ có thể mang lại hiệu quả cao nhưng cũng có những rủi ro nhất định khiến họ gặp hiểm họa về tài chính. Trong khi các app về công nghệ phát triển nhanh chóng nhưng nông nghiệp lại luôn tiềm ẩn về rủi ro. Ngay cả sản xuất trong nhà kính nhưng không có nghĩa là rau màu không có dịch bệnh hay ứng dụng cảm biến nhiệt độ, dự báo thời tiết nhưng cũng không thể tránh được sự khắc nghiệt của thiên tai dịch bệnh.

Đặc biệt, trong quá trình ứng dụng công nghệ, các app điện tử, nông dân không thể tự khắc phục được các sự cố về máy móc, cảm biến… Thay vào đó, nông dân, thành viên HTX cần sự trợ lực ngay của những người có trình độ chuyên môn. Nếu điều này không được giải quyết trong thời gian phù hợp có thể gây thiệt hại lớn về kinh tế.

Cần coi nông dân, HTX là trung tâm của quá trình chuyển đổi số trong ngành nông nghiệp để có những hỗ trợ phù hợp hơn.

Tuy nhiên theo các chuyên gia, hiện các doanh nghiệp đầu tư công nghệ, sản xuất ra các ứng dụng nông nghiệp vẫn chưa tập trung vào việc giải quyết nhanh chóng những khó khăn, gián đoạn, khiếu nại trong ứng dụng kỹ thuật nên không tạo được niềm tin, sự hứng khởi cho nông dân, HTX trong chuyển đổi số.

Chia sẻ trong một tọa đàm gần đây, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân cho rằng, một trong những rào cản trong chuyển đổi số của HTX, nhất là những HTX ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi đó là họ mới chỉ khởi đầu của quá trình này bằng điện thoại, chưa có nhiều các công nghệ hiện đại mang tính đồng bộ, thậm chí nhiều nông dân, HTX vẫn còn chưa có điện thoại thông minh. Việc ứng dụng công nghệ bằng máy tính, máy in, các công nghệ tự động vẫn còn khiêm tốn. Đi liền với đó là công tác quản trị, quảng bá về chuyển đổi số vẫn còn lỏng lẻo.

Thống kê của Bộ TT&TT cũng cho thấy, tỷ lệ người dân ở nông thôn, miền núi hiện dùng điện thoại thông minh vẫn còn thấp, chỉ khoảng 30% (bằng một nửa so với mức bình quân chung của cả nước). Và khi người dân không có điện thoại thông minh thì việc khởi đầu cho quá trình chuyển đổi số đã gặp khó khăn.

Cần tính hiệu quả trong ứng dụng công nghệ

Hiện, 65% dân số Việt Nam đang ở khu vực nông thôn. Những năm gần đây, nông nghiệp vẫn là trụ đỡ quan trọng của nền kinh tế. Ngay như năm nay, khi nhiều ngành như dệt may, gỗ… gặp khó khăn do suy thoái kinh tế thì nông nghiệp vẫn khẳng định được thế mạnh của mình khi giá trị xuất siêu 10 tháng năm 2023 đạt 9,3 tỷ USD, tăng 26,2% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong sự phát triển của ngành nông nghiệp, không thể không nhắc đến nền tảng của các HTX trong chuỗi giá trị hàng hóa. Do đó, để HTX tiếp tục phát triển cần đẩy mạnh chuyển đổi số cho khu vực này. Nhưng để chuyển đổi số hiệu quả cho các HTX thì điều cần làm là phải coi nông dân, HTX là trung tâm của quá trình này. Nông dân, HTX thực chất không cần quá nhiều công nghệ, ứng dụng mới mà điều quan trọng là họ quan tâm nhiều hơn đến tính hiệu quả trong quá trình triển khai, ứng dụng công nghệ.

Ông Phan Thanh Trung, Giám đốc Công ty Cổ phần Airnano Việt Nam, cho biết các HTX muốn chuyển đổi số hiệu quả cần có sự đồng hành dẫn dắt từ chính các doanh nghiệp, đơn vị nghiên cứu công nghệ trong việc chuyển giao khoa học kỹ thuật và sự đồng hành của các cấp quản lý trong việc hoàn thiện, tháo gỡ cơ chế.

Để làm được điều này, các đơn vị cung cấp nền tảng số cần phải hiểu những khó khăn, mong muốn của các HTX cũng như tìm hiểu sâu hơn về các chu kỳ phát triển của cây trồng vật nuôi. Có như vậy mới thu hẹp được khoảng cách giữa công nghệ nghiên cứu và thực tế sản xuất kinh doanh trong ngành nông nghiệp. Không thể áp dụng các công nghệ của nước ngoài, các doanh nghiệp sản xuất lớn để ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao cho nông dân, HTX ở trong nước. Và mỗi HTX ở từng lĩnh vực khác nhau như trồng lúa, chăn nuôi, thủy sản cũng cần có những công nghệ ứng dụng phù hợp.

Còn theo Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân, cần có sự đầu tư cho chuyển đổi số trong nông nghiệp nhiều hơn mới có thể giúp HTX đi tắt đón đầu và thúc đẩy các HTX vùng dân tộc thiểu số ứng dụng công nghệ số hiệu quả. Trong khi không chỉ doanh nghiệp mà các cơ quan quản lý cũng đã khẳng định, kinh tế tập thể, HTX chính là mảnh đất màu mỡ, nhiều dư địa để chuyển đổi số vì chuyển đổi số trong khu vực này mới manh nha.

Và để giải quyết được bài toán này, một trong những yếu tố cần quan tâm nhất đó chính là nguồn vốn nên việc đẩy mạnh hỗ trợ các HTX đầu tư công nghệ. Đi liền với đó là cần có sự hỗ trợ trong nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để giúp các HTX thuận lợi trong ứng dụng công nghệ.

“Nếu có công nghệ mà không có nguồn nhân lực thì các doanh nghiệp, người dân ở thành phố, vùng đồng bằng còn khó chuyển đổi số chứ không nói đến người dân, HTX ở vùng sâu vùng xa. Đây là bài toán cần các cấp, các ngành chung tay nhằm giúp các HTX thu hút được nguồn lực chất lượng cao, từ đó tạo thuận lợi trong chuyển đổi số”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân nhấn mạnh.

Theo Huyền Trang – vnbusiness.vn

Công nghệ thông tin ‘chắp cánh’ cho HTX dân tộc miền núi vươn xa

Thương mại điện tử, công nghệ số đã và đang giúp người dân, HTX khu vực miền núi tiêu thụ nông sản, kinh doanh thuận lợi hơn nhưng vẫn còn nhiều nông sản, HTX ở vùng sâu vùng xa chưa tiếp cận được với nền tảng công nghệ hiện đại.

Ông Nguyễn Hoàng Anh, Giám đốc HTX sản xuất nấm ăn, nấm dược liệu Mù Cang Chải (Yên Bái) cho biết, tại địa phương có đến hơn 90% người dân là đồng bào dân tộc thiểu số nhưng các thành viên HTX đã biết bán hàng bằng điện thoại thông minh, máy tính.

Bước đầu ứng dụng công nghệ

Cũng nhờ kết nối internet mà thành viên HTX tiếp cận được với chuyên gia nông nghiệp ở nhiều nơi để hỗ trợ sản xuất cũng như học tập kinh nghiệm phát triển nông nghiệp ở trong và ngoài nước. Đặc biệt, thông qua các lớp đào tạo về ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số do Liên minh HTX tỉnh kết hợp với các ban ngành triển khai, không ít thành viên trong HTX đã biết chụp ảnh, quay video, viết bài giới thiệu sản phẩm trên mạng xã hội để quảng bá và tiếp cận khách hàng.

Chính vì vậy mà HTX đã hoạt động hiệu quả, tạo việc làm ổn định cho 10 thành viên với mức lương từ 6-8 triệu đồng/người/tháng và 60 lao động địa phương với mức thu nhập từ 150-200 nghìn đồng/ngày.

Chị Đoàn Thị Lương, Giám đốc HTX Chế biến kinh doanh tổng hợp Đoàn Lương (TP Yên Bái) chia sẻ, ngoài ứng dụng công nghệ vào chế biến các sản phẩm từ quả táo mèo theo hướng hiện đại khép kín, việc sử dụng công nghệ trong tiếp cận khách hàng đã giúp HTX có cơ hội xúc tiến thương mại, đưa sản phẩm đến các thành phố lớn và cả ở nước ngoài.

Tại Tọa đàm “Ứng dụng công nghệ thông tin cho các tổ hợp tác, HTX vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi” ngày 22/11, ông Đỗ Nhân Đạo, Chủ tịch Liên minh HTX Yên Bái chia sẻ, thời gian qua, không ít HTX trên địa bàn tỉnh và ở vùng miền núi đã ứng dụng công nghệ thông tin vào sản xuất kinh doanh, từ đó thúc đẩy phát triển thương mại nội địa và xuất khẩu.

Tiêu biểu như HTX Kiến Thuận (Văn Chấn) là một trong những đơn vị đầu tàu trong ứng dụng công nghệ thông tin vào sản xuất kinh doanh và xuất khẩu giúp doanh thu tăng từ 10 tỷ đồng lên trên 20 tỷ đồng/năm.

Ứng dụng công nghệ thông tin giúp sản phẩm của các HTX ở miền núi đến gần hơn với khách hàng.

Nắm bắt cơ hội về kinh tế số, Tỉnh ủy Yên Bái đã ban hành Nghị quyết 51 và UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 86 về việc hỗ trợ đưa hộ sản xuất nông nghiệp lên sàn thương mại điện tử, thúc đẩy phát triển kinh tế số nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Yên Bái, Liên minh HTX tỉnh đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, hỗ trợ các HTX, tổ hợp tác mở tài khoản giới thiệu, mua, bán trên các sàn thương mại điện tử.

Đặc biệt, có những tổ hợp tác, HTX dù ở vùng miền núi, vùng sâu vùng xa nhưng đã ứng dụng công nghệ thông tin bắt đầu từ chiếc điện thoại thông minh cùng với sự thay đổi tư duy trong sản xuất kinh doanh. Đây được coi là nền móng quan trọng trên con đường chuyển đổi số, thích ứng thời đại 4.0 cho đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, theo đại diện các HTX, do hoạt động trên địa bàn đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhiều thành viên, người lao động trong hầu hết HTX vốn quen với cách sản xuất kinh doanh truyền thống nên khi ứng dụng công nghệ vào bán hàng còn gặp nhiều vướng mắc, bỡ ngỡ.

Ông Đàm Văn Việt, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX Thái Sơn (huyện Lục Yên, Yên Bái) cho biết, để người tiêu dùng nắm bắt thông tin và chất lượng sản phẩm nhanh nhất, các HTX không thể quảng bá, truyền thông theo kiểu truyền thống mà công nghệ thông tin chính là phương tiện hỗ trợ HTX quảng bá rộng, nhanh và hiệu quả nhất hiện nay.

Vậy nhưng, không phải HTX nào ở vùng miền núi cũng có thể dễ dàng làm được điều này. Bởi khi tiêu thụ nông sản bằng công nghệ hiện đại, dù là sản phẩm nào thì cũng phải có công bố đảm bảo chất lượng. Đi liền với đó khâu vận chuyển cần được quan tâm để bảo đảm thời gian cũng như chất lượng sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Thế nhưng, hiện nay, nhìn chung hệ thống giao thông ở các tỉnh miền núi chưa phát triển, gây khó khăn khi vận chuyển nông sản từ đồng ruộng về nhà máy, đến các điểm phân phối, kho bán hàng hiện đại.

Theo một số doanh nghiệp, hiện nhu cầu của người tiêu dùng đối với các sản phẩm đặc sản vùng miền và các sản phẩm nông sản an toàn rất lớn. Vậy nhưng có những thời điểm, nhu cầu thị trường về những mặt hàng này tăng thì năng lực cung ứng của các tổ hợp tác, HTX ở khu vực miền núi lại bị gián đoạn do quy mô và năng lực sản xuất còn hạn chế.

HTX là bệ đỡ trong chuyển đổi số 

Thực tế cho thấy, ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất kinh doanh giúp các HTX tiếp cận được đa dạng khách hàng, tiết kiệm nhiều chi phí bán hàng, marketing truyền thông, phân phối và tối ưu chi phí lưu kho.

Đặc biệt, HTX ở các tỉnh miền núi có lợi thế về đất đai để phát triển kinh tế hàng hóa trên quy mô lớn. Điều này buộc các HTX phải ứng dụng công nghệ thông tin vào trong tiêu thụ thì mới giải quyết được tình trạng dư thừa nông sản khi thu hoạch rộ. Trong khi mua hàng bằng công nghệ thông tin đã là hình thức quen thuộc đối với người tiêu dùng.

Chia sẻ tại Tọa đàm, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân khẳng định ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số giúp nông đặc sản của các HTX ở vùng miền núi phía Bắc có thể đến các vùng miền xa hơn. Tuy nhiên, muốn các HTX này chuyển đổi số hiệu quả thì các thành viên trong HTX cần thêm nhiều kiến thức và thông tin hơn nữa về cách sử dụng nền tảng số. Chính vì vậy, các ngành chức năng cần tiếp tục tạo điều kiện để các HTX nâng cao năng lực trong chuyển đổi số như hỗ trợ cơ sở vật chất, đào tạo tập huấn.

Đặc biệt, các thành viên HTX ở miền núi chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, vì vậy có những khó khăn trong tiếp cận chính sách hỗ trợ về ứng dụng thông tin, nên việc đẩy mạnh tuyên truyền bằng nhiều hình thức mới có thể giúp người dân, HTX tiếp cận được nguồn lực hỗ trợ.

Theo Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam, các cơ quan quản lý cần có cơ chế giúp HTX ở miền núi đưa sản phẩm đến gần với người tiêu dùng như có các chương trình cho vay ưu đãi để hỗ trợ HTX ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số. Đặc biệt là quan tâm hình thành các HTX do các bạn trẻ khởi nghiệp để xóa bớt những khó khăn và làm bệ đỡ trong chuyển đổi số vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Theo Huyền Trang – vnbusiness.vn

Tọa đàm “Ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ phát triển KT-XH cho các HTX, tổ hợp tác vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”

Chiều 22/11, tại Yên Bái, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh Yên Bái tổ chức Tọa đàm “Ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội cho các hợp tác xã, tổ hợp tác vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi năm 2023”

Xây dựng HTX là điểm kết nối cung cầu công nghệ, xúc tiến thương mại và chuyển đổi số cho các thành viên

Chiều 22/11, tại Yên Bái, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh Yên Bái tổ chức Tọa đàm “Ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội cho các hợp tác xã, tổ hợp tác vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi năm 2023”. Tham dự buổi Tọa đàm có đồng chí Cao Xuân Thu Vân, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.

Quang cảnh Tọa đàm

Tham dự Tọa đàm về phía tỉnh Yên Bái có đồng chí Nguyễn Thế Phước, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh; lãnh đạo Liên minh Hợp tác xã tỉnh Yên Bái và các tỉnh lân cận; cùng đại diện một số HTX, THT trên địa bàn tỉnh Yên Bái.

Phát biểu khai mạc Tọa đàm, đồng chí Nguyễn Thế Phước, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Yên Bái nhấn mạnh tỉnh Yên Bái luôn quan tâm và đã ban hành nhiều nghị quyết, chính sách quan trọng tạo cơ sở pháp lý để phát triển kinh tế tập thể.

Xác định được vị trí quan trọng của ứng dụng CNTT trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, thực hiện chuyển đổi số phù hợp với hạ tầng sản xuất, CNTT và trình độ nhân lực, nhiều HTX đã thích ứng và từng bước tham gia thành công vào chuyển đổi số. Hiện nay, đã có rất nhiều sản phẩm của các HTX trên địa bàn tỉnh đã được đưa lên các sàn thương mại điện tử.

Đồng chí Cao Xuân Thu Vân, Bí thư Đảng đoàn , Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và đồng chí Nguyễn Thế Phước, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Yên Bái chủ trì Tọa đàm

Tuy nhiên, công tác chuyển đổi số trong khu vực kinh tế tập thể còn nhiều khó khăn do trình độ, nhận thức về chuyển đổi số, ứng dụng CNTT của cán bộ lãnh đạo, thành viên, người lao động HTX còn hạn chế; cơ sở hạ tầng CNTT chưa đồng bộ, nhất là các HTX ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

“Buổi tọa đàm sẽ là cơ hội để Yên Bái tiếp nhận thêm nhiều thông tin từ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Liên minh HTX các tỉnh bạn trong công tác chuyển đổi số, đặc biệt là ứng dụng CNTT trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đối với các HTX trên địa bàn tỉnh nói chung và HTX vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng”. Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Yên Bái chia sẻ.

Tại buổi Tọa đàm, đội ngũ chuyên gia và các đại biểu đã tìm hiểu thực trạng, mức độ chuyển đổi số của các HTX, THT và thành viên vùng đồng bào dân tộc thiểu số, những thuận lợi, khó khăn về nhân lực chuyên trách thực hiện chuyển đổi số; hạ tầng CNTT, máy tính, thiết bị thông minh còn thiếu còn yếu; đường truyền tín hiệu Internet, 3G, 4G…; một số nơi còn chưa được phủ sóng; hệ sinh thái chuyển đổi chưa đồng bộ và chưa phù hợp với điều kiện đặc thù vùng miền, năng lực của các HTX, thành viên vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi…

Đồng chí Cao Xuân Thu Vân, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phát biểu tại Tọa đàm

Phát biểu tại buổi tọa đàm, đồng chí Cao Xuân Thu Vân, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho rằng: Hỗ trợ HTX phát triển kinh tế hợp tác hiệu quả, xây dựng HTX là điểm kết nối về cung cầu công nghệ, xúc tiến thương mại và chuyển đổi số là rất cần thiết. Đây sẽ là cơ sở, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế hộ, nâng cao thu nhập và điều kiện sống cho đồng bào thành viên HTX vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Đại biểu thăm quan gian hàng trưng bày giới thiệu sản phẩm của các HTX bên lề Tọa đàm

Đồng thời cần phải thực hiện mạnh mẽ công tác tuyên truyền đổi mới, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong các HTX thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội; Thống nhất khung Chương trình đào tạo, tập huấn phổ biến kiến thức phù hợp với đặc thù của các HTX và thành viên thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi; Tăng cường hỗ trợ, thúc đẩy liên kết hợp tác, huy động nguồn lực xã hội thông qua doanh nghiệp để thúc đẩy hợp tác đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất, chuyển giao công nghệ và chuyển đổi số; Lựa chọn, thống nhất hệ sinh thái chuyển đổi số miễn phí, phục vụ hỗ trợ chuyển đổi số hoạt động sản xuất, kinh doanh của các HTX; Củng cố tổ chức hoạt động của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, đẩy mạnh công tác đào tạo nâng cao chất lượng cán bộ tư vấn, hỗ trợ của Hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam từ Trung ương đến địa phương làm nền tảng tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao…

Nguồn: vca.org.vn

Hồi sinh vùng bưởi tiến vua nhờ kỹ thuật thụ phấn chéo

YÊN BÁI – Nhờ áp dụng kỹ thuật thụ phấn chéo, vùng bưởi đặc sản Đại Minh đã được hồi sinh, năng suất, chất lượng ngày càng được cải thiện.

Nhân rộng giống bưởi tiến vua trăm tuổi

Từ lâu, xã Đại Minh (huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái) nổi tiếng khắp vùng Tây Bắc với đặc sản bưởi “tiến vua”. Các cụ cao tuổi ở thôn Khả Lĩnh (xã Đại Minh) cho biết, cây bưởi tổ ở gần đình làng đã gần 300 tuổi vẫn tươi tốt và cho quả mỗi năm. Nơi đây cũng chính là vùng đất gốc của giống bưởi đặc sản này, hiện nay cả thôn còn hơn 70 cây bưởi cổ hơn 200 năm tuổi, mỗi mùa vẫn đều đặn đơm hoa, kết trái.

Những cây bưởi Đại Minh cổ thụ có chất lượng thơm ngon nhất được người dân chiết, ghép để nhân rộng. Ảnh: Thanh Tiến.

Chị Tạ Thị Hồng Tuyết ở thôn Khả Lĩnh cho biết, từ cây bưởi cổ thụ trong làng, người dân đã chiết, ghép nhân giống ra khắp vùng, hình thành vùng trồng bưởi rộng lớn. Hiện nay, trong vườn bưởi của gia đình chị có gần 200 cây bưởi có tuổi đời trên 100 năm, được trồng từ đời cụ, đến chị Tuyết là đời thứ tư. Qua nhiều năm, diện tích vườn bưởi của gia đình chị đã mở rộng lên gần 5ha với hơn 1.000 gốc bưởi ở nhiều độ tuổi khác nhau.

Theo chị Tuyết, toàn bộ diện tích bưởi đều được sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, quy trình chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Cây bưởi được tưới đủ lượng nước cần thiết, bón phân chuồng ủ hoai mục kết hợp với phân vi sinh theo đúng chu kỳ sinh trưởng để cho chất lượng quả thơm ngon nhất. Tùy theo giá bưởi hàng năm, vườn bưởi cho thu nhập khoảng 500 triệu đồng/năm, nếu giá cao có thể thu được gần 800 triệu đồng.

Du khách có thể tham quan, trải nghiệm và thưởng thức những quả bưởi tiến vua ngay tại vườn cùng người dân địa phương. Ảnh: Thanh Tiến.

Ông Nguyễn Văn Định cũng là hộ dân trồng bưởi lâu năm ở xã Đại Minh, vườn bưởi của gia đình ông có hơn 100 gốc gần 70 năm tuổi được truyền lại từ đời cha ông. Gần 40 năm trước, ông Định đã trồng thêm 150 gốc, hiện nay diện tích bưởi của gia đình ông đã có hơn 1ha, mỗi năm cho thu nhập gần 150 triệu đồng.

Ông Định phấn khởi cho biết, vườn bưởi của ông vừa đạt giải nhất cuộc thi vườn bưởi đẹp trong Lễ hội bưởi Đại Minh năm 2023. Để có vườn bưởi mẫu, ông đã áp dụng canh tác theo tiêu chuẩn VietGAP, bón phân hữu cơ, sử dụng chế phẩm sinh học phòng trừ sâu bệnh, cắt tỉa, tạo tán, giới hạn số lượng quả trên mỗi cây.

Trong vườn bưởi, ông còn trồng thêm một số cây bưởi Diễn, bưởi Cát Quế, khi đến mùa hoa, gia đình sẽ lấy phấn từ hoa bưởi Diễn thụ phấn chéo cho bưởi Đại Minh, bởi nếu để tự nhiên cây bưởi Đại Minh sẽ đậu ít quả, chất lượng kém thơm ngon.

Thời kỳ quả non, ông Định tiếp tục tỉa quả, mỗi cây chỉ để từ 200 – 300 quả tùy theo tán lá, độ tuổi giúp các quả bưởi lớn đều, trọng lượng quả khi thu hoạch đạt từ 1 – 1,2kg. Vừa qua, vườn bưởi của ông Định và một số hộ dân đã được gắn mã truy xuất nguồn gốc để thuận tiện quảng bá thương hiệu, giúp người tiêu dùng dễ dàng tìm hiểu các thông tin về sản phẩm như độ tuổi, tọa độ địa lý, nguồn gốc…

Khách hàng có thể quét mã truy xuất nguồn gốc khi mua sản phẩm bưởi Đại Minh. Ảnh: Thanh Tiến.

Hồi sinh vùng bưởi quý nhờ kỹ thuật thụ phấn chéo

Bưởi Đại Minh được coi là đặc sản tiến vua vì có hàm lượng dinh dưỡng cao, nhiều vitamin và khoáng chất ở dạng vi lượng có lợi cho sức khỏe con người. Quả bưởi có vị ngọt mát, hàm lượng axit thấp, mùi vị đặc trưng, vỏ mỏng, khi chín màu vàng nhạt, mỗi quả bưởi chỉ nặng từ 0,8 – 1,2kg, sau thu hoạch bảo quản để được vài tháng nên được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng.

Trước đây, bưởi ở Đại Minh chỉ phục vụ nhu cầu tại địa phương, là cây ăn trái trong vườn nhà của mỗi hộ dân. Vì vậy, việc chăm sóc, mở rộng diện tích chưa được quan tâm. Bưởi tự lớn lên, ra hoa kết trái, tỷ lệ đậu quả thấp, múi bưởi khô, kém mọng nước, làm giảm năng suất và chất lượng. Giá trị thu nhập thấp nên nhiều diện tích bưởi từng bị người dân bỏ mặc, không đầu tư chăm sóc, có hộ chặt bỏ chuyển đổi sang trồng chè và cây lâm nghiệp khác.

Trước thực trạng có thể đánh mất vùng bưởi đặc sản, huyện Yên Bình đã phối hợp với các ngành chức năng và các cơ quan chuyên môn tập trung tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp khắc phục. Năm 2012, đề tài khoa học của Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên đã nghiên cứu về nguyên nhân suy giảm chất lượng, năng suất giống bưởi Đại Minh, hoàn thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác nhằm nâng cao năng suất và chất lượng bưởi; khai thác, phát triển nguồn gen bưởi Đại Minh.

Kết quả nghiên cứu đã xác định các yếu tố làm suy giảm năng suất, chất lượng vùng bưởi. Từ đó đưa ra giải pháp áp dụng kỹ thuật thụ phấn chéo để tăng tỷ lệ đậu quả, nâng cao năng suất.

Bà Đào Thị Thanh Hiền – Trưởng phòng NN-PTNT huyện Yên Bình cho biết, chính kỹ thuật thụ phấn chéo đã góp phần giúp “hồi sinh” vùng bưởi quý Đại Minh. Phương pháp này đơn giản nhưng phải tỉ mỉ, hoa bưởi để thụ phấn phải lấy từ cây bưởi khác dòng như bưởi chua, bưởi hạt, bưởi Diễn… sau đó chấm vào từng đài của hoa cái cây bưởi Đại Minh. Cách làm này mang lại hiệu quả rõ ràng qua từng năm, quả bưởi mọng hơn, vị ngọt mát, thơm ngon nên bà con chăm chút đầu tư và coi đây là loại cây làm giàu.

Những quả bưởi đạt chuẩn có trọng lượng từ 1 – 1,2kg. Ảnh: Thanh Tiến.

Bên cạnh phổ biến kỹ thuật thụ phấn chéo cho bà con, hàng năm, ngành nông nghiệp huyện phối hợp với các xã khuyến khích người dân mở rộng diện tích trồng bưởi tạo thành vùng sản xuất hàng hóa; chuyển giao khoa học kỹ thuật từ khâu trồng, chăm sóc đến lựa chọn cây giống chất lượng cao, sạch bệnh để nhân ra diện rộng.

Năm 2016, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu “Bưởi Đại Minh”. Hiện nay, 2 sản phẩm bưởi của HTX Bưởi VietGAP Đại Minh và HTX đặc sản Bưởi Đại Minh đã được công nhận sản phẩm OCOP của tỉnh Yên Bái. Từ đây, đã xây dựng được thương hiệu, giúp cho sản phẩm tiếp cận được thị trường rộng hơn.

Ông Nguyễn Trường Giang – Giám đốc HTX đặc sản bưởi Đại Minh cho biết: Diện tích bưởi của HTX được sản xuất theo hướng hữu cơ và đạt tiêu chuẩn VietGAP. Các thành viên trong HTX thường xuyên trao đổi, hỗ trợ nhau xác định đúng tỷ lệ phân bón cho cây bưởi theo từng giai đoạn phát triển. Năng suất, chất lượng bưởi tăng lên rõ rệt, quả mọng, hàm lượng vitamin C cao.

Thị trường tiêu thụ sản phẩm bưởi ngày càng được mở rộng nhờ các chương trình quảng bá, xúc tiến thương mại. Ảnh: Thanh Tiến.

Năm 2021, bưởi của HTX đã được công nhận đạt tiêu chuẩn sản phẩm OCOP của tỉnh Yên Bái. Thông qua các gian hàng trưng bày, lễ hội, chương trình xúc tiến thương mại, bưởi Đại Minh đã tiếp cận được khách hàng nhiều nơi trên cả nước.

Hiện nay, huyện Yên Bình có trên 1.000ha bưởi, tập trung chủ yếu ở xã Đại Minh và Hán Đà. Năng suất loại bưởi đặc sản này đạt hơn 9 tấn/ha, tổng sản lượng hàng năm đạt gần 10.000 tấn, doanh thu đạt hơn 80 tỷ đồng/năm. Huyện Yên Bình đang tiếp tục triển khai liên kết theo chuỗi giá trị sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm, đẩy mạnh quảng bá trên sàn thương mại điện tử, mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần tăng thu nhập cho người dân và tạo chỗ đứng ổn định trên thị trường.

Đưa nông nghiệp công nghệ cao, hướng hữu cơ về vùng đất phèn

Ông Tống Viết Vinh là người tiên phong đầu tư nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất theo hướng hữu cơ ở vùng đất phèn huyện Yên Mô (Ninh Bình).

Bản lĩnh, thận trọng, dám nghĩ, dám làm là cảm nhận của chúng tôi khi tiếp xúc với lão nông tỷ phú Tống Viết Vinh, 62 tuổi ở xã Mai Sơn (huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình). Sau khi rời quân ngũ, trở lại quê hương từ năm 1988, xuất thân từ một gia đình thuần nông, ông hiểu rõ những khó khăn từ vùng đất phèn Mai Sơn nên đã chuyển hướng sang buôn bán nông sản. Từ đó, ông đã bén duyên với nông nghiệp hữu cơ theo hướng công nghệ cao sau khi nếm trải nhiều cay đắng.

Cơ ngơi tiền tỷ trên đất phèn

Được trui rèn ở quân ngũ nên ông Vinh có ý chí rất sắt đá, không ngại thất bại, sự nhạy bén của người lính cũng được ông áp dụng vào làm nông nghiệp.

Ông Tống Viết Vinh tại mô hình trồng dưa vàng, dưa bao tử, ớt chuông theo hướng hữu cơ. Ảnh: Bảo Thắng.

Xác định cây lúa trên vùng đất phèn Mai Sơn khó có thể giúp mình thoát nghèo nên ông Vinh xác định phải tìm hướng khác làm giàu. Nghĩ là làm, ông đi vay vốn khắp nơi để khởi nghiệp với nghề buôn nông sản. “Đầu tiên nó là sinh kế, sau cũng là cơ hội để mình tiếp cận những sản vật từ địa phương khác, biết được thêm những loại cây trồng phù hợp với quê hương, những cách làm mới”, ông Vinh tâm sự.

Khởi đầu buôn nông sản, ông Vinh thấy cà chua được ưa chuộng, giá cao. Thấy ở vùng Thường Tín (Hà Nội), Hưng Yên có điều kiện thổ nhưỡng tương tự với đất Mai Sơn và phát triển các loại cây rau màu, nhất là cây cà chua rất tốt, ông đã bỏ công sức, thời gian đến những khu vực này để tìm tòi, học hỏi cách làm. Sau khi nắm được phương pháp, năm 1991, ông đưa cà chua, cải bắp và su hào về trồng tại quê nhà.

“Sau khi trồng được, mình mang sản phẩm vào tận Quỳ Hợp (Nghệ An) để bán nhưng do ít kinh nghiệm nên tính đi tính lại cũng may là hòa vốn”, ông Vinh kể. Không nản chí, ông lại chuyển đổi toàn bộ đất hai lúa của gia đình làm rau màu nhưng hiệu quả cũng không cao nên đến năm 2013 ông lại phải tiếp tục quay về với nghề buôn nông sản.

Đến năm 2016, sau thời gian lặn lội trên thị trường nông sản, ông Vinh bén duyên với nông nghiệp hữu cơ kết hợp công nghệ cao. Nhận thấy đây là hướng đi bền vững có thể thoát nghèo nên ông tiếp tục vay vốn quay lại đầu tư làm nông nghiệp.

Khu vực trồng dưa vàng, dưa bao tử, ớt chuông theo hướng hữu cơ của ông Vinh. Ảnh: Huy Bình.

Lần này, ông Vinh đã trang bị cho mình vốn kiến thức đồ sộ về nông nghiệp hữu cơ cũng như nắm bắt được nhu cầu của thị trường nên đã triển khai mô hình trồng dưa vàng, dưa bao tử, ớt chuông một cách bài bản, quy củ.

Trong sản xuất, ông không sử dụng phân bón hóa học, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật mà ưu tiên sử dụng phân hữu cơ, bổ sung các loại chế phẩm vi sinh vào đất trồng để cải tạo đất. Hệ thống nhà màng đã được ông Vinh đầu tư xây dựng để chống sự xâm nhập của sâu bệnh hại. Rau chỉ sử dụng chế phẩm thảo dược để phòng trừ sâu bệnh hại, 100% ruộng rau màu được phủ nilon để chống cỏ dại, không sử dụng hóa chất diệt cỏ…

Khởi đầu chỉ hơn một mẫu (3.600m2) được canh tác theo hướng hữu cơ, sau đó thấy hiệu quả tăng dần nền ông Vinh tích cóp vay mượn để đầu tư tăng diện tích lên 3 mẫu, rồi 5 mẫu. Đỉnh cao vào năm 2019, ông Vinh trúng đậm vụ rau màu, tậu được cả xe hơi. Từ khi chuyển hướng làm nông nghiệp hữu cơ, gia đình ông Vinh có thu nhập nuôi 2 con ăn học, xây được nhà khang trang và tạo việc làm thường xuyên cho 8 – 12 nhân công.

Khuyến nông dịch vụ hỗ trợ chuỗi liên kết nông nghiệp hữu cơ

Sau những thành công của mô hình trồng dưa vàng, dưa bao tử, ớt chuông theo hướng hữu cơ đạt tiêu chuẩn VietGAP, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Ninh Bình đang hỗ trợ, giúp đỡ ông Vinh làm các quy trình, thủ tục để công nhận sản phẩm OCOP cho các sản phẩm nông sản.

Mô hình của ông Vinh thường xuyên nhận được sự quan tâm, hỗ trợ về kỹ thuật và kết nối cung ứng vật                           tư, tiêu thụ sản phẩm của Trung tâm Khuyến nông Ninh Bình. Ảnh: Bảo Thắng.

“Nếu đạt được sản phẩm OCOP, chúng tôi sẽ có một thương hiệu nhất định, từ đó tạo ra chuỗi liên kết trên thị trường, đưa sản phẩm tiếp cận được nhiều khách hàng hơn nhằm đảm bảo đầu ra ổn định cho sản phẩm”, ông Vinh kỳ vọng.

Ông Phạm Hồng Sơn – cán bộ kỹ thuật Trung tâm Khuyến nông tỉnh Ninh Bình đánh giá: Ông Vinh là hộ sản xuất nông nghiệp hàng hóa có kinh nghiệm, có kỹ thuật và có trình độ quản lý nên chính quyền địa phương cùng Sở NN-PTNT tỉnh Ninh Bình đã tập trung hỗ trợ để xây dựng một mô hình tương đối đồng bộ cả về công nghệ cao, nhà lưới, nhà màng, hệ thống tưới cũng như các công nghệ khác.

Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã chuyển giao công nghệ, cử cán bộ hướng dẫn ông Vinh quy trình sản xuất theo hướng hữu cơ. Trong đó tập trung vào các khâu chính như sử dụng phân hữu cơ, chế phẩm sinh học, đầu tư nhà lưới, nhà màng để giảm thiểu sâu bệnh…

“Có những vụ không cần phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, nếu phải sử dụng thì chỉ triệt để sử dụng các thảo mộc để hoàn toàn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là trên các loại rau quả ăn sống”, ông Sơn nói.

Để sản xuất theo hướng hữu cơ, ông Vinh cũng tận dụng các nguồn hữu cơ tại địa phương như ủ phân chuồng hoặc các phụ phẩm của cơ sở làm nấm được tận dụng để làm giá thể sinh học.

Một góc trang trại của ông Vinh. Ảnh: Bảo Thắng.

Để mô hình đạt hiệu quả cao, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Ninh Bình đã triển khai hoạt động khuyến nông dịch vụ giúp cơ sở của ông Vinh liên kết với các đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân cung ứng dịch vụ trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.

“Hiện nay, Ninh Bình có chủ trương làm nông nghiệp gắn với du lịch nên an toàn thực phẩm được đặt lên hàng đầu. Thời gian tới, chúng tôi sẽ tìm hướng nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ, đồng thời liên kết thêm với các cơ sở du lịch để cung cấp cho du khách những sản phẩm nông sản tốt nhất, đồng thời tăng thu nhập cho người sản xuất”, ông Phạm Hồng Sơn – cán bộ kỹ thuật Trung tâm Khuyến nông tỉnh Ninh Bình cho biết.

Để phát triển nông nghiệp theo hướng hữu cơ một cách bền vững, ông Vinh cũng đề nghị các ngành chức năng có cơ chế xác định rõ phân khúc cho thị trường sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Bởi khi làm hữu cơ, nông dân phải tốn thêm nhiều công chăm sóc, đội chi phí sản xuất lên cao, tuy nhiên sản phẩm lại chưa thể bán được với giá cao hơn một cách vượt trội so với sản phẩm thông thường. Bên cạnh đó, nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ, tạo bước đệm ban đầu cho người làm nông nghiệp hữu cơ, bởi giai đoạn đầu sản xuất theo hướng hữu cơ, người sản xuất sẽ gặp nhiều khó khăn.

Theo Huy Bình – Bảo Thắng – Báo Nông Nghiệp Việt Nam

Chuyển đổi số hướng tới nền nông nghiệp hiện đại

Chuyển đổi số trong nông nghiệp là xu hướng tất yếu trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Chuyển đổi số sẽ giúp khắc phục những hạn chế về chất lượng sản phẩm, kết nối thị trường, xây dựng thương hiệu… để từ đó hình thành nền nông nghiệp hiện đại, đem lại giá trị, thu nhập cao.

Và đó cũng là những mục tiêu mà ngành Nông nghiệp Thủ đô đang nỗ lực hướng tới.

             Ứng dụng công nghệ cao sản xuất nho hạ đen ở xã Phương Đình, huyện Đan Phượng do Trung tâm Khuyến nông Hà Nội hỗ trợ. Ảnh: Ánh Ngọc

Những dấu ấn ban đầu

Đến thăm khu trồng rau của Hợp tác xã (HTX) sản xuất và tiêu thụ rau hữu cơ công nghệ cao Cuối Quý, xã Đan Phượng (huyện Đan Phượng) mới thấy rõ, công nghệ 4.0 đang được ứng dụng rõ nét trong sản xuất.

Bà Đặng Thị Cuối, Giám đốc HTX sản xuất và tiêu thụ rau hữu cơ công nghệ cao Cuối Quý cho biết, HTX thực hiện nghiêm ngặt theo đúng nguyên tắc “5 không” (không sử dụng thuốc diệt cỏ, phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật hóa học, thuốc kích thích tăng trưởng, giống biến đổi gen). Đáng chú ý là trong sản xuất, HTX đều sử dụng phân bón hữu cơ và men vi sinh, không lên luống, xử lý nấm bệnh bằng máy đốt dùng khí ga, gieo hạt bằng máy từ trong ra ngoài, gieo xong đóng cửa, tưới giữ ẩm bằng máy phun sương chờ ngày thu hoạch.

Đặc biệt, hiện nay HTX đang sử dụng tối đa các nền tảng mạng xã hội để tiêu thụ và giới thiệu sản phẩm. Với sự chủ động trong ứng dụng công nghệ số, HTX đã quảng cáo các sản phẩm của mình thông qua mạng xã hội như Facebook, Zalo… Nhờ đó, những năm qua, thương hiệu rau hữu cơ của HTX đã nổi tiếng khắp trong và ngoài thành phố Hà Nội. Trên mỗi bó rau được đóng gói, khách hàng chỉ cần cầm điện thoại thông minh quét mã vạch là có thể biết được địa chỉ, quy trình sản xuất… Đến nay, toàn bộ 5ha rau hữu cơ với 17 sản phẩm rau hữu cơ được công nhận OCOP đạt chất lượng 3 sao cấp thành phố và có thể truy xuất nguồn gốc rõ ràng.

Một mô hình điểm nữa trong ứng dụng công nghệ số vào sản xuất của Hà Nội là mô hình trồng lúa chất lượng cao tại HTX nông nghiệp Tam Hưng (huyện Thanh Oai).

Theo Giám đốc HTX nông nghiệp Tam Hưng Đỗ Văn Kiên, HTX đã ứng dụng công nghệ vào quản lý, giám sát vùng sản xuất trên quy mô 20ha trồng lúa. Camera giám sát được lắp đặt trên cánh đồng, thông tin về ngày xuống giống, bón phân, chăm sóc đều được ghi chép đầy đủ thông qua nhật ký điện tử Egap… Quy trình sản xuất lúa hữu cơ được camera ghi lại và lưu trữ theo thời gian thực về toàn bộ chuỗi sản xuất và người tiêu dùng có thể kiểm chứng qua trích xuất hình ảnh. Hiện nay, sản phẩm gạo của HTX đều được dán tem, nhãn truy xuất nguồn gốc và kết nối giao dịch trên các sàn thương mại điện tử.

Đánh giá về chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp Hà Nội hiện nay, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội Tạ Văn Tường cho hay, để đẩy mạnh chuyển đổi số trong nông nghiệp, Hà Nội xác định dựa trên nền tảng dữ liệu, tập trung xây dựng các hệ thống dữ liệu lớn của ngành như đất đai, cây trồng, vật nuôi, thủy sản…; phát triển nông nghiệp công nghệ cao theo hướng thông minh, chính xác, tăng tỷ trọng nông nghiệp công nghệ số trong nền kinh tế; ứng dụng công nghệ số để tự động hóa các khâu trong quy trình sản xuất, kinh doanh; quản lý, giám sát nguồn gốc, chuỗi cung ứng sản phẩm, bảo đảm minh bạch, chính xác, an toàn; cung cấp thông tin về môi trường, thời tiết, chất lượng đất đai để người dân nâng cao năng suất và chất lượng cây trồng. Hiện toàn ngành có trên 900ha ứng dụng công nghệ số. Đây là diện tích đã được quy hoạch gọn vùng gọn thửa, thuận lợi cho việc áp dụng khoa học kỹ thuật và quản lý chất lượng sản phẩm.

  Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất rau hữu cơ tại Hợp tác xã sản xuất và tiêu thụ rau hữu cơ công nghệ cao Cuối Quý, xã Đan Phượng (huyện Đan Phượng).

Tiếp sức để tạo sức bật mạnh mẽ

Ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp bước đầu đã có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên, với nền nông nghiệp Thủ đô hiện nay, những nơi ứng dụng công nghệ số mới chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ, do đó chưa tạo được sức bật lớn cho ngành bứt phá.

Phó Giám đốc Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam Đào Thế Anh chỉ rõ những hạn chế trong chuyển đổi số nông nghiệp hiện nay, đó là cơ sở hạ tầng số ở nông thôn còn thiếu, nhận thức và kỹ năng sử dụng thiết bị thông minh của nông dân còn nhiều hạn chế; cơ sở dữ liệu phục vụ nông nghiệp còn chưa được thiết kế và số hóa đồng bộ. Mặt khác, chuyển đổi số của ngành Nông nghiệp còn nhiều bất cập, khó tích hợp đồng bộ.

Trao đổi về những khó khăn, vướng mắc trong ứng dụng công nghệ số, Giám đốc HTX nông nghiệp hữu cơ Nam Phương Tiến Nguyễn Thị Huyền cho rằng, việc ứng dụng công nghệ số trong sản xuất cần phải có quy hoạch vùng, kế đó là tập huấn kiến thức cho người sản xuất.

“Ứng dụng công nghệ số trong sản xuất đã bắt đầu có những thuận lợi, tuy nhiên, ứng dụng công nghệ số trong tiêu thụ, quảng bá sản phẩm vẫn đang là điều khó khăn với nông dân, xã viên bởi nhiều người thiếu kiến thức về công nghệ và máy móc” Giám đốc Nguyễn Thị Huyền cho biết. 

Thực tế, để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp, nhiều địa phương đã chủ động xây dựng chính sách hỗ trợ nông dân, HTX, doanh nghiệp nông nghiệp trên địa bàn. Theo Chủ tịch UBND huyện Thanh Oai Bùi Văn Sáng, khi thực hiện quy hoạch vùng sản xuất, huyện yêu cầu các xã ứng dụng công nghệ số, định vị điểm soát xuất, thiết lập hồ sơ về chất lượng nguồn đất, nước và những tác động môi trường khi sản xuất để hình thành bộ dữ liệu vùng phục vụ cho việc ứng dụng các mô hình sản xuất công nghệ cao.

Đồng thời, đối với định hướng phát triển các sản phẩm OCOP – Chương trình mỗi xã một sản phẩm, huyện yêu cầu các sản phẩm tham gia xếp hạng, đánh giá phải có nguồn gốc rõ ràng, có dữ liệu quản lý điện tử, có tem nhãn phục vụ truy xuất nguồn gốc để kết nối trên các sàn thương mại điện tử.

Về phía ngành Nông nghiệp, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội Tạ Văn Tường cho biết, Sở sẽ bám sát những văn bản hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong xây dựng và hoàn thành cơ sở dữ liệu vùng sản xuất; cơ sở dữ liệu cấp, quản lý mã số vùng trồng. Đồng thời, Sở sẽ cùng các địa phương, đơn vị tổ chức đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao nhận thức – kết hợp cả hình thức trực tuyến và trực tiếp – để đưa chuyển đổi số vào lĩnh vực nông nghiệp.

Bên cạnh đó, Hà Nội cũng đã hợp tác với các cơ quan, đơn vị kinh tế số để triển khai thương mại điện tử thông qua những sàn giao dịch như Voso, Sendo… Đặc biệt, Hà Nội sẽ chú trọng phát triển các chuỗi sản xuất gắn với công nghệ số. Bên cạnh việc ứng dụng công nghệ hiện đại, việc chuyển đổi số trong nông nghiệp còn hướng đến mục tiêu tạo mối liên kết giữa các thành phần của hệ sinh thái nông nghiệp một cách tự nhiên theo chuỗi giá trị; kết nối người dân, doanh nghiệp và thị trường; kết nối người dân, doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước với thị trường. Giải quyết bài toán chuyển đổi số cũng chính là giải quyết bài toán về kết nối giữa các thành phần kinh tế từ sản xuất đến tiêu thụ.

 

Theo Đỗ Minh, báo Hà Nội Mới