HTX vẫn khó tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX

Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX trung ương và địa phương đang là kênh tín dụng hỗ trợ tích cực cho các HTX, tổ hợp tác và thành viên vay vốn. Tuy nhiên, việc tháo gỡ những khó khăn trong quá trình tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX là mong muốn của nhiều HTX.

Hiện, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế hàng hóa, nhiều HTX tại tỉnh Trà Vinh phải đầu tư lớn, quy trình sản xuất dài hạn khi phải đáp ứng nhiều quy định trong bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm trong khi nguồn lực có hạn.

Mong muốn được tiếp cận Quỹ

Trước thực trạng này, Liên minh HTX tỉnh Trà Vinh đã tạo điều kiện cho một số HTX vay vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX của tỉnh. Tiêu biểu như HTX nông nghiệp Huyền Hội (huyện Càng Long) đã được vay vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX tỉnh để đầu tư trụ sở, nhà kho. Khi vay vốn, HTX cũng được Liên minh HTX tỉnh hướng dẫn hồ sơ bao gồm: hồ sơ pháp lý của HTX, hồ sơ tài chính, hồ sơ dự án, hồ sơ đảm bảo tiền vay, hồ sơ giải ngân… nhằm tạo thuận lợi cho HTX tiếp cận nguồn vốn.

Tuy nhiên, tại diễn đàn “Chia sẻ kinh nghiệm chuyển đổi mô hình hoạt động Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX” tổ chức ngày 29/11, nhiều chuyên gia cho rằng, dù đang là kênh vay vốn của nhiều HTX nhưng có những HTX vẫn khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX.

Ông Nguyễn Văn Phước, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc HTX nông nghiệp Phú Cần (huyện Tiểu Cần), cho biết sản xuất trên quy mô lớn nên mỗi vụ thu hoạch lúa HTX vẫn cần nguồn vốn ít nhất từ 2 tỷ đồng để đảm bảo bao tiêu lúa cho người dân.

Tuy nhiên, khi tiếp cận Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX, các HTX vẫn phải thế chấp tài sản, sổ đỏ. Nhưng tài sản thế chấp đối với các HTX thường không có hoặc có nhưng không được người nhà đồng thuận cho mang đi thế chấp. Cũng có HTX có sổ đỏ nhưng lại thế chấp ở một đơn vị tín dụng khác nên không thể vay được vốn từ Quỹ trong khi đa số các HTX hiện nay phải đầu tư lớn, quy trình sản xuất dài trong khi nguồn lực có hạn.

-4588-1701253529.jpg

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân cho rằng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một trong những việc cần thiết để nâng cao hiệu quả của Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX.

Ông Lê Văn Giấy, Giám đốc HTX Rau an toàn Mười Hai (huyện Cần Đước), cho biết hiện nay một số HTX được vay vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX nhưng có một điều là số vốn vay tối đa chỉ được 1 tỷ đồng/HTX. Điều này chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của các HTX.

Đồng tình với những khó khăn của các HTX trong tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX, ông Phạm Công Bằng, Giám đốc Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX (Liên minh HTX Việt Nam), cho rằng, tài sản thế chấp của các HTX hiện phần lớn là ở khu vực nông thôn, có giá trị thấp nên nguồn vốn vay chưa thực sự lớn.

Nhiều HTX thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng chủ yếu là thuộc sử hữu của hộ thành viên nên việc công chứng, xác minh nhân thân, chỉnh lý lại tài sản mất nhiều thời gian, từ đó dẫn đến nhiều HTX chưa vay được vốn…

Theo đánh giá của Liên đoàn HTX Raiffeisen Cộng hòa Liên bang Đức, hiện kênh cung cấp tín dụng hiệu quả nhất cho các HTX vẫn là Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX. Nhưng trên thực tế, khảo sát của Liên minh HTX Việt Nam cho thấy, chỉ có khoảng 10% HTX được vay vốn của các Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX trung ương và địa phương.

Ngay tại Trà Vinh, dù có đến 166 HTX và 1 Liên hiệp HTX nhưng chỉ có khoảng 30 HTX được tiếp cận vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX.

Huy động vốn linh hoạt

Theo lý giải của ông Nguyễn Quỳnh Thiện, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh, dù nguồn vốn của Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX tỉnh đã được mở rộng từ 5 tỷ đồng (năm 2017) và được bổ sung 10 tỷ đồng vào năm 2019 nhưng thực chất nguồn vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX của tỉnh vẫn còn khiêm tốn nên mới chỉ giải quyết được một phần khó khăn cho một số HTX trong vấn đề vay vốn.

Chính vì vậy, theo ông Nguyễn Quỳnh Thiện, làm sao để mở rộng được nguồn vốn cho Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX tỉnh cũng là điều cần được quan tâm. Khi nguồn vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX được mở rộng sẽ tạo điều kiện cho các HTX phát triển sản xuất, cụ thể là phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị hàng hóa.

-5542-1701253529.jpg

Nhu cầu tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX của các HTX là rất lớn.

Theo các chuyên gia, ưu điểm của HTX khi tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX là lãi suất cho vay thấp, chỉ khoảng 0,5%/tháng, thủ tục vay nhanh gọn. Tuy nhiên, nhiều Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX vẫn chưa có kế hoạch bố trí bổ sung vốn điều lệ cho quỹ trong từng giai đoạn nên chưa mở rộng được nguồn vốn, chưa chuyển đổi được mô hình hoạt động theo yêu cầu mới tại Nghị định số 45 (ngày 31/3/2021) là hoạt động dưới hình thức công ty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.

Chia sẻ kinh nghiệm phát triển Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX trên thế giới, TS.Nguyễn Thị Tuyết Minh, Giám đốc dự án DGRV Việt Nam, cho biết ở Thái Lan hiện có Quỹ Phát triển HTX (CDF) để hỗ trợ vốn cho các HTX. Các tiêu chí xem xét cho vay đó là: sự cần thiết, tính bền vững và tính khả thi của các kế hoạch do HTX đề xuất. Đi liền với đó là hiệu quả hoạt động trước đây của HTX; khả năng quản lý và tình trạng tài chính của HTX. HTX cũng phải sao kê dòng tiền, nói rõ nhu cầu của thành viên. HTX cần có hợp đồng vay trước đây và số tiền vay của HTX phải được Cơ quan HTX phê duyệt.

Chính vì vậy, theo TS.Nguyễn Thị Tuyết Minh việc chứng minh được khả năng áp dụng công nghệ, tính bền vững trong sản xuất kinh doanh sẽ là điều kiện thuận lợi để tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ.

Trước thực tế của hệ thống Quỹ Hỗ trợ Phát triển HTX, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân cho biết, đến nay cả nước có 42/51 Liên minh HTX các tỉnh, thành phố có Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX. Tuy nhiều cán bộ tại một số Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX hiện nay còn đóng vai trò kiêm nhiệm, chưa am hiểu sâu về lĩnh vực ngân hàng và kinh tế tập thể nên chưa làm tốt vai trò hỗ trợ HTX đến gần với nguồn vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX.

Chính vì vậy, việc phát triển nguồn nhân lực, tuyển dụng nhân viên có chất lượng cao cho các quỹ là điều cần quan tâm. Đi liền với đó các địa phương cũng cần xem xét, bố trí nguồn bổ sung vốn điều lệ cho các quỹ, hỗ trợ quỹ huy động các nguồn vốn hợp lệ, hợp pháp trong và ngoài nước để bổ sung nguồn vốn hoạt động; tăng cường liên kết, hợp tác trong hệ thống các Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX.

“Liên minh HTX các tỉnh, thành cần tiếp tục tổ chức, sắp xếp lại và chuyển đổi mô hình Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX một cách phù hợp; cơ cấu tổ chức, bộ máy, bổ sung vốn điều lệ tùy theo tình hình thực tế và đề xuất của Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân, cho biết.

Theo Huyền Trang – Vnbusiness.vn

HTX tiếp cận thông minh với công nghệ quản lý chuỗi

Nếu như các doanh nghiệp có kiến thức chuyên môn, mức hiểu biết cao, năng lực tài chính lớn sẽ thuận lợi trong tận dụng tối đa lợi ích từ việc sử dụng công nghệ trong quản lý chuỗi giá trị hàng hóa, thì các HTX dù rất muốn ứng dụng công nghệ vào quản lý chuỗi, truy xuất nguồn gốc lại thiếu các tiềm lực về chuyên môn, tài chính.

PGS.TS Mai Quang Vinh, chuyên gia nông sinh học cho biết, làm sao quản lý được chất lượng nông sản nói chung hiện vẫn là điểm yếu ở Việt Nam.

Khó quản lý đầu vào nếu chỉ làm thủ công

Trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ hiện nay, một số tổ chức xác nhận là bên thứ ba cũng đã tiến hành thanh tra, kiểm tra bất ngờ về quy trình sản xuất của người dân, HTX từ vật tư đầu vào đến đầu ra nhưng rất khó khăn.

Đáng chú ý, quy trình kiểm tra hiện nay vẫn chủ yếu thực hiện theo cách thức truyền thống, bằng nguồn lực con người nên tính hiệu quả và bao trùm rộng rãi là không cao. Trong khi đó, các thị trường xuất khẩu, nhất là EU yêu cầu rất nghiêm ngặt về truy xuất nguồn gốc, và chỉ có công nghệ mới đáp ứng được điều này.

Từ thực tế tư vấn phát triển chuỗi và áp dụng công nghệ vào truy xuất nguồn gốc cho HTX Đồng Phú, HTX Nam Phương Tiến (Hà Nội) với diện tích lên đến hàng trăm héc ta, PGS.TS Mai Quang Vinh nhận thấy nếu không áp dụng công nghệ thì không thể quản lý được chất lượng sản phẩm khi đưa ra thị trường. Và khi không đảm bảo và quản lý được chất lượng nông sản thì không thể liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước bao tiêu, xuất khẩu.

-5310-1701167296.jpg

Đầu tư công nghệ trong HTX cần được khuyến khích, hỗ trợ thì mới có tính lan tỏa cao.

Nhiều nông dân nói rằng trong trồng lúa hữu cơ, nếu bón 3 tấn phân chuồng nhưng có thể đạt 6-7 tấn thóc/ha là không đáng tin, vì khi nghiên cứu thành phần hữu cơ, các nhà khoa học đã tổng kết là phải sử dụng đến 30 tấn phân chuồng trên 1ha mới cho năng suất lúa 6-7 tấn.

Hoặc nhiều đơn vị sản xuất phân bón lại quảng cáo, hướng dẫn nông dân chỉ cần bón 1,6 -1,7 tấn phân là cho năng suất cao cũng là điều không tưởng. Vì vậy, ngay đầu vào như thế nào, khối lượng phân, thuốc, nước, đất… ra sao cần quản lý chặt chẽ bằng công cụ khoa học, nếu không thì không thể cho ra được sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng.

Nhận thức được vai trò của áp dụng công nghệ vào quản lý chuỗi hàng hóa, truy xuất nguồn gốc nông sản nhưng theo không ít HTX, dù rất muốn nhưng do nguồn lực tài chính có hạn và đầu ra nông sản bấp bênh khiến HTX luôn rơi vào tình trạng thu không đủ bù chi. Vì vậy, các HTX không đủ nguồn vốn ban đầu để đầu tư cũng như duy trì các khoản chi phí định kỳ.

Các chuyên gia cho rằng hệ thống truy xuất chỉ được triển khai bởi các doanh nghiệp và một số HTX sản xuất kinh doanh phục vụ thị trường hiện đại (đưa nông sản vào siêu thị hoặc xuất khẩu) vì các thị trường phân phối hiện đại yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn thực phẩm. Còn những HTX, hộ dân sản xuất và tiêu thụ ở thị trường truyền thống (các chợ dân sinh, chợ đầu mối, thương lái) vẫn chưa đầu tư cho vấn đề này.

Không thể coi HTX là nơi thử nghiệm

Đòi hỏi của thị trường về các quy định an toàn vệ sinh thực phẩm, truy xuất nguồn gốc buộc việc áp dụng công nghệ là điều không thể bỏ qua đối với người sản xuất cũng như quản lý. Tuy nhiên, để làm được điều này, ông Phạm Văn Duy, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng Chế biến và Phát triển thị trường, cho rằng trong khi nông dân, HTX gặp khó khăn hạn chế về nhận thức, tài chính, nhân lực thì các đơn vị làm dịch vụ tư vấn, hỗ trợ người dân ứng dụng công nghệ vào quản lý chuỗi cần làm sao để khách hàng là người dân, HTX đến gần mình hơn.

Hiện có nhiều đơn vị sản xuất khó tiếp cận với các đơn vị làm dịch vụ về áp dụng công nghệ trong sản xuất. Do đó, các doanh nghiệp này phải hướng dẫn, tư vấn, hỗ trợ người dân, HTX áp dụng một cách phù hợp nhất trong cả quá trình thay vì chỉ đến hỗ trợ trong thời gian ban đầu. Bởi, HTX được hỗ trợ, tư vấn, đồng hành trong sử dụng công nghệ và ứng dụng hiệu quả thì không chỉ HTX có lợi mà các doanh nghiệp làm dịch vụ cũng có lợi.

Trong một diễn đàn gần đây, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân nêu vấn đề nhiều đơn vị, doanh nghiệp trong quá trình nghiên cứu thường lấy HTX làm nơi để thử nghiệm dịch vụ, công nghệ của mình. Điều này là không thể mang lại hiệu quả về quản lý chất lượng nông sản xuất khẩu, vì đối với HTX, thử nghiệm nếu thất bại thì tất cả những gì HTX đang có là “đổ sông, đổ bể”.

Chính vì vậy, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cho rằng các đơn vị nghiên cứu, các nhà khoa học phải coi HTX là nơi phát triển, không thể mang HTX ra là nơi thử nghiệm các nghiên cứu khoa học, nhất là những nghiên cứu khoa học chưa được chứng nhận.

Bên cạnh đó, hiện Nhà nước có nhiều quy định về truy xuất nguồn gốc, ứng dụng công nghệ nhưng vẫn chưa có hướng dẫn chi tiết về truy xuất nguồn gốc cho nhóm rau quả cụ thể nên gây khó cho những đơn vị trực tiếp sản xuất.

Trong khi, ở các nước như EU, Italia, Hàn Quốc, Trung Quốc… đã ban hành các quy định truy xuất cụ thể đối với các sản phẩm tiềm ẩn rủi ro mất an toàn cao, sản phẩm có giá trị cao hoặc sản phẩm đặc sản.

Chẳng hạn như EU đã có các quy định cụ thể về truy xuất nguồn gốc đối với các sản phẩm có nguy cơ cao: rau mầm và hạt giống để sản xuất rau mầm. Và Italia có quy định để giúp người sản xuất tuân theo các quy định ban hành bởi EU về truy xuất nguồn gốc đối với rau mầm và hạt giống để sản xuất rau mầm. Ngoài ra, Italia cũng thực hiện áp dụng truy xuất nguồn gốc tập trung và các sản phẩm đặc sản, có giá trị cao như dầu ô liu và rượu vang… Điều này tạo thuận lợi cho người sản xuất và giúp các nông sản xuất khẩu dễ dàng đáp ứng được các tiêu chuẩn của thị trường.

Để tháo gỡ khó khăn về năng lực tài chính cho người dân, HTX trong áp dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc, các chuyên gia cho rằng việc khuyến khích tham gia hệ thống truy xuất nguồn gốc quốc gia do Chính phủ đầu tư và triển khai là cần thiết nhằm đáp ứng các yêu cầu tối thiểu trong thực hiện truy xuất nguồn gốc. Muốn vậy, Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống truy xuất quốc gia đồng thời đẩy mạnh hỗ trợ về nhiều mặt cho nông dân, HTX như: hướng dẫn, hỗ trợ HTX tham gia các chương trình, dự án ứng dụng công nghệ miễn phí hoặc có lệ phí thấp.

Ví dụ, tại Trung Quốc, mã QR được quảng bá và sử dụng rộng rãi ở các đơn vị bán lẻ lớn cũng như các chợ đường phố do chi phí triển khai thấp và dễ áp dụng. Điều này cần được Việt Nam học tập để tạo tính lan tỏa cao trong truy xuất nguồn gốc.

Theo Huyền Trang – Vnbusiness.vn

Các hợp tác xã Hà Tĩnh sẽ sản xuất lượng hàng lớn trong dịp tết

Thời điểm này, các hợp tác xã trên địa bàn Hà Tĩnh đang chú trọng nâng công suất, tăng sản lượng hàng hóa, phục vụ nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước dịp tết Nguyên đán.

Bánh đa vừng Nguyên Lâm của HTX Sản xuất, thương mại và dịch vụ Nguyên Lâm (huyện Kỳ Anh) không chỉ nổi tiếng với người tiêu dùng trong tỉnh và nhiều tỉnh, thành trên cả nước mà đã có mặt tại thị trường Nhật Bản và Nga.

Dịp cận tết, nhu cầu sử dụng hàng hóa tăng đột biến nên cơ sở phải huy động 15 lao động, vận hành sản xuất tại 2 nhà xưởng tại xã Kỳ Giang và xã Kỳ Tiến (huyện Kỳ Anh). Từ tháng 11 này, đơn vị đã nâng công suất lên 25.000 bánh/ngày (bình thường là 18.000 bánh/ngày). Từ nay đến cuối năm, HTX đặt mục tiêu sản xuất và phân phối trên 250.000 bánh, mang về nguồn thu nửa tỷ đồng.

Công nhân HTX Sản xuất, thương mại và dịch vụ Nguyên Lâm đóng gói sản phẩm để xuất khẩu.

Ông Lê Văn Duẩn – Giám đốc HTX Sản xuất, thương mại và dịch vụ Nguyên Lâm cho hay: “Năm 2023, tình hình sản xuất, kinh doanh của cơ sở thuận lợi, các đối tác tại Nhật Bản và Nga hợp tác theo hợp đồng ký kết với sản lượng 420.000 bánh, doanh thu 1,5 tỷ đồng. Ngoài ra, thị trường trong nước đã tiêu thụ gần 3 triệu bánh, trị giá khoảng 4 tỷ đồng. Hiện nay, HTX đang tăng ca để giao hàng cho đối tác đúng lịch. Năm 2023 thắng lợi lớn đã tạo động lực để đơn vị tăng kế hoạch sản xuất với mục tiêu phân phối 4,5 triệu bánh, doanh thu 8 tỷ đồng”.

HTX làm ăn thuận lợi không chỉ mang về nguồn lợi lớn cho các thành viên mà còn tạo việc làm thường xuyên cho hàng chục lao động địa phương. Chị Lê Thị Liệu (xã Kỳ Giang, huyện Kỳ Anh) chia sẻ: “Trước đây, tôi làm công nhân ở miền Nam, công việc xa nhà, chi phí sinh hoạt đắt đỏ trong khi mức lương có hạn nên tôi quyết định về quê và trở thành công nhân chế biến cho HTX Sản xuất, thương mại và dịch vụ Nguyên Lâm. Được làm việc gần nhà với nguồn thu nhập ổn định, tôi rất phấn khởi”.

HTX Thu mua, chế biến thủy hải sản Phú Khương tham gia Lễ hội cam và các sản phẩm nông nghiệp Hà Tĩnh lần thứ 6.

Bắt đầu từ tháng 10/2023, hoạt động sản xuất tại HTX Thu mua, chế biến thủy hải sản Phú Khương (xã Kỳ Xuân, huyện Kỳ Anh) trở nên tất bật. Hàng chục công nhân được chia làm nhiều bộ phận như: kiểm tra chất lượng hàng hóa; đóng gói sản phẩm; tham gia hội chợ tìm kiếm đối tác; duy trì phân phối sản phẩm ra thị trường…

Bà Lê Thị Khương – Giám đốc HTX Thu mua, chế biến thủy hải sản Phú Khương chia sẻ: “Việc nâng hạng nước mắm Phú Khương từ OCOP 3 sao lên 4 sao cấp tỉnh càng củng cố thêm thương hiệu trên thị trường. 10 tháng năm 2023, đơn vị tiêu thụ khoảng 200.000 lít nước mắm các loại, nguồn thu trên 15 tỷ đồng. Từ nay đến tết Nguyên đán, cơ sở sẽ tiêu thụ tầm 100.000 lít nước mắm. Ngoài ra, HTX còn phân phối các mặt hàng thủy hải sản khô ra thị trường, mang về nguồn thu khá”.

Được biết, năm 2024, HTX này đặt mục tiêu sản xuất và tiêu thụ 400.000 lít nước mắm các loại. Theo đó, ngoài chuẩn hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiếp tục đầu tư tự động hóa sản xuất, tiết kiệm chi phí; HTX còn tranh thủ sự hỗ trợ của Nhà nước, tham gia hội chợ xúc tiến thương mại, mở rộng kênh phân phối và cố gắng đàm phán đưa sản phẩm vào các siêu thị lớn.

Đang là mùa cao điểm sản xuất, HTX Hương Trầm Hiền Linh (xã Phúc Trạch, Hương Khê) cũng tất bật với các quy trình chế tác sản phẩm chiết xuất từ cây dó trầm như: các loại hương trầm thẻ, trầm nụ, hàng mỹ nghệ, hàng xông, tinh dầu, trầm cảnh phong thủy… Dự kiến, tết năm nay, cơ sở thu về 2 tỷ đồng.

Mẫu mã đẹp, sản phẩm chất lượng là “điểm cộng” cho HTX Hương trầm Hiền Linh (Hương Khê).

Anh Bùi Thức Chính – Giám đốc HTX Hương Trầm Hiền Linh thông tin: “Với khoảng 300 ha cây dó trầm trên địa bàn xã Phúc Trạch đã tạo nguồn nguyên liệu chất lượng để cơ sở đầu tư chế biến ra nhiều loại sản phẩm. Mỗi sản phẩm có công thức chế tạo khác nhau nhưng điểm chung là sử dụng nguyên liệu an toàn, không sử dụng hóa chất độc hại nên thu hút sự chú ý của khách hàng. Ngoài ra, nhờ xây dựng thương hiệu OCOP 3 sao cấp tỉnh và sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu Hà Tĩnh cùng với việc đẩy mạnh quảng bá sản phẩm bằng nhiều kênh nên các sản phẩm của HTX được người tiêu dùng nhiều tỉnh, thành trong nước đón nhận. Thời điểm này, ngoài sử dụng máy sấy để sản xuất, HTX tập trung phân loại, đóng gói và phân phối lượng lớn sản phẩm ra thị trường”.

Được biết, Hà Tĩnh hiện có hơn 1.000 HTX hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Chặng đường cuối năm, các đơn vị đang đẩy mạnh sản xuất, phân phối sản phẩm ra thị trường, hứa hẹn mang về nguồn lợi lớn cho một năm trăn trở, tìm tòi, đổi mới và miệt mài lao động.

Sản phẩm nước mắm của các HTX ở Hà Tĩnh thơm ngon nổi tiếng nhờ nguồn nguyên liệu sẵn có, tươi ngon và bí quyết muối gia truyền độc đáo.

Ông Nguyễn Ngọc Hùng – Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh cho biết: “Những năm qua, khu vực kinh tế tập thể, HTX đã có nhiều cố gắng đổi mới trong hoạt động. Theo đó, nhiều đơn vị đã mạnh dạn đầu tư thiết bị máy móc hiện đại, quan tâm ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số vào quản lý và dây chuyền sản xuất, chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm gắn với xây dựng thương hiệu theo tiêu chuẩn OCOP.

Ngoài ra, lợi thế của các HTX trên địa bàn là nguồn nguyên liệu sản xuất sẵn có; chú trọng tạo ra nhiều sản phẩm phong phú, đa dạng chủng loại, phù hợp thị hiếu của người tiêu dùng. Cùng với việc thay đổi nhận thức trong kinh doanh, chủ các cơ sở cũng đã tích cực tham gia các hội chợ thương mại, tăng cường quảng bá, tiêu thụ sản phẩm trên các nền tảng số, tạo dư địa phát triển. Với việc “tung” ra thị trường lượng hàng hóa lớn trong dịp tết sẽ mang về nguồn thu đáng kể, tạo động lực để đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh trong năm mới 2024”.

Theo Thu Phương/ Theo báo Hà Tĩnh

Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã: Cần cơ chế hỗ trợ đặc thù

Kinhtedothi – Đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, tuy nhiên, sự phát triển của khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã (HTX) đang gặp nhiều khó khăn. Để phát triển đòi hỏi các bộ ngành, địa phương cần cơ chế đặc thù thay vì chỉ có chính sách ưu tiên.
Còn nhiều rào cản phát triển
Theo thống kê, cả nước hiện có trên 30.000 HTX, trong đó, khoảng 60% là các HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Từ trước đến nay, nhóm HTX nông nghiệp vẫn luôn được nhìn nhận là một tổ hợp nhỏ lẻ, manh mún, ít tiềm lực kinh tế. Và thực tế, hoạt động của các HTX nông nghiệp hiện vẫn đứng trước nhiều rào cản.
Ông Hoàng Văn Thám – Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc HTX rau quả sạch Chúc Sơn (huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội) cho biết, việc tích tụ đất đai và phát triển hạ tầng của HTX hiện gặp nhiều khó khăn. Đơn cử như việc HTX phải tự bỏ tiền ra để làm đường bê tông vào khu sản xuất.
Nông sản của hợp tác xã đến từ tỉnh Sơn La được giới thiệu tại một hội chợ tổ chức tại TP Hà Nội năm 2023.
Nguồn nhân lực cũng là vấn đề được đại diện HTX rau quả sạch Chúc Sơn đề cập. Hiện, HTX này có 7 kỹ sư, nhưng việc mời thêm các bạn trẻ về làm việc rất khó khăn. “Ví dụ như lĩnh vực marketing hay nhân viên kinh doanh, HTX sẵn sàng trả lương 10 triệu đồng/tháng nhưng vẫn khó thu hút được lao động…” – ông Thám chia sẻ.

Cả nước hiện có 1.718 HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số trong sản xuất – kinh doanh và trên 4.339 HTX nông nghiệp đảm nhận bao tiêu nông sản cho thành viên, chiếm 24,5% tổng số HTX nông nghiệp. 

Nhiều năm trước, HTX nông nghiệp Bản Dao (tỉnh Hòa Bình) được thành lập với mục đích phát triển mô hình kinh tế bền vững, tạo việc làm, bao tiêu sản phẩm làm ra cho người lao động. Từ khi thành lập, HTX được tiếp cận các chính sách hỗ trợ từ nhà nước nên có nhiều sản phẩm chất lượng. Doanh thu liên tục tăng qua các năm.
Tuy vậy, khó khăn đối với HTX nông nghiệp bản Dao chưa phải đã hết. Bà Nguyễn Thị Bình – Chủ tịch HĐQT HTX chia sẻ, rào cản lớn nhất đối với HTX hiện tại là công nghệ số, đưa sản phẩm lên sàn thương mại, bởi “với người nông dân thì việc cập nhật thông tin này hơi chậm, nghèo về kiến thức”.
Ông Võ Văn Vang – Giám đốc Vùng nguyên liệu An Giang (Tập đoàn Lộc Trời) cho biết, đơn vị đang liên kết với gần 100 HTX. Trong số này, có những HTX đủ mạnh, nhưng cũng có nhiều HTX chưa tương xứng, quy mô nhỏ, năng lực sản xuất hạn chế, chất lượng sản phẩm không đồng đều. Điều này đặt ra đòi hỏi cần thiết phải nâng tầm, kết nối liên kết HTX để phát triển bền vững vùng nguyên liệu phục vụ chế biến.
Chính sách ưu tiên là chưa đủ
Theo nhận định của TS Đỗ Mạnh Khởi – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác (Bộ KH&ĐT), từ ngày 1/7/2024, Luật HTX năm 2023 có hiệu lực sẽ mở ra nhiều cơ chế để HTX phát triển mạnh mẽ. Sở dĩ vậy là bởi Luật HTX năm 2023 có nhiều quy định mới hơn so với luật hiện hành. Trong đó, đáng chú ý là chính sách hỗ trợ mở rộng thị trường, nâng cao khả năng huy động vốn.
“Luật trao quyền cho HTX, liên hiệp HTX tự quyết định việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ ra bên ngoài, sau khi đáp ứng đủ nhu cầu của thành viên, phát triển thị trường bình đẳng như các loại hình doanh nghiệp khác. Khi HTX được rộng cửa cung cấp hàng hóa, dịch vụ ra xã hội thì hoạt động năng động, hiệu quả hơn…” – TS Đỗ Mạnh Khởi nhìn nhận.
Sản xuất ống hút từ rau củ tại Hợp tác xã Nông nghiệp Sông Hồng (TP Hà Nội).
Trong khi đó, TS Vũ Mạnh Hùng – Phó Vụ trưởng Vụ NN&PTNT (Ban Kinh tế Trung ương) cho rằng, để nâng cao hiệu quả quá trình chuyển đổi xanh của các HTX nông nghiệp, cần chú trọng đến công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, các cơ chế, chính sách pháp luật của nhà nước về phát triển bền vững.
“Cơ cấu lại nguồn lực thực hiện chính sách để đảm bảo nguồn lực được tập trung đúng và đủ cho các chính sách, tạo động lực để HTX nông nghiệp tự thân phát triển bền vững cũng là giải pháp theo cá nhân tôi đánh giá là quan trọng và cần thiết…” – TS Vũ Mạnh Hùng bày tỏ quan điểm.
Đánh giá vai trò của Luật HTX năm 2023, bà Cao Xuân Thu Vân – Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cho rằng, đây sẽ là động lực để các mô hình HTX, đặc biệt là HTX trong lĩnh vực nông nghiệp phát triển. Tuy nhiên theo bà Vân, cái yếu của HTX là liên kết sản xuất chuỗi từ sản xuất, phân phối; hay nói cách khác, yếu nhất hiện nay là quản trị.
“HTX cần chính sách đặc thù chứ không phải chính sách ưu tiên. Trên thế giới, vai trò của HTX rất quan trọng. Tại Hà Lan, thành viên HTX gấp 3 lần dân số, một người làm thành viên nhiều HTX. Còn ở Hàn Quốc, mô hình HTX có nhiều thành viên, giáo viên, phụ huynh học sinh là thành viên HTX. Đây là những vấn đề mà Việt Nam cần lưu ý…” – bà Cao Xuân Thu Vân nêu ví dụ.
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cũng nhấn mạnh, HTX phát triển bền vững mới giúp nông nghiệp Việt Nam thoát khỏi tình cảnh manh mún, tự phát như hiện nay. HTX phải biết khắc phục những “điểm nghẽn” để phát triển, mà câu chuyện này rất cần sự hỗ trợ của các bộ ngành, địa phương.

“Quan điểm của Bộ NN&PTNT là quan tâm bao nhiêu nông dân trong khu vực HTX, càng nhiều nông dân tham gia vào HTX thì càng nhiều hộ được hưởng lợi từ các chương trình hỗ trợ của nhà nước, trong đó có chiến lược phát triển bền vững. HTX là công cụ phát triển nông nghiệp bền vững, có thể khắc phục được công nghệ, vốn, thị trường…” – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT)

Lê Đức Thịnh

Theo báo Hà Nội mới

Vá lỗ hổng trong chứng nhận hữu cơ

Việc quản lý chứng nhận hữu cơ chưa chặt chẽ đi liền với các quy định trong sản xuất vẫn còn bất cập đang dẫn đến tình trạng “hữu cơ tự phong”, từ đó làm giảm sức cạnh tranh của các HTX, doanh nghiệp, người dân làm hữu cơ chân chính.

Ông Lê Quý Hòa Bình, Quản lý chứng nhận của Control Union, cho biết thực tế trong quá trình hỗ trợ các đơn vị xuất khẩu nông sản, thực phẩm cho thấy, có những đơn vị có chứng nhận hữu cơ nhưng nguồn gốc của chứng nhận như thế nào, quy trình được chứng nhận và quản lý chứng nhận ra sao vẫn chưa rõ ràng. Điều này tạo sự không công bằng trong cạnh tranh, nhất là đối với những HTX, doanh nghiệp có chứng nhận hữu cơ đảm bảo quy định.

Lỗ hổng quản lý

Thống kê của Cục Chất lượng Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ NN&PTNT) cho thấy, trên cả nước có gần 40 đơn vị đứng ra chứng nhận hữu cơ TCVN, 120 tổ chức đánh giá hữu cơ phù hợp từ các tổ chức trên thế giới. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều tổ chức chứng nhận hữu cơ nhưng chưa đăng ký. Điều này được cho là một trong những nguyên nhân khiến tình trạng rất nhiều cửa hàng, doanh nghiệp, hộ kinh doanh có chứng nhận hữu cơ nhưng theo kiểu “tự phong”.

Có thể thấy, trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp hiện nay, đơn vị sản xuất có chứng nhận hữu cơ là điều quan trọng. Nhưng có lẽ, điều quan trọng hơn là lòng tin vì nếu chứng nhận chứng nhận hữu cơ một cách tràn lan thì không mang lại hiệu quả thiết thực cho nền nông nghiệp và cho cả người sản xuất kinh doanh.

Ông Lê Quý Hòa Bình cho rằng, các nước trên thế giới kiểm soát chứng nhận hữu cơ rất chặt nên họ phải chịu sự kiểm soát rất chặt của đơn vị quản lý. Các đơn vị ở nước ngoài muốn sản phẩm của mình là hữu cơ thì phải có logo có mã code để kiểm tra. Nếu cơ quan quản lý kiểm tra định kỳ mà sai sẽ bị phạt đến 11.000 USD. Điều này cho thấy, cơ quan chức năng của họ đang làm rất tốt vai trò quản lý các đơn vị chứng nhận trong ngành hữu cơ, còn Việt Nam chưa làm được.

Những quy định chưa rõ ràng trong chứng nhận, quản lý khiến nông nghiệp hữu cơ Việt Nam chưa thực sự phát triển.

Một vấn đề đáng quan tâm hiện nay là các tổ chức chứng nhận hữu cơ quốc tế vẫn tự vào Việt Nam mà không có sự thông báo, không có sự quản lý của cơ quan nhà nước, dẫn tới không ít khó khăn cho Việt Nam trong phát triển nông nghiệp hữu cơ. Việc này cũng dẫn tới khó giải quyết tình trạng trăm hoa đua nở trong chứng nhận.

Bên cạnh vấn đề quản lý, những lỗ hổng từ các quy định trong chứng nhận hữu cơ TCVN cũng đang làm khó các đơn vị sản xuất, các tổ chức chứng nhận làm hữu cơ. Bà Nguyễn Thu Hà, Công ty cổ phần chứng nhận hữu cơ IQC, cho biết doanh nghiệp đang chứng nhận cho khách hàng nhưng các quy định về vấn đề vùng đệm không được ghi rõ ràng để nông dân, HTX áp dụng.

Còn đại diện Công ty cổ phần chứng nhận Quốc Tế, cho biết trong quá trình đánh giá và hỗ trợ thì người dân, HTX có thấy ý kiến phản hồi là họ vẫn còn vướng mắc về nguồn gốc, phân bón hữu cơ như thế nào để có thể yên tâm thực hiện theo quy định của nông nghiệp hữu cơ.

Không có HTX sẽ không có sản phẩm hữu cơ xuất khẩu

Thực chất, Chính phủ đã có nhiều chính sách về phát triển nông nghiệp hữu cơ như Nghị định 98 về khuyến khích phát triển HTX, liên kết sản xuất, Nghị định 57 về khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp… Nhưng vấn đề quản lý, giám sát chưa thực sự tốt không chỉ tạo ra lỗ hổng về chất lượng sản phẩm trên thị trường mà còn gây khó khăn cho người dân, HTX, doanh nghiệp trực tiếp làm nông nghiệp hữu cơ.

Bà Từ Thị Tuyết Nhung, Trưởng ban điều phối PGS Việt Nam, cho biết vấn đề khúc mắc của chứng nhận hữu cơ TCVN là việc đánh giá vùng đệm không có điều gì là cố định. Thay vào đó, người tư vấn cho các đơn vị làm nông nghiệp hữu cơ phải dựa vào tình hình thực tế để tư vấn nên không có một con số cố định như vùng đệm phải 5m hay 10m.

Bên cạnh đó, các quy định về tiêu chuẩn đầu vào, cụ thể là phân bón được sử dụng trong nông nghiệp hữu cơ chỉ ghi là các chất được phép sử dụng và các chất không được sử dụng. Từ đây, người dân, HTX phải dựa rất nhiều vào đơn vị tư vấn, hỗ trợ vì họ không thể tự biết hết chất nào được phép sử dụng, chất nào không được phép sử dụng. Hoặc nếu không có đội ngũ tư vấn thì khi HTX, nông dân muốn sử dụng loại phân nào phải tiến hành kiểm tra, đi test tại các cơ sở uy tín thì mới biết loại phân đó có những chất đủ yêu cầu. Điều này là gây tốn kém đối với người dân, HTX.

Vì vậy, theo bà Từ Tuyết Nhung, cần có danh sách phân bón sử dụng trong sản xuất hữu cơ và các loại phân này phải được kiểm nhận, đánh giá và được công nhận là vật tư đầu vào cho nông nghiệp hữu cơ. “Hiện chỉ quy định các chất được phép và không được phép nên chưa rõ ràng cho người dân, HTX trong thực tiễn thực hiện sản xuất”, bà Nhung chia sẻ.

Ngoài ra, theo Thông tư 16/2019/TT-BNNPTNT hướng dẫn Nghị định 109/2018/NĐ-CP về nông nghiệp hữu cơ thì các tổ chức chứng nhận hữu cơ phải đăng ký và phải cấp mã mới được thực hiện chứng nhận trên thị trường. Hiện, cơ quan quản lý mới nắm được 40 tổ chức đánh giá đã đăng ký nhưng để bảo đảm công bằng và thuận tiện cho những đơn vị sản xuất có nhu cầu chứng nhận, Nhà nước cần có một hệ thống danh sách các đơn vị chứng nhận đã được đăng ký để các đơn vị sản xuất biết và tìm các đơn vị chứng nhận đủ điều kiện một cách thuận tiện hơn.

Ông Lê Quý Hòa Bình, cho biết tiêu chuẩn hữu cơ châu Âu cũ sắp hết hạn. Theo đó, doanh nghiệp, HTX Việt Nam muốn xuất sang châu Âu phải có chứng nhận theo quy định mới. Trong chứng nhận mới quy định, từ 1/1/2025 nhóm nông dân sản xuất hữu cơ phải được chứng nhận riêng, không nằm dưới tên của tổ chức xuất khẩu. Thay vào đó, nhóm nông dân phải có pháp nhân- tức là phải được chứng nhận thông qua HTX.

Quy định hữu cơ mới của châu Âu được cho là trùng với chỉ đạo của Chính phủ về phát triển HTX hiện nay tại Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tại không ít địa phương, việc thành lập HTX còn khó, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa vì quy trình đăng ký thành lập phải lên cấp huyện. Đi liền với đó, các chính sách hỗ trợ đối với các HTX đã có nhưng các điều kiện hỗ trợ bị ràng buộc rất nhiều yếu tố. Điều này khiến các HTX sản xuất nông nghiệp hữu cơ vẫn rất khó phát triển ở các địa phương.

“Nếu không giải quyết được vấn đề này sẽ không thể có sản phẩm hữu cơ đạt tiêu chuẩn để xuất khẩu đi châu Âu. Do đó, cần có hướng dẫn cụ thể để HTX sản xuất hữu cơ có thể phát triển một cách thuận lợi hơn”, ông Lê Quý Hòa Bình cho biết.

 

Theo Huyền Trang – Vnbusiness.vn

Khai phá tiềm năng, mở rộng cơ hội cho nông đặc sản Phú Bình

Ngày 25/11, Hội nghị xúc tiến, kết nối tiêu thụ sản phẩm gà đồi Phú Bình và các sản phẩm nông sản tỉnh Thái Nguyên 2023 đã được tổ chức nhằm lan tỏa các sản phẩm nông sản đặc trưng, từ đó tạo lợi thế cho người dân, HTX tiếp cận khách hàng, xây dựng thương hiệu, mở rộng đầu ra.

Phát biểu tại Hội nghị, ông Nguyễn Huy Hoàng, Phó Giám đốc Sở Công Thương nhấn mạnh, Thái Nguyên có tiềm năng phát triển nông nghiệp, góp phần phát triển kinh tế, thu nhập cho người dân. Trong đó, huyện Phú Bình được biết đến là địa phương có nhiều thế mạnh về phát triển nông nghiệp với nhiều sản phẩm như gà đồi Phú Bình, tương nếp Úc Kỳ, nếp Thầu Dầu…

Nhằm mở rộng đầu ra cho nông đặc sản địa phương, Hội nghị xúc tiến, kết nối tiêu thụ sản phẩm gà đồi Phú Bình và các sản phẩm nông sản tỉnh Thái Nguyên 2023 đã được tổ chức. Đây là một trong những giải pháp tích cực, thiết thực nhằm giải quyết hướng đi cho nông nghiệp, trong đó có sản phẩm gà đồi và các sản phẩm nông đặc sản trên địa bàn.

Ông Nguyễn Huy Hoàng, Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Thái Nguyên đánh giá Hội nghị sẽ giúp các sản phẩm đặc trưng của địa phương có đầu ra rộng hơn.

“Hội nghị sẽ tạo cơ hội giúp các đối tác được tiếp cận hợp tác với các HTX, người dân trong tiêu thụ gà đồi và các sản phẩm thế mạnh của địa phương, từ đó có các kế hoạch liên doanh liên kết trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kết nối cung cầu, phát triển thị trường trong nước cũng như đẩy mạnh Chương trình người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, ông Nguyễn Huy Hoàng chia sẻ.

Ông Lê Thanh Sơn, Chủ tịch UBND huyện Phú Bình cho biết, tổng đàn vật nuôi của huyện Phú Bình đang lớn nhất tỉnh, trong đó huyện có đến 4 triệu con gia cầm và có 25 sản phẩm OCOP. Đặc biệt, Gà đồi Phú Bình, tương nếp Úc Kỳ là những sản phẩm đã được cấp chứng nhận nhãn hiệu tập thể.

“ Vì vậy, việc tổ chức Hội nghị xúc tiến thương mại là lực đẩy, động viên các HTX, doanh nghiệp trong sản xuất để tiếp tục đầu tư, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và hướng đến xuất khẩu”, ông Lê Thanh Sơn nhấn mạnh.

Một trong những sản phẩm tiêu biểu của Phú Bình là gà đồi. Với nền tảng sẵn có cùng sự đầu tư trong suốt thời gian qua, huyện đã khuyến khích, thu hút 13 nghìn hộ tham gia chăn nuôi gà, chủ yếu là nuôi theo hình thức thả đồi.

Nhờ đẩy mạnh xây dựng các chuỗi giá trị hàng hóa gà đồi, đẩy mạnh chăn nuôi theo hướng an toàn, hữu cơ thông qua phát triển các HTX và hỗ trợ các HTX liên kết với HTX, HTX liên kết với doanh nghiệp, đến nay, sản phẩm gà đồi Phú Bình đã có thị trường tiêu thụ rộng khắp tại các cửa hàng, siêu thị và chợ đầu mối lớn trong và ngoài tỉnh.

Xác định gà đồi là một trong 8 sản phẩm chủ lực của địa phương, từ năm 2021 đến nay, huyện đã hỗ trợ người dân, HTX, doanh nghiệp phát triển chăn nuôi gà, đặc biệt là tham gia chương trình OCOP. Đến nay, toàn huyện đã có 8 cơ sở chăn nuôi gà đạt tiêu chuẩn VietGAP, 3 sản phẩm thịt gà đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao.

Tiêu biểu như HTX Gà đồi hữu cơ Tân Phú đã chú trọng chăn nuôi theo chuỗi giá trị hàng hóa, áp dụng quy trình chăn nuôi hữu cơ và đẩy mạnh sơ chế, chế biến các sản phẩm từ gà. Đến nay, HTX đã có 2 sản phẩm đạt OCOP 3 sao là Khô gà lá chanh và Gà đồi Tân Phú.

“HTX sẽ tiếp tục nghiên cứu để có thêm nhiều sản phẩm và các sản phẩm đó có giá trị hơn nữa”, ông Nguyễn Văn Tuyên, Giám đốc HTX thông tin.

Không chỉ có gà đồi, Phú Bình còn nổi tiếng với gạo nếp Thầu Dầu. Đến nay, sản phẩm này đã được cải tạo sản xuất theo hướng an toàn, khoa học, được công nhận nhãn hiệu tập thể. Gạo nếp Thầu Dầu đang được HTX dịch vụ nông nghiệp Hồng Kỳ liên kết với nhiều HTX khác để sản xuất cơm cháy, các loại bánh…

Ông Dương Văn Duy, Giám đốc HTX dịch vụ nông nghiệp Hồng Kỳ cho biết, HTX luôn chú trong đến vấn đề liên kết để mở rộng đầu ra để nâng cao thu nhập cho người dân, thành viên. Việc tham gia Hội nghị xúc tiến, kết nối tiêu thụ sản phẩm lần này giúp HTX có thêm nhiều cơ hội giới thiệu, ký kết hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp, siêu thị, và với cả các HTX trong và ngoài huyện.

Chủ tịch UBND huyện Phú Bình Lê Thanh Sơn khẳng định, xúc tiến thương mại sẽ giúp cung-cầu gặp được nhau.

Bên cạnh các sản phẩm chủ lực, huyện còn có nhiều sản phẩm chất lượng như trám đen, cao ngựa bạch, đậu đỗ, nhung hươu…. Các sản phẩm này đều được chú trọng sản xuất theo hướng hàng hóa, với sự dẫn dắt của các HTX. Nhiều sản phẩm đã được sơ chế, chế biến sâu, đầu tư bao bì, nhãn mác để đáp ứng nhu cầu thị trường.

Là một trong những đơn vị đang tham gia liên kết phát triển và tiêu thụ gà đồi Phú Bình, ông Nguyễn Hoàng Nguyên, Thành viên Hội đồng quản trị Tập đoàn Dabaco chia sẻ, việc liên kết với HTX, doanh nghiệp ở Phú Bình để sản xuất, tiêu thụ gà đồi đang đóng góp vào việc thúc đẩy chuỗi giá trị gà đồi của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp yên tâm hơn về nguồn nguyên liệu, mở rộng hợp tác đầu tư theo hướng bền vững.

Các HTX, doanh nghiệp, siêu thị ký kết hợp đồng hợp tác, tiêu thụ nông đặc sản của huyện.

Ông Dương Thế Hùng, Công ty TNHH Thái Hưng chi nhánh Thái Nguyên cho biết, siêu thị đã bày bán các sản phẩm của huyện Phú bình như gạo, tương, đậu, đỗ… Qua Hội nghị có thể thấy huyện có rất nhiều sản phẩm chất lượng cao, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Doanh nghiệp mong muốn tiếp tục tiếp cận được với các nhà sản xuất, các HTX và ký kết các hợp đồng hợp tác tiêu thụ để đưa các sản phẩm chất lượng của huyện đến với đông đảo người tiêu dùng.

Thời gian tới, huyện Phú Bình sẽ tiếp tục khuyến khích và tạo điều kiện để người dân, HTX phát triển chăn nuôi, sản xuất theo quy mô tập trung; liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị; đẩy mạnh quảng bá, kết nối cung – cầu tiêu thụ sản phẩm. Huyện phấn đấu đến năm 2025, sản lượng thịt gà hơi đạt 21.000 tấn; giá trị sản phẩm gà đạt gần 1,6 nghìn tỷ đồng/năm…

 

Theo Huyền Trang – Phạm Hòa – Vnbusiness.com

Nâng cao vai trò của kinh tế HTX trong thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững

Dưới sự chỉ đạo của Liên minh HTX Việt Nam, sáng 24/11, Diễn đàn “Phát triển mô hình kinh tế hợp tác xã, thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững” do Tạp chí Kinh Doanh tổ chức đã chính thức khai mạc tại Hà Nội.

Diễn đàn có sự tham dự của lãnh đạo các Bộ, ban, ngành: Ban Kinh tế Trung ương, Liên minh HTX Việt Nam, Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT), Vụ thị trường trong nước (Bộ Công Thương), lãnh đạo Liên minh HTX các tỉnh, thành phố; các Hiệp hội ngành nghề, doanh nghiệp, hợp tác xã; các chuyên gia, các nhà đầu tư, các tổ chức quốc tế,…

Diễn đàn “Phát triển mô hình kinh tế hợp tác xã, thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững”

“Đặt mục tiêu mỗi người dân là thành viên của ít nhất một HTX’

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân đánh giá Diễn đàn là cơ hội để lắng nghe tiếng nói của các doanh nghiệp, HTX thể hiện tâm tư nguyện vọng, đề xuất phát triển mô hình kinh tế tập thể, HTX theo hướng bền vững, trong đó ưu tiên HTX nông nghiệp, nâng cao chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp.

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân phát biểu khai mạc Diễn đàn.

Theo thống kê, hiện nay, cả nước có gần 30.000 HTX, trong đó HTX nông nghiệp chiếm tỷ trọng hơn 60%, với 3,5 triệu thành viên, tác động lớn về xã hội. Vì vậy, HTX nông nghiệp cần được đặc biệt quan tâm.

“Một đất nước muốn ổn định là phải quan tâm tới lĩnh vực này”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nhấn mạnh.

Tuy nhiên, lâu nay, nhiều người vẫn nghĩ rằng nói tới HTX thấy yếu thế, nghèo về nhiều thứ, nhân lực, tài lực, kinh nghiệm. Song, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nhìn nhận suy nghĩ này cần thay đổi vì HTX có nhiều “cái giàu”: giàu tính cộng đồng, tình cảm, liên kết, đất đai, nguồn lực con người. Thành viên HTX có rất nhiều kinh nghiệm.

“Có nông dân không học kỹ sư nhưng sáng tạo hơn kỹ sư, kinh nghiệm sản xuất của họ khiến nhà khoa học ngỡ ngàng”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nói.

Tuy vậy, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân cũng thừa nhận, cái yếu của HTX là liên kết sản xuất chuỗi từ sản xuất, phân phối. Hay nói cách khác, yếu nhất hiện nay là yếu quản trị.

Theo Chủ tịch Cao Xuân Thu Vân, HTX cần chính sách đặc thù chứ không phải chính sách ưu tiên. “Trên thế giới, vai trò của HTX rất quan trọng. Tại Hà Lan, thành viên HTX gấp 3 lần dân số, một người tham gia làm thành viên nhiều HTX. Còn ở Hàn Quốc, mô hình HTX có nhiều thành viên, giáo viên của họ là thành viên HTX, phụ huynh học sinh là thành viên HTX. Các nước trên thế giới cũng có HTX giáo dục, y tế. Đây là những vấn đề mà Việt Nam cần lưu ý”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nêu ví dụ.

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cũng kể những câu chuyện về HTX phát triển bền vững như một HTX trồng trái sầu riêng, nhưng thay vì bán tươi đã tạo thành bánh, thu hút các du khách nước ngoài tới trải nghiệm…

Liên minh HTX Việt Nam đại diện cho HTX, thực hiện quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp cho HTX. Và sâu xa hơn, “HTX cần nhìn lại mình, tìm ra điểm nghẽn của chính mình. HTX cần phát triển xử lý điểm nghẽn nào. Liên minh HTX tham gia xử lý vấn đề gì, cơ quan quản lý cần tham gia xử lý vấn đề gì”, Chủ tịch Cao Xuân Thu Vân nhấn mạnh.

Theo Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam, HTX phát triển bền vững mới giúp nông nghiệp Việt Nam thoát khỏi tình cảnh manh mún tự phát. HTX phải biết phát triển vùng nguyên liệu, mà câu chuyện này rất cần sự hỗ trợ của các bộ ngành.

Chuyển đổi xanh, HTX nông nghiệp sẽ có nhiều cơ hội phát triển

Phát biểu tại Diễn đàn, TS. Vũ Mạnh Hùng, Phó vụ trưởng Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Ban Kinh tế Trung ương) cho biết, nông nghiệp bền vững phát triển hài hoà dựa trên 3 trụ cột: có sự tăng trưởng ổn định, lâu dài; bảo vệ môi trường và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm, hợp lý tài nguyên thiên nhiên; bảo đảm sự công bằng quyền và lợi ích giữa các bên tham gia hoạt động nông nghiệp và không làm ảnh hưởng tới lợi ích của các thế hệ trong tương lai.

TS. Vũ Mạnh Hùng, Phó vụ trưởng Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Ban Kinh tế Trung ương) khẳng định chuyển đổi xanh, HTX nông nghiệp sẽ có nhiều cơ hội phát triển.

TS. Vũ Mạnh Hùng chỉ ra 5 cơ hội phát triển cho các HTX khi chuyển đổi xanh.

Thứ nhất là có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và cả hệ thống chính trị. Điển hình là Nghị quyết số 20 của Ban Chấp hành Trung ương Khoá XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể đã chỉ đạo “có chính sách ưu tiên cho các tổ chức kinh tế tập thể trong lĩnh vực nông nghiệp, gắn hoạt động sản xuất kinh doanh với chuỗi giá trị sản phẩm, ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; ưu tiên phát triển các tổ chức kinh tế tập thể gắn với phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức”.

Thứ hai, Nhà nước có nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích, thúc đẩy, tạo cơ hội cho các HTX nông nghiệp chuyển đổi xanh như: Quyết định số 1658 về Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050”, với định hướng “phát triển nông nghiệp hiện đại, nông nghiệp sạch, hữu cơ bền vững, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của sản xuất nông nghiệp thông qua việc điều chỉnh, chuyển dịch cơ cấu vật nuôi, cây trồng, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và áp dụng các quy trình, công nghệ sử dụng tiết kiệm, hiệu quả giống, thức ăn, vật tư nông nghiệp, tài nguyên thiên nhiên…; đẩy nhanh tiến độ các dự án trồng rừng, tái trồng rừng, phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững”.

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09 về “Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/ 6/2022, Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới. Mục tiêu đến năm 2030 có khoảng 140.000 tổ hợp tác, với 2 triệu thành viên; 45.000 HTX với 8 triệu thành viên; 340 liên hiệp HTX với 1.700 HTX thành viên; bảo đảm trên 60% tổ chức kinh tế tập thể đạt loại tốt, khá. Trong đó, có ít nhất 50% tham gia liên kết theo chuỗi giá trị; có trên 5.000 HTX ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; phát triển các chuỗi giá trị nông sản hàng hóa gắn với liên kết sản xuất, cung cấp dịch vụ chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp…

Thứ ba, trong tiến trình chuyển đổi xanh, các HTX nông nghiệp sẽ có cơ hội nâng cao năng lực quản trị, năng lực nội tại của mình thông qua việc đào tạo nâng cao trình độ của cán bộ và lao động của HTX.

Thứ tư, các HTX nông nghiệp sẽ có cơ hội chuyển đổi, áp dụng công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường trong hoạt động nông nghiệp. Chuyển đổi xanh là xu hướng toàn cầu, ở đó các HTX nông nghiệp sẽ có cơ hội liên kết, hợp tác, tiếp cận mở rộng thị trường cả trong nước và quốc tế, từ đó mở rộng quy mô hoạt động của HTX, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường.

Thứ năm, chuyển đổi xanh thúc đẩy các HTX nông nghiệp gia tăng tiết kiệm chi phí thông qua việc giảm con giống, vật tư, nguyên liệu đầu vào, giảm tiêu hao, nâng cao lợi nhuận trong chuỗi giá trị nông nghiệp, mang lại lợi ích lớn hơn cho HTX và các thành viên.

Tuy vậy, Phó vụ trưởng Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khẳng định, quá trình chuyển đổi xanh cũng mang đến nhiều thách thức cho các HTX nông nghiệp như sự phát triển không đồng đều của HTX giữa các địa phương, vùng, miền dẫn đến việc các HTX khó hấp thụ được các cơ chế, chính sách chuyển đổi xanh như: chính sách đào tạo, các chương trình đào tạo, tích hợp nội dung tăng trưởng xanh trong hoạt động của HTX; các chính sách hỗ trợ thuế, tín dụng đối với việc giảm phát thải carbon.

Bên cạnh đó, chuyển đổi xanh trong nông nghiệp là quá trình hết sức khó khăn, đỏi hỏi sự kiên trì và quyết tâm chính trị rất cao, trong khi không ít thành viên tham gia hoạt động của HTX còn hình thức, chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ trong HTX.

Ngoài ra, năng lực nội tại của HTX còn yếu, hiệu quả hoạt động chưa cao, mô hình tổ chức lỏng lẻo, chưa phù hợp, trình độ cán bộ quản lý HTX còn hạn chế. Phần lớn HTX, tổ hợp tác có quy mô nhỏ, vốn ít, phạm vi hoạt động hẹp, năng lực cạnh tranh, lợi ích mang lại cho thành viên thấp dẫn đến khó áp dụng các công nghệ sạch, công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, phát thải carbon thấp; khó hấp thụ được các chính sách tín dụng, hỗ trợ vốn; khả năng chuyển đổi mô hình hoạt động kém linh hoạt.

Mặt khác, tính liên kết trong nội bộ HTX còn rất yếu, các hoạt động liên doanh, liên kết giữa các HTX và giữa HTX với các tổ chức kinh tế khác chưa phổ biến dẫn đến khả năng cạnh tranh dựa vào lợi thế quy mô kém.

TS. Vũ Mạnh Hùng cho rằng để nâng cao hiệu quả quá trình chuyển đổi xanh của các HTX nông nghiệp cần chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, các cơ chế, chính sách pháp luật của Nhà nước về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh đối với các HTX.

Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý quan tâm hỗ trợ các HTX thực hiện tốt các chương trình, đề án về phát triển xanh, nhất là “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050”; “Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 20, Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới”; Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025.

Song song với đó là tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với HTX, gắn liền với công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong phát triển HTX nông nghiệp.

Ngoài ra, cơ cấu lại nguồn lực thực hiện chính sách để đảm bảo nguồn lực được tập trung đúng và đủ cho các chính sách tạo động lực để HTX nông nghiệp tự thân phát triển bền vững như chính sách Hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ mới đối với HTX; Liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; Mở rộng thị trường; Tiếp cận vốn và Quỹ hỗ trợ phát triển HTX…

Bên cạnh các chính sách hỗ trợ của Chính phủ và cơ quan quản lý, TS. Vũ Mạnh Hùng cũng nêu rõ, các HTX nông nghiệp cần nâng cao ý thức sản xuất, tiêu dùng có trách nhiệm. Việc sản xuất có trách nhiệm chính là thực hiện sản xuất theo các tiêu chuẩn bền vững hoặc hướng tới bền vững và không làm hại tới môi trường.

“Ở đây chính là việc sử dụng hạn chế đầu vào như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, là sản xuất theo các tiêu chuẩn bền vững như VietGAP hay các tiêu chuẩn thế giới; sản xuất bền vững tiến tới áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế phát thải khí nhà kính. Việc chế biến tiêu dùng cũng cần phải thay đổi, các doanh nghiệp chế biến cũng phải đảm bảo những yêu cầu tiêu chuẩn chế biến, các tiêu chuẩn để đáp ứng các yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu…”, Phó vụ trưởng Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhấn mạnh.

Song song với đó, cần tăng cường tính liên kết giữa các chủ thể trong chuỗi giá trị nông nghiệp. Đặc biệt, cần phải có sự liên kết không chỉ doanh nghiệp, HTX và nông dân mà cần có sự tham gia mạnh mẽ của thành phần khác như doanh nghiệp cung cấp đầu vào, ngân hàng và sự tham gia của Nhà nước. Cùng với đó, cần phải có những chính sách thiết thực hiệu quả, để hỗ trợ sự liên kết này thông qua ưu đãi về thương mại, tín dụng, khoa học công nghệ, bảo hiểm, đất đai hay hỗ trợ xây dựng vùng nguyên liệu, đầu tư cơ sở hạ tầng.

Càng nhiều nông dân tham gia vào HTX, càng nhiều hộ được hưởng lợi ích 

Theo ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT), nông nghiệp tuần hoàn là một chu trình sản xuất khép kín, các chất thải được quay trở lại, trở thành nguyên liệu cho sản xuất, từ đó giảm mọi tác động tiêu cực đến môi trường, bảo vệ hệ sinh thái và sức khỏe con người.

Ông Thịnh chỉ ra một số mô hình phát triển HTX tiêu biểu như mô hình kinh tế sử dụng trấu làm chất đốt trong xay xát lúa tại Nhà máy xay xát gạo Vĩnh Bình – tỉnh An Giang. Mô hình này đang được áp dụng với nhà máy xay xát gạo với công suất 80.000 tấn/năm, tạo ra 16.000 tấn trấu (lượng trấu sẽ sử dụng vào việc sấy lúa cho nhà máy chiếm khoảng 50% (8.000 tấn trấu) và phần còn lại sẽ được chế biến thành thanh củi trấu bán ra thị trường)…

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT)

“Giảm tiêu thụ năng lượng tại các cơ sở xay xát-sấy lúa (50% dung sấy lúa trực tiếp, 50%-củi trấu bán cho các cơ sở chế biến để đốt lò hơi) – giảm chi phí năng lượng 30%, tăng lợi nhuận 400.000 đồng/tấn từ việc bán củi trấu (8.000 tấn x 400.000 đồng/tấn = 3,2 tỷ đồng/năm)”, ông Thịnh cho biết.

Hay mô hình kinh tế tuần hoàn Vườn – Ao – Chuồng – Rừng (VACR) tại Phú Thọ. Mô hình do một hộ gia đình tại xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa thực hiện, có diện tích trên 40ha. Đây là mô hình trang trại khép kín và người chăn nuôi có thể tận dụng triệt để nguồn nước, nguồn thức ăn, các loại chất thải để đem lại hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm được rất nhiều chi phí.

Đáng chú ý, Cục trưởng Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển nông thôn cho biết, Bộ NN&PTNT đang triển khai nhiều mô hình hỗ trợ phát triển HTX bền vững.

Cụ thể, Bộ NN&PTNT tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị quyết về phát triển HTX nông nghiệp trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, với mục tiêu “Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HTX nông nghiệp theo định hướng phát triển bền vững. Hiện nay, các địa phương đang khẩn trương xây dựng và ban hành chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết.

Bộ NN&PTNT cũng đang phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tham gia xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật HTX; xây dựng Nghị định về HTX; tham mưu, đề xuất các nội dung cần sửa đổi tại các Quyết định ban hành chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, HTX.

Đồng thời, Bộ cũng đang triển khai các chính sách, đề án, dự án, kế hoạch ưu tiên đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ NN&PTNT ban hành để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức kinh tế tập thể, HTX trong lĩnh vực nông nghiệp.

Đến nay, cả nước thực hiện các chuỗi liên kết – chế biến – tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp với 4 tác nhân tham gia liên kết có 286 tổ chức khoa học, 686.445 hộ nông dân, 4.228 HTX nông nghiệp tham gia liên kết với 2.167 doanh nghiệp trong sản xuất, thu hoạch chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp… Cả nước có 2.038 chuỗi liên kết được xây dựng theo quy định Nghị định 98, với 1.250 HTX nông nghiệp tham gia.

Bên cạnh đó, Bộ NN&PTNT xây dựng đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022-2025. Đề án đã đưa ra các nội dung, giải pháp phát triển triển các vùng nguyên liệu tập trung đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, trong đó tập trung phát huy vai trò, trách nhiệm của các HTX nông nghiệp trong việc kết nối từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Mục tiêu chính của Đề án là hình thành được 5 vùng nguyên liệu đạt chuẩn, quy mô tập trung với tổng diện tích khoảng 166.800 ha….

Đáng chú ý, Bộ NN&PTNT hỗ trợ hoạt động chuyển đổi số cho các HTX nông nghiệp, như tập huấn nâng cao nhận thức cho trên 1.400 cán bộ quản lý và thành viên HTX nông nghiệp ứng dụng phần mềm nhật ký sản xuất FaceFarm; Triển khai sàn giao dịch điện tử tiêu thụ sản phẩm cho HTX (thị trường xuất khẩu) sử dụng công nghệ blockchain (giúp dữ liệu không thể thay đổi, minh bạch quy trình, thông tin của sản phẩm); Xây dựng và quản lý thông tin, dữ liệu vùng nguyên liệu (Xây dựng và áp dụng phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu vùng nguyên liệu (cây ăn quả, gỗ rừng trồng, cà phê, trái cây, lúa gạo)…

Cục trưởng Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển nông thôn nhấn mạnh, quan điểm của Bộ NN&PTNT là quan tâm bao nhiêu nông dân trong khu vực HTX, càng nhiều nông dân tham gia vào HTX thì càng nhiều hộ được hưởng từ các chương trình hỗ trợ, trong đó có chiến lược phát triển bền vững.

“Nếu bình thường, HTX sinh ra là sửa đổi khiếm khuyết của thị trường, nhưng ở châu Á cứ 30-40 năm lại có một thế hệ HTX. HTX là công cụ phát triển nông nghiệp bền vững, khắc phục được công nghệ, vốn, thị trường…”, ông Thịnh nhấn mạnh. Đồng thời khẳng định, HTX tập hợp nông dân lại để tham gia vào thị trường, chứ nông dân không cạnh tranh với nhau.

Phát triển nông nghiệp bền vững không còn là vấn đề khuyến khích, mà trở thành yêu cầu bắt buộc

Bà Lê Việt Nga, Phó Vụ trưởng Vụ thị trường trong nước (Bộ Công Thương) đánh giá cao việc tổ chức Diễn đàn “Phát triển mô hình kinh tế HTX thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững”, là dịp để tuyên truyền xu hướng chính sách, ích lợi của sản phẩm nông nghiệp bền vững, khuyến khích sử dụng sản phẩm nông nghiệp bền vững tại Việt Nam.

Theo Vụ Thị trường trong nước, sản xuất xanh, xuất khẩu xanh, tiêu dùng xanh… đã và đang trở thành xu hướng phát triển trên toàn cầu. Tại các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như Hoa Kỳ, Châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…, người tiêu dùng ngày càng có xu hướng quan tâm nhiều việc bảo vệ môi trường bên cạnh chất lượng và giá cả sản phẩm. Tại các quốc gia phát triển này đã và đang triển khai chương trình phát triển xanh, khung pháp lý để nhập khẩu hàng hóa của các nước phải bảo đảm sản xuất xanh.

Bà Lê Việt Nga, Phó Vụ trưởng Vụ thị trường trong nước (Bộ Công Thương)

Bà Lê Việt Nga dẫn ví dụ như thị trường châu Âu (EU) – khu vực vốn được mệnh danh là thị trường tiềm năng nhưng rất khó tính, đang có xu hướng dịch chuyển rất mạnh sang tiêu dùng xanh, sạch, đòi hỏi đáp ứng các yêu cầu về kiểm dịch động thực vật, các quy tắc về truy xuất nguồn gốc, các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và quy trình đóng gói, vận chuyển.

Các yêu cầu hết sức khắt khe của thị trường EU mới được cập nhật và phổ biến rộng rãi đến cộng đồng doanh nghiệp tại Việt Nam bao gồm: Hướng dẫn 79/117/EEC của Ủy ban châu Âu (EC), dư lượng thuốc bảo vệ thực vật được phép tồn dư trên sản phẩm nhập khẩu vào EU rất thấp, gần như bằng 0; Quy định không gây mất rừng (EUDR) được EC thông qua ngày 16/5/2023; Các yêu cầu cầu nhà xuất khẩu phải tuân thủ các đạo luật về Thỏa thuận xanh châu Âu, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM)…

“Với nền kinh tế định hướng về xuất khẩu như Việt Nam, việc chuyển đổi xanh của các HTX, doanh nghiệp được xem là tất yếu và sống còn”, bà Nga nhấn mạnh.

Theo bà Nga, có thể thấy, phát triển nông nghiệp bền vững giờ đây không còn là vấn đề khuyến khích, mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc của nhiều thị trường xuất khẩu. Vì vậy, nếu Việt Nam muốn tận dụng được cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do để tăng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản vào các thị trường có yêu cầu cao như EU thì không thể không quan tâm đến các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững.

Đối với thị trường trong nước, bà Nga cho biết, trong 15 năm gần đây, xu hướng tiêu dùng các sản phẩm xanh, thân thiện môi trường, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng ngày càng nhận được sự quan tâm của xã hội.

Theo điều tra của Công ty NielsenIQ năm 2023, theo thời gian, người tiêu dùng ngày càng coi trọng yếu tố bền vững, thân thiện môi trường khi mua sắm với 55% người được khảo sát coi yếu tố này là rất quan trọng và 37% coi là quan trọng.

Trước tình hình trên, Bộ Công Thương đã triển khai thí điểm các mô hình, hàng hóa được phân phối trong các hệ thống hiện đại luôn được doanh nghiệp phối hợp với các nhà cung ứng, trong đó có các liên minh HTX, HTX, hộ nông dân cùng nỗ lực kiểm soát nhằm đảm bảo đáp ứng các tiêu chí về hồ sơ chứng từ, quy trình sản xuất, trồng trọt, đặc biệt là nông sản được kiểm tra an toàn thực phẩm để đảm bảo chất lượng trước khi đến tay người tiêu dùng.

Cùng với sự phát triển của các chuỗi siêu thị, các kênh hiện đại, các chợ truyền thống cũng từng bước có sự thay đổi, nâng cấp để phù hợp với xu hướng phát triển. Trong thời gian qua, tại 63/63 tỉnh thành phố đã xây dựng và nhân rộng mô hình thí điểm chợ kinh doanh thực phẩm. Tới nay, trên cả nước đã có gần 200 mô hình chợ thí điểm bảo đảm an toàn thực phẩm. Tiêu chí chợ an toàn thực phẩm đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là một trong các tiêu chí để xét công nhận xã nông thôn mới nâng cao thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia về nông thôn mới giai đoạn 2021-2025.

Để phát triển sản phẩm nông nghiệp bền vững ở Việt Nam, Bộ Công Thương cho biết đang phát triển và kết nối hệ thống chợ đầu mối nông sản thành các đầu mối logistics, dịch vụ tổng hợp và cung ứng đầu vào cho sản xuất nông nghiệp; Nâng cao năng lực cho các tổ chức và cá nhân trong truy xuất nguồn gốc, ghi nhãn xuất xứ sản phẩm lương thực thực phẩm; Tăng cường các hoạt động thương mại điện tử, quảng bá, kết nối thị trường tiêu thụ lương thực thực phẩm theo chuỗi giá trị với các kênh thương mại điện tử, mạng xã hội…

Tuy vậy, đại diện Vụ Thị trường trong nước cũng cho rằng, cần các giải pháp tổng thể để hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế thúc đẩy phát triển bền vững, trong đó có phát triển bền vững nông nghiệp; Thực hiện quản lý năng lượng, giảm khí nhà kính, quản lý các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm bằng cách áp dụng mô hình sản xuất theo các tiêu chuẩn xanh đã được chuẩn hóa; Thúc đẩy hình thành các chuỗi liên kết giá trị, chuỗi giá trị sản phẩm bền vững, từ sản xuất đến thu mua – chế biến – bảo quản – tiêu thụ theo các tiêu chuẩn do thị trường đề ra, trong đó “có vai trò quan trọng của Liên minh HTX Việt Nam và các HTX đóng góp vào mục tiêu xây dựng nền kinh tế xanh và nước Việt Nam thịnh vượng”, bà Nga nhấn mạnh.

Tháo gỡ khó khăn về nguồn vốn để HTX phát triển bền vững

Ông Trần Khánh, Giám đốc Khối khách hàng doanh nghiệp Ngân hàng TMCP Bắc Á (BacABank) nhận định, mô hình kinh tế HTX có vai trò, vị trí quan trọng trong việc giải quyết việc làm, đảm bảo đời sống cho đông đảo người lao động.

HTX đóng vai trò là trung gian đầu mối, giúp cho các hộ sản xuất nhỏ tham gia vào chuỗi giá trị; cải thiện trình độ sản xuất, khuyến khích ứng dụng công nghệ cao và có thể kiểm soát rủi ro trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Ông Trần Khánh, Giám đốc Khối khách hàng doanh nghiệp Ngân hàng TMCP Bắc Á (BacABank)

Trên góc độ quản lý vĩ mô, HTX góp phần giải quyết vấn đề an ninh lương thực, tạo sự ổn định về chính trị – xã hội, hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế trong hội nhập quốc tế.

Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy đến cuối năm 2022, dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng đối với HTX, liên hiệp HTX đạt 6.316 tỷ đồng, với gần 1.200 HTX, liên hiệp HTX còn dư nợ. Tổng dư nợ của HTX, liên hiệp HTX mới chỉ chiếm 0,26% tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế. Và với 1.200 HTX, liên hiệp HTX còn dư nợ thì chỉ chiếm 0,5% số lượng HTX, liên hiệp HTX.  Ông Khánh cho rằng đây là một tỷ lệ khiêm tốn so với quy mô và đóng góp của loại hình kinh tế này.

Còn theo khảo sát của hệ thống Liên minh HTX thì chỉ có khoảng 10% số HTX được vay vốn của các Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX trung ương và địa phương; 0,5% số HTX tiếp cận được vốn vay của các tổ chức tín dụng, riêng các HTX nông nghiệp, tỷ lệ này còn thấp.

Do vậy, BacABank nhận thấy việc tiếp cận vốn của các HTX, liên hiệp HTX và các thành viên chưa tương xứng với quy mô và vai trò, đóng góp của HTX đối với nền kinh tế Việt Nam.

Ông Khánh cho hay, theo tìm hiểu của BacABank nói riêng và đánh giá chung của các tổ chức tín dụng thì việc tiếp cận vốn của HTX, liên hiệp HTX và các thành viên còn hạn chế. Nguyên nhân là do phương án sản xuất, kinh doanh khi đề xuất vay vốn chưa mang tính khả thi. Cùng với đó, năng lực tài chính, vốn tự có, phương tiện sản xuất, cơ sở vật chất… của HTX còn chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất, kinh doanh hiện nay.

Ngoài ra, các HTX thường không có tài sản bảo đảm khi vay vốn, một số ít HTX được thành viên dùng tài sản thế chấp để đảm bảo cho khoản vay, tuy nhiên giá trị thấp. Liên kết trong sản xuất của các HTX còn chưa tương xứng với số lượng, quy mô của HTX hiện nay.

Bên cạnh đó, việc hình thành các chuỗi liên kết sản xuất gắn từ đầu vào – sản xuất – tiêu thụ sản phẩm vẫn còn chưa thật sự lớn mạnh. Hiện cũng chưa có đầy đủ hệ thống sổ sách, báo cáo để đánh giá hiệu quả hoạt động.

Giám đốc Khối khách hàng doanh nghiệp chia sẻ, BacABank đang hướng đến các khách hàng phát triển bền vững, tập trung đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và an sinh xã hội như nông – lâm – ngư – nghiệp, dược liệu sạch,… là ngân hàng phục vụ tư vấn cho các khách hàng ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, nông thôn và các ngành phụ trợ cho nông nghiệp.

Vì vậy, thời gian qua, BacABank cũng đã nghiên cứu và xây dựng các gói sản phẩm, dịch vụ ngân hàng chuyên biệt cho từng loại hình HTX để cung cấp một cách linh hoạt các ưu đãi về lãi suất và thủ tục, phương thức giải ngân, thanh toán…; Đồng thời, ngân hàng còn là đầu mối kết nối, tư vấn về năng lực quản trị, khả năng áp dụng khoa học công nghệ giúp các HTX phát triển theo hướng nông nghiệp công nghệ cao.

Điển hình như “Sản phẩm cấp tín dụng cho HTX, Liên hiệp HTX” với những điều kiện về cấp tín dụng, Hồ sơ cấp tín dụng, điều kiện về tài sản bảo đảm phù hợp với đặc thù của HTX, liên hiệp HTX của Việt Nam.

Bên cạnh đó, với tính chất đa dạng về ngành nghề kinh doanh của loại hình kinh tế HTX tại Việt Nam, BacABank cũng đã triển khai các sản phẩm cấp tín dụng cho đối tượng bao gồm HTX hoạt động trong các ngành mà HTX Việt Nam hoạt động lớn mạnh như: Gạo, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, cà phê, sản phẩm tài trợ nhà cung cấp – là sản phẩm hướng tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung và HTX nói riêng trong chuỗi cung ứng cho các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn TH…

Song song với đó, BacABank có mạng lưới các chi nhánh phủ kín các địa bàn có mô hình HTX mạnh như: Hà Giang, Lạng Sơn, Yên Bái, Điện Biên, Lào Cai, Hoài Đức (Hà Nội), Hòa Bình, Sơn La, Nghệ An, Đà Lạt (Lâm Đồng), Cà Mau, Kiên Giang…

BacABank cũng liên tục đào tạo cho cán bộ tại các đơn vị để hiểu về hoạt động của HTX.

Đối với mảng khách hàng cá nhân, BacABank tiếp tục nghiên cứu để tài trợ cho các thành viên thông qua các HTX trồng dược liệu, gia công chế biến nguyên liệu cho các sản phẩm của Tập đoàn TH; đồng thời triển khai các sản phẩm tín dụng cá nhân tuỳ biến cho người nông dân như Cho vay sản xuất nông nghiệp trồng rau củ quả, Cho vay trồng và chăm sóc cây công nghiệp….

Để đạt được mục tiêu đồng hành cùng HTX, ông Trần Khánh đề xuất cơ quan quản lý HTX cần có chính sách hỗ trợ và tổ chức các khóa tập huấn, đào tạo cho cán bộ quản lý, thành viên làm công tác chuyên môn, kỹ thuật, tập trung vào các chuyên đề: Kỹ năng quản lý, điều hành HTX; Nâng cao năng lực lãnh đạo của HTX.

Đồng thời, tập huấn tìm hiểu về cách thức và quy trình vay vốn ngân hàng; Các kiến thức cơ bản trong vay vốn ngân hàng cho các HTX. “BacABank sẽ đồng hành phối hợp”, ông Khánh khẳng định.

Bên cạnh đó, đại diện BacABank kiến nghị, cần có các buổi kết nối hội thảo, diễn đàn để ngân hàng tham gia cùng các hiệp hội, liên hiệp HTX nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình tiếp cận vốn của HTX.

Những kinh nghiệm quý từ chuyển đổi nông nghiệp xanh của Hà Lan

Bà Lê Thị Thu Hiền, Giám đốc Agriterra Việt Nam cho biết, Hà Lan tự hào có nền nông nghiệp phát triển, với dân số 17 triệu người nhưng đứng thứ 2 về xuất khẩu nông sản sau Hoa Kỳ. Đây là quốc gia đứng thứ 4 trên thế giới về các sáng tạo nông nghiệp, hiện có 51 nghìn trang trại, với quy mô doanh thu trung bình 600.000 USD/năm.

Hà Lan đã có 150 năm phát triển HTX, chiếm 86% phần trong nông nghiệp, hiện tại có nhiều HTX phát triển mạnh mẽ, có công ty nằm trong HTX.

Theo bà Hiền, Hà Lan cũng phải đối mặt với thời tiết khắc nghiệt, và biến đổi khí hậu.

Bà Lê Thị Thu Hiền, Giám đốc Agriterra Việt Nam.

Chính phủ Hà Lan đã đặt mục tiêu 2030, tất cả các tổ chức nông nghiệp trong đó có HTX ứng phó biến đổi khí hậu; Chiến lược chính sách nông nghiệp của Hà Lan là tăng diện tích sản xuất nông nghiệp hữu cơ…

Các HTX tại Hà Lan hiện nay cũng đã ứng dụng sản xuất xanh, thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu. Điển hình là công ty FrieslandCampia, gần như toàn bộ trang trại nuôi bò sữa là thành viên HTX. Đáng chú ý, HTX có chiến lược nuôi dưỡng hành tinh xanh với 100% các trang trại vận hành bằng năng lượng gió, năng lượng mặt trời; Đồng thời, HTX triển khai đồng cỏ đa dạng sinh học…

Từ những mô hình chăn nuôi xanh giúp HTX, thành viên, nông dân có thu nhập tốt hơn để duy trì hoạt động kinh doanh lành mạnh và phát huy sáng kiến.

Đồng thời, người tiêu dùng cá nhân, các đơn vị phân phối, ngành công nghiệp thực phẩm cần trân trọng giá trị của thực phẩm, tránh tạo ra rác thải.

Ông Võ Văn Vang, Giám đốc Vùng nguyên liệu An Giang – Tập đoàn Lộc Trời.

Ông Võ Văn Vang, Giám đốc Vùng nguyên liệu An Giang cho biết, Tập đoàn Lộc Trời đang làm việc với bà con nông dân, HTX trên toàn Việt Nam. Với sứ mệnh cùng nông dân phát triển bền vững, 5 điểm trọng tâm của Lộc Trời là: kinh doanh vật tư nông nghiệp, kinh doanh giống, cơ giới hóa phục vụ sản xuất nông nghiệp, lương thực, nghiên cứu giống.

Trong thời gian qua, Lộc Trời có thành công bước đầu là tổ chức vùng nguyên liệu với quy mô 300.000 ha ở Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên…, làm việc với 100 liên hiệp, HTX.

“Lộc Trời cùng địa phương thành lập 5 liên hiệp HTX, tiên phong cam kết với các tỉnh điều hành liên hiệp, HTX. Lộc Trời sẽ trả lương để các thành viên quản lý và cam kết thu mua toàn bộ nguyên liệu, xây dựng hiệu quả kinh doanh”, ông Vang thông tin.

Thêm vào đó, Lộc Trời thực hiện mô hình bền vững từ năm 2018. Trong đó, doanh nghiệp thực hiện cánh đồng không dấu chân, lúa hữu cơ, lúa mùa nổi, đem lại lợi ích cho nông dân, giảm phát thải. Lộc Trời cũng cơ giới hóa toàn bộ vùng nguyên liệu, tự đầu tư 200 máy nông nghiệp, máy bay không người lái phục vụ vùng nguyên liệu liên kết với nông dân.

Đặc biệt, Lộc Trời đang thực hiện chuyển đổi số, số hóa thực hiện trên điện thoại thông minh từ ký hợp đồng sản xuất, đặt hàng vật tư nông nghiệp, xác định giá bán.

Ngoài ra, Lộc Trời liên kết với ngân hàng để cấp vốn, đầu tư sản xuất, thu mua lúa, thông qua hợp đồng liên kết sản xuất để bà con nông dân vay tín chấp.

Để phát triển bền vững, Lộc Trời đang đồng hành với chương trình 1 triệu ha lúa chất lượng cao, đã ký cam kết với 4 tỉnh An Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, nhưng còn nhiều việc phải làm. Vì vậy, Tập đoàn kiến nghị các bộ ngành hỗ trợ kết nối với địa phương khác, đồng hành với dự án.

Thứ hai, Lộc Trời không thể một mình liên kết với nông dân, HTX mà cần sự ủng hộ lớn về chủ trương, đường lối, hỗ trợ của các cấp địa phương.

Thứ ba, Lộc Trời đang liên kết với gần 100 HTX, có những HTX đủ mạnh nhưng cũng có HTX chưa tương xứng. Vì vậy, cần nâng tầm, kết nối liên kết HTX để thực hiện thành công vùng nguyên liệu.

Bên cạnh đó, Lộc Trời cũng đẩy mạnh công tác đào tạo nhân sự. Tuy nhiên, doanh nghiệp rất mong sự hỗ trợ của các Bộ ngành tập huấn, đào tạo nguồn nhân lực cho các HTX.

Về chính sách đặc thù, Lộc Trời tâm đắc với 2 chính sách đã ban hành về hỗ trợ liên kết, kết nối với địa phương nhưng việc giải ngân, thủ tục nhiêu khê. Thực tế, hiện HTX và nông dân được giải ngân chỉ đếm trên đầu “ngón tay”. Theo đó, Lộc Trời mong muốn các các bộ ngành tháo gỡ nút thắt này.

Cũng liên quan tới tín dụng, Lộc Trời đã tìm đến các ngân hàng, làm sao cung cấp tín dụng thông qua chuỗi liên kết, cho vay dựa trên tín chấp.

“Hiện nay, để mua lúa được thì phải dùng tài sản thế chấp. Nhưng vùng nguyên liệu 300ha lớn nên không đủ tài sản để vay vốn”, ông Võ Văn Vang chia sẻ.

TikTok đồng hành cùng nông dân, HTX

Theo ông Nguyễn Lâm Thanh, CEO TikTok Việt Nam, năm 2022, TikTok triển khai nền tảng thương mại điện tử cho phép người dùng bán trực tiếp sản phẩm và nhà sản xuất có thể bán hàng trực tiếp trên nền tảng. Hiện nay, mỗi ngày có trên 1 triệu đơn hàng, mô hình phù hợp với quy mô của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ, các HTX.

Hiện, TikTok triển khai hàng loạt chương trình hỗ trợ cho các sản phẩm vùng nông thôn nói riêng, trong đó có khu vực HTX. Điển hình, TikTok đã làm chương trình giới thiệu các sản phẩm OCOP.

Ông Nguyễn Lâm Thanh, CEO TikTok Việt Nam.

“Sản phẩm OCOP được Chính phủ đầu tư và tuyên truyền nhiều nhưng số lượng người biết đến còn rất hạn chế. Cách đây một năm, TikTok đã chạy từ khoá OCOP – đặc sản Việt Nam trên nền tảng để các chủ thể giới thiệu sản phẩm OCOP của mình”, ông Thanh cho hay. Trong 6 tháng vừa rồi có hơn 10.000 video giới thiệu về các sản phẩm OCOP với hơn 1 tỷ lượt xem.

“Đây là một con số rất lớn, trong thời gian ngắn”, ông Thanh nhận xét.

Cũng theo CEO Tik Tok Việt Nam, nhiều chủ thể OCOP đã trở thành những nhà bán hàng thành công. Điển hình, tại HTX Ba khía Đầm Dơi (Cà Mau), sau khi giới thiệu cách ăn ba khía trên nền tảng Tik Tok, mỗi ngày HTX bán hết tất cả các sản phẩm của HTX đã được sản xuất. Hiện nay, HTX đang xây kho để mở rộng thêm.

Tương tự, HTX Vườn nhà Đà Lạt giới thiệu rau củ quả tươi sống ở Đà Lạt trên nền tảng TikTok, đến nay mỗi tháng HTX bán được 1,6-2 tỷ đồng rau củ quả tươi.

Doanh nghiệp mong không chỉ hình thành một HTX xanh, mà cần hình thành vùng sản xuất xanh 

Ông Nguyễn Khắc Tiến, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Ameii Việt Nam cho biết, doanh nghiệp chuyên xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp, trong đó chủ lực là vải thiều đưa sang các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU…

Để xuất khẩu sang thị trường khó tính, điều đầu tiên là doanh nghiệp phải phát triển vùng nguyên liệu sạch. Tuy nhiên, việc phát triển cũng không hề dễ.

“Giai đoạn đầu rất khó khăn. Bình thường, bà con sản xuất bao nhiêu, thương lái đóng hàng ngay vườn để xuất khẩu sang Trung Quốc, nhưng giờ buộc phải chuyển hướng sản xuất, ký kết hợp đồng với doanh nghiệp”, ông Tiến nói.

Ông Nguyễn Khắc Tiến, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Ameii Việt Nam.

Theo đó, doanh nghiệp phải đồng hành cùng với bà con nông dân, HTX chuyển đổi quy trình sản xuất. Đầu tư xanh là một khoản đầu tư cho tương lai không phải khoản chi phí, bởi bà con dùng phân bón hữu cơ để tiết kiệm chi phí.

“Chúng tôi nói với bà con rằng tham gia giá trị sản phẩm trên một đơn vị diện tích tăng, doanh nghiệp cam kết thu mua 10-20% giá trị, ứng trước một phần phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Doanh nghiệp đồng hành cùng bà con đưa ra sản phẩm bền vững, xanh”, Chủ tịch Ameii cho biết.

Thêm vào đó, doanh nghiệp, HTX phát triển xanh nhưng vùng xung quanh không chuyển đổi thì sản phẩm không đồng đều nên cần sự chung tay của cấp chính quyền, địa phương.

Theo ông Tiến, doanh nghiệp rất vất vả mới tìm được nguồn hàng. Sản phẩm vải thiều, cà rốt có những thời điểm không tìm được vùng nguyên liệu. Do vậy, “chúng tôi mong muốn không chỉ hình thành một HTX, mà cần hình thành vùng sản xuất xanh đồng bộ, ông Tiến nói.

Chủ tịch Ameii bày tỏ mong muốn doanh nghiệp đi đâu cũng có nông sản xuất khẩu được, chứ không phải đi đâu cũng phải test. Có thời điểm, công ty phải test 5 lần mới tin tưởng để xuất khẩu sản phẩm.

Liên quan tới nguồn vốn, doanh nghiệp cũng gặp khó khăn là chu kỳ từ khi hỗ trợ vật tư đầu vào cho bà con để xây dựng vùng liên kết đến thu hoạch kéo dài 9 – 10 tháng. Vì vậy, doanh nghiệp rất mong được ngân hàng tạo điều kiện cho vay với lãi suất ưu đãi, từ đó doanh nghiệp mở rộng liên kết.

Khó khăn của HTX là đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử

Bà Nguyễn Thị Bình, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX nông nghiệp Bản Dao (Hòa Bình) bày tỏ rất vui khi được tham dự Hội nghị. HTX được thành lập với mục đích phát triển mô hình kinh tế bền vững, tạo việc làm, bao tiêu sản phẩm làm ra cho người lao động. HTX còn tham gia triển khai nghiên cứu, bảo tồn cây dược liệu, cây gỗ quý hiếm.

Bà Nguyễn Thị Bình, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX nông nghiệp Bản Dao (Hòa Bình)

Hơn nữa là thành viên của Liên minh HTX Việt Nam, HTX được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, tập huấn kiến thức về phát triển KTTT, tham gia hội chợ thương mại…

Chình vì vậy, HTX có sản phẩm đạt OCOP 3 sao, 4 sao. Ngoài ra, nhiều sản phẩm đạt tiêu chuẩn thực phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm.

Cụ thể, năm 2020, HTX được Liên minh HTX Việt Nam hỗ trợ phát triển sản phẩm tinh dầu sả, đạt doanh thu cao, tăng lợi nhuận cho thành viên từ 10-12%..

HTX nông nghiệp Bản Dao còn phát triển các sản phẩm chế biến sâu như sữa rửa mặt thảo dược, dung dịch vệ sinh từ thảo dược…

Tuy vậy, bà Bình chia sẻ khó khăn lớn nhất đối với các HTX hiện tại đó là công nghệ số, đưa sản phẩm lên sàn thương mại gặp phải khó khăn. Với người nông dân thì việc cập nhật thông tin này hơi chậm, nghèo về kiến thức.

Thêm vào đó, Chủ tịch HTX Bản Dao cũng bày tỏ mong muốn được vay vốn ưu đãi, với thời gian dài hơn để vững bước trên con đường phát triển bền vững.

HTX mong có sự đồng hành, hỗ trợ trong phát triển nông nghiệp bền vững

Ông Hoàng Văn Thám, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc HTX rau quả sạch Chúc Sơn (Hà Nội) cho biết, HTX hướng đến nền sản xuất xanh. Tuy nhiên, hiện nay, HTX gặp khó khăn là thay đổi nhận thức cho người nông dân, nhưng khó khăn lớn hơn đó là thay đổi nhận thức cho đội quản lý.

“Để người nông dân tiếp cận chính sách và thay đổi nhận thức sản xuất xanh, sạch như thế nào cần quá trình. Hiện, HTX đang hợp tác với các tổ chức quốc tế như JICA để tạo môi trường xử lý phụ phẩm công nghiệp cũng như tạo mô hình công nghệ sinh thái. Tuy nhiên, dù đã diễn ra nhiều cuộc trao đổi, tập huấn nhưng hiệu quả chưa được cải thiện”, ông Thám nói.

Ông Hoàng Văn Thám, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc HTX rau quả sạch Chúc Sơn (Hà Nội).

Khó khăn tiếp theo được lãnh đạo HTX rau quả sạch Chúc Sơn nhắc đến đó là nguồn nhân lực. Hiện, HTX có 7 kỹ sư, nhưng nguồn nhân lực vẫn khó khăn. Bởi, HTX mời các bạn trẻ về làm việc rất khó. Ví dụ lĩnh vực marketing hay nhân viên kinh doanh, HTX sẵn sàng trả lương 10 triệu/tháng nhưng vẫn khó thu hút được lao động.

Thậm chí, ông Thám cho biết, thu hút nhân lực trình độ phổ thông cũng không dễ dàng. Hiện, HTX có 30 công nhân nhưng vẫn thiếu nên có thời điểm công nhân phải làm đến 12-14 tiếng/ngày để đủ sản phẩm cung cấp cho thị trường.

Ngoài ra, việc tích tụ đất đai và phát triển hạ tầng cũng gặp khó. “HTX tự bỏ tiền ra để làm đường bê tông vào khu sản xuất. Tuy nhiên, có nhiều công trình địa phương bỏ không, HTX có thể tham gia quản lý các công trình này nhưng nhận thức của lãnh đạo địa phương để giao các công trình này cho HTX quản lý lại là cả vấn đề, nên cần sự vào cuộc của Liên HTX Việt Nam và Liên HTX TP Hà Nội”, ông Thám kiến nghị.

Mặt khác, các HTX cũng đang rất khó khăn về nguồn vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.

Từ những khó khăn trên, ông Thám kiến nghị Liên minh HTX Việt Nam tạo cuộc vận động sâu rộng nhằm thay đổi nhận thức cho khu vực HTX về phát triển nông nghiệp bền vững, tăng trưởng xanh.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách thực chất hỗ trợ cho các HTX. “Thực tế, Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ cho các HTX, nhưng xuống địa phương và HTX với nông dân đã “rơi rớt””, ông Thám cho hay.

Ngoài ra, cần có cơ chế phát triển nguồn nhân lực cho các HTX, nếu thiếu nguồn nhân lực thì HTX sẽ không phát triển được, nguồn nhân lực quyết định sự thành bại đi lên của HTX.

Song song với đó, “thuyền trưởng” HTX rau quả sạch Chúc Sơn kiến nghị cần có chính sách thúc đẩy công nghệ cho HTX. “Hiện nay, chúng tôi đã ứng dụng công nghệ 4.0 trích xuất nguồn gốc, nhưng vẫn mong Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX TP Hà Nội giới thiệu các đơn vị uy tín về quản trị HTX, kế toán… để hỗ trợ phát triển HTX”.

Đồng thời, ông Thám kiến nghị hỗ trợ cho các HTX tiếp cận các quỹ phát triển công nghệ, khuyến nông, tín dụng…

Nông dân không phải chờ xuất khẩu mới làm sạch 

Phát biểu kết luận Diễn đàn, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân đánh giá các ý kiến đóng góp của doanh nghiệp, HTX rất sâu sắc, thể hiện tâm huyết của người tham gia.

Hiện, nhiều HTX đang phát triển bền vững, đạt được kết quả trên con đường xanh.

Điều đó cho thấy sự phát triển HTX thể hiện bằng con số và tăng trưởng cụ thể, cải thiện thu nhập của các thành viên.

Về chất lượng sản phẩm, để trả lời câu hỏi muốn mở rộng thì phải thế nào? Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam chia sẻ, bà có nói với nông dân rằng “không phải chờ xuất khẩu mới sản xuất sạch, mà sản xuất ra là ăn phải an toàn, đảm bảo đồng bộ chất lượng, phục vụ người Việt ở thị trường trong nước. Lúc đó mới phát triển được vùng nguyên liệu”.

Theo đó, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nhấn mạnh, cần phải phát triển HTX để xây dựng vùng nguyên liệu lớn. Các cấp, ngành địa phương vận động bằng được việc phát triển các HTX, nông dân trở thành thành viên của HTX.

Tiếp tới, HTX phải có hệ sinh thái thì mới đánh giá được HTX tốt, khá, vùng nguyên liệu ra sao.

Đặc biệt, HTX phải liên kết với doanh nghiệp để tạo thành chuỗi giá trị, và phải có nguồn nhân lực tốt về quản trị, thường xuyên được đào tạo về kiến thức. Các HTX cần cùng nhau để liên kết, phân vai nhiệm vụ để tăng tính hiệu quả.

Về vốn, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cho biết, đối với thành viên là Hội nông dân, thì cần thành lập chi hội nghề nghiệp để vay vốn. Đồng thời, HTX có thể vay vốn từ các Quỹ tín dụng nông dân. Nếu HTX mạnh, thì ngân hàng phải xem mình là đối tác.

“Tôi xin nhắc một lần nữa, HTX không bao giờ yếu mà rất mạnh, rất nhiều thành viên. Đơn cử như một HTX phát triển nghêu sạch có tới cả ngàn thành viên, giúp nhau thoát nghèo, cùng nhau phát triển kinh tế”, Chủ tịch Liên minh HTX chia sẻ. HTX có thể bắt đầu làm từ những việc nhỏ, để phát triển bền vững trong tương lai.

 

Theo Thuý Hoa – Vnbusiness.com

Liên minh Hợp tác xã các tỉnh, thành phố trong Cụm Đồng bằng sông Hồng tổng kết phong trào thi đua năm 2023 và ký kết giao ước thi đua năm 2024

Chiều ngày 18/11/2023, tại thành phố Phủ Lý (tỉnh Hà Nam), Liên minh Hợp tác xã (HTX) các tỉnh, thành phố trong Cụm Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) tổ chức hội nghị tổng kết phong trào thi đua năm 2023 và ký kết giao ước thi đua năm 2024

Toàn cảnh hội nghị

Dự  hội nghị có các đồng chí: Cao Xuân Thu Vân – Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam; Nguyễn Đức Vượng – Tỉnh ủy viên – Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban Chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể tỉnh; Đỗ Xuân Trường – Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh – Trưởng Khối thi đua Liên minh HTX các tỉnh, thành phố trong Cụm ĐBSH năm 2023; lãnh đạo Liên minh HTX các tỉnh, thành phố trong Cụm ĐBSH…

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đức Vượng phát biểu chào mừng hội nghị

Phát biểu chào mừng hội nghị, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đức Vượng đã giới thiệu về tiềm năng, thế mạnh, những kết quả nổi bật trong phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Hà Nam năm 2023. Phó Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh: Những năm qua, Liên minh HTX tỉnh Hà Nam đã bám sát các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, nhiệm vụ được UBND tỉnh giao, chủ động trong công tác phối hợp với các sở, ngành, địa phương làm tốt công tác tham mưu cho chính quyền địa phương, Ban Chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể chỉ đạo hoạt động lĩnh vực kinh tế tập thể, HTX của tỉnh. Trên địa bàn tỉnh tiếp tục có nhiều mô hình HTX mới, năng động trong cơ chế thị trường, huy động được các nguồn lực để đầu tư, tích cực ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh, mạnh dạn kết nối, khẳng định khá rõ nét hướng đi và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của HTX. Phó Chủ tịch UBND tỉnh trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Liên minh HTX Việt Nam đã quan tâm và đồng hành với tỉnh Hà Nam và Liên minh HTX tỉnh Hà Nam trong những năm qua. Phó Chủ tịch UBND tỉnh mong rằng Liên minh HTX Việt Nam tiếp tục quan tâm tạo điều kiện để Liên minh HTX tỉnh Hà Nam và các tỉnh trong cụm ĐBSH ngày càng phát triển. Đồng thời tin tưởng Liên minh HTX các tỉnh cụm ĐBSH sẽ không ngừng đổi mới, phát huy những kết quả đạt được, nghiêm túc khắc phục kịp thời những tồn tại, hạn chế; tăng cường hỗ trợ, mở rộng liên kết, đẩy mạnh hợp tác vì sự nghiệp phát triển của các thành viên; quyết tâm vượt qua thách thức, thi đua hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Năm 2023, Liên minh HTX các tỉnh, thành phố trong cụm ĐBSH đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu đề ra; chủ động tham mưu với Tỉnh ủy, Thành ủy, UBND, Ban Chỉ đạo kinh tế tập thể cấp tỉnh, Liên minh HTX Việt Nam về công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, của tỉnh về kinh tế tập thể. Tăng cường công tác tuyên truyền, hoạt động hỗ trợ nhằm đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, HTX. Phát huy hiệu quả công tác phối hợp với các sở, ban, ngành, đoàn thể đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ, xây dựng mô hình HTX, tổ hợp tác hoạt động hiệu quả, có sức lan tỏa mạnh mẽ, tham gia xây dựng nông thôn mới và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế – xã hội ở cơ sở. Nhờ đó, kinh tế tập thể, HTX các tỉnh ĐBSH cơ bản hoạt động ổn định, tiếp tục phát triển về số lượng, chất lượng hoạt động. Tính đến hết ngày 31/10/2023, các tỉnh trong cụm đã thành lập mới 227 HTX; nâng tổng số toàn cụm lên 2.288 tổ hợp tác, 4.647 HTX, 24 Liên hiệp HTX. Toàn cụm đã tổ chức cho 677 lượt HTX tham gia các hội nghị xúc tiến thương mại do Liên minh HTX Việt Nam, Liên minh HTX tỉnh, thành tổ chức; tổ chức 17 Hội nghị kết nối cung cầu, tọa đàm về phát triển kinh tế tập thể, HTX…

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân phát biểu tại hội nghị

Phát biểu tại hội nghị, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân đề nghị: Liên minh HTX các tỉnh, thành phố trong Cụm ĐBSH tiếp tục chủ động, sáng tạo, xây dựng chương trình công tác, cụ thể hóa các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra; triển khai kịp thời các chính sách hỗ trợ, phát triển kinh tế tập thể, HTX, nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh, dịch vụ của HTX. Tiếp tục mở rộng tập hợp đoàn kết thành viên, bám sát cơ sở, hỗ trợ, tạo điều kiện để phát triển khu vực kinh tế tập thể; liên kết tiêu thụ sản phẩm gắn với lễ hội; quan tâm thí điểm loại hình HTX giáo dục, HTX giao thông, HTX chuyển đổi số…; liên kết, quảng bá, trao đổi kinh nghiệm, xúc tiến thương mại, góp phần để kinh tế tập thể, HTX tiếp tục đổi mới, phát triển hơn nữa…

Liên minh HTX các tỉnh, thành phố trong Cụm ĐBSH ký kết giao ước thi đua năm 2024

Tại hội nghị, Liên minh HTX các tỉnh, thành phố trong Cụm ĐBSH đã ký kết giao ước thi đua năm 2024./.

Theo Lương Hậu – Theo vca.org.vn

 

Để HTX không còn gặp ‘hạn hán’ trên cánh đồng chuyển đổi số

Các HTX hiện nay hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp nên việc chuyển đổi số cần phù hợp với lĩnh vực này thay vì áp đặt những mô hình chuyển đổi số ở những lĩnh vực khác vào ngành nông nghiệp khiến HTX dở dang trên con đường ứng dụng công nghệ.

Chuyển đổi số trong nông nghiệp là một trong những lĩnh vực ưu tiên trong chuyển đổi số quốc gia. Trong đó, người nông dân là trung tâm của chuyển đổi số.

HTX chưa là trung tâm chuyển đổi số?

Tuy nhiên theo các HTX, nhiều ứng dụng, công nghệ hiện nay chưa thực sự hướng đến người nông dân nên chưa tạo ra được ứng dụng rộng khắp trong nông nghiệp. Lấy ví dụ về vấn đề này, ông Trần Quang Võ, Phó Giám đốc HTX Nông nghiệp hữu cơ Sơn Lâm (Tuyên Quang) cho rằng, trong chăn nuôi hiện rất có rất nhiều ứng dụng như: Pigmania (Australia), Porcitec (Tây Ban Nha), Vietpig (Viện Chăn nuôi)…

Tuy mỗi phần mềm có một ưu điểm nhưng theo ông Võ, các ứng dụng này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế về quản lý giống tại các HTX nên gây nhiều khó khăn cho thành viên khi ứng dụng. Có phần mềm không cho dùng thử, phải mất thêm phí khi đồng bộ hóa với các thiết bị khác, có phần mềm đưa ra các yêu cầu quản lý quá rườm rà, mang nặng tính lý thuyết… Đặc biệt là các ứng dụng từ nước ngoài còn bất cập về ngôn ngữ, chi phí chuyển giao phần mềm cao nên gây khó cho người nông dân.

Ông Nguyễn Quốc Hưng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị HTX Nông nghiệp-dịch vụ Ia Ring (Gia Lai) cho biết, ngay việc ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm thôi nhưng sử dụng công nghệ châm phân tự động loại nào để phù hợp với cây trồng, nâng cao được giá trị sản xuất thì không phải người nông dân nào cũng biết. Trong khi trên thị trường có rất nhiều công nghệ châm phân với xuất xứ khác nhau.

Ông Hưng cũng cho rằng, có rất nhiều ứng dụng tích lũy tiền được các nhà sản xuất giới thiệu như Infina, MoMo, ZaloPay… nhưng rủi ro từ lừa đảo trên không gian mạng quá nhiều đi liền với các tranh chấp liên quan với các đơn vị cung cấp. Trong khi thực tế nhiều trường hợp gặp rủi ro nhưng chắc chắn chịu phần thiệt nên dù biết những ứng dụng này tiện dụng nhưng các thành viên HTX cũng hết sức e dè.

Có lẽ rất nhiều HTX mong muốn và hiểu được hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số vào trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, không phải họ muốn là có thể thực hiện được.

Nhiều HTX cho rằng hiện nay có rất nhiều công nghệ mới ra đời và khi họ đầu tư vào công nghệ mới cũng chính là đánh cược cả trang trại, vốn liếng vào đó. Đầu tư công nghệ có thể mang lại hiệu quả cao nhưng cũng có những rủi ro nhất định khiến họ gặp hiểm họa về tài chính. Trong khi các app về công nghệ phát triển nhanh chóng nhưng nông nghiệp lại luôn tiềm ẩn về rủi ro. Ngay cả sản xuất trong nhà kính nhưng không có nghĩa là rau màu không có dịch bệnh hay ứng dụng cảm biến nhiệt độ, dự báo thời tiết nhưng cũng không thể tránh được sự khắc nghiệt của thiên tai dịch bệnh.

Đặc biệt, trong quá trình ứng dụng công nghệ, các app điện tử, nông dân không thể tự khắc phục được các sự cố về máy móc, cảm biến… Thay vào đó, nông dân, thành viên HTX cần sự trợ lực ngay của những người có trình độ chuyên môn. Nếu điều này không được giải quyết trong thời gian phù hợp có thể gây thiệt hại lớn về kinh tế.

Cần coi nông dân, HTX là trung tâm của quá trình chuyển đổi số trong ngành nông nghiệp để có những hỗ trợ phù hợp hơn.

Tuy nhiên theo các chuyên gia, hiện các doanh nghiệp đầu tư công nghệ, sản xuất ra các ứng dụng nông nghiệp vẫn chưa tập trung vào việc giải quyết nhanh chóng những khó khăn, gián đoạn, khiếu nại trong ứng dụng kỹ thuật nên không tạo được niềm tin, sự hứng khởi cho nông dân, HTX trong chuyển đổi số.

Chia sẻ trong một tọa đàm gần đây, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân cho rằng, một trong những rào cản trong chuyển đổi số của HTX, nhất là những HTX ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi đó là họ mới chỉ khởi đầu của quá trình này bằng điện thoại, chưa có nhiều các công nghệ hiện đại mang tính đồng bộ, thậm chí nhiều nông dân, HTX vẫn còn chưa có điện thoại thông minh. Việc ứng dụng công nghệ bằng máy tính, máy in, các công nghệ tự động vẫn còn khiêm tốn. Đi liền với đó là công tác quản trị, quảng bá về chuyển đổi số vẫn còn lỏng lẻo.

Thống kê của Bộ TT&TT cũng cho thấy, tỷ lệ người dân ở nông thôn, miền núi hiện dùng điện thoại thông minh vẫn còn thấp, chỉ khoảng 30% (bằng một nửa so với mức bình quân chung của cả nước). Và khi người dân không có điện thoại thông minh thì việc khởi đầu cho quá trình chuyển đổi số đã gặp khó khăn.

Cần tính hiệu quả trong ứng dụng công nghệ

Hiện, 65% dân số Việt Nam đang ở khu vực nông thôn. Những năm gần đây, nông nghiệp vẫn là trụ đỡ quan trọng của nền kinh tế. Ngay như năm nay, khi nhiều ngành như dệt may, gỗ… gặp khó khăn do suy thoái kinh tế thì nông nghiệp vẫn khẳng định được thế mạnh của mình khi giá trị xuất siêu 10 tháng năm 2023 đạt 9,3 tỷ USD, tăng 26,2% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong sự phát triển của ngành nông nghiệp, không thể không nhắc đến nền tảng của các HTX trong chuỗi giá trị hàng hóa. Do đó, để HTX tiếp tục phát triển cần đẩy mạnh chuyển đổi số cho khu vực này. Nhưng để chuyển đổi số hiệu quả cho các HTX thì điều cần làm là phải coi nông dân, HTX là trung tâm của quá trình này. Nông dân, HTX thực chất không cần quá nhiều công nghệ, ứng dụng mới mà điều quan trọng là họ quan tâm nhiều hơn đến tính hiệu quả trong quá trình triển khai, ứng dụng công nghệ.

Ông Phan Thanh Trung, Giám đốc Công ty Cổ phần Airnano Việt Nam, cho biết các HTX muốn chuyển đổi số hiệu quả cần có sự đồng hành dẫn dắt từ chính các doanh nghiệp, đơn vị nghiên cứu công nghệ trong việc chuyển giao khoa học kỹ thuật và sự đồng hành của các cấp quản lý trong việc hoàn thiện, tháo gỡ cơ chế.

Để làm được điều này, các đơn vị cung cấp nền tảng số cần phải hiểu những khó khăn, mong muốn của các HTX cũng như tìm hiểu sâu hơn về các chu kỳ phát triển của cây trồng vật nuôi. Có như vậy mới thu hẹp được khoảng cách giữa công nghệ nghiên cứu và thực tế sản xuất kinh doanh trong ngành nông nghiệp. Không thể áp dụng các công nghệ của nước ngoài, các doanh nghiệp sản xuất lớn để ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao cho nông dân, HTX ở trong nước. Và mỗi HTX ở từng lĩnh vực khác nhau như trồng lúa, chăn nuôi, thủy sản cũng cần có những công nghệ ứng dụng phù hợp.

Còn theo Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân, cần có sự đầu tư cho chuyển đổi số trong nông nghiệp nhiều hơn mới có thể giúp HTX đi tắt đón đầu và thúc đẩy các HTX vùng dân tộc thiểu số ứng dụng công nghệ số hiệu quả. Trong khi không chỉ doanh nghiệp mà các cơ quan quản lý cũng đã khẳng định, kinh tế tập thể, HTX chính là mảnh đất màu mỡ, nhiều dư địa để chuyển đổi số vì chuyển đổi số trong khu vực này mới manh nha.

Và để giải quyết được bài toán này, một trong những yếu tố cần quan tâm nhất đó chính là nguồn vốn nên việc đẩy mạnh hỗ trợ các HTX đầu tư công nghệ. Đi liền với đó là cần có sự hỗ trợ trong nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để giúp các HTX thuận lợi trong ứng dụng công nghệ.

“Nếu có công nghệ mà không có nguồn nhân lực thì các doanh nghiệp, người dân ở thành phố, vùng đồng bằng còn khó chuyển đổi số chứ không nói đến người dân, HTX ở vùng sâu vùng xa. Đây là bài toán cần các cấp, các ngành chung tay nhằm giúp các HTX thu hút được nguồn lực chất lượng cao, từ đó tạo thuận lợi trong chuyển đổi số”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân nhấn mạnh.

Theo Huyền Trang – vnbusiness.vn

Công nghệ thông tin ‘chắp cánh’ cho HTX dân tộc miền núi vươn xa

Thương mại điện tử, công nghệ số đã và đang giúp người dân, HTX khu vực miền núi tiêu thụ nông sản, kinh doanh thuận lợi hơn nhưng vẫn còn nhiều nông sản, HTX ở vùng sâu vùng xa chưa tiếp cận được với nền tảng công nghệ hiện đại.

Ông Nguyễn Hoàng Anh, Giám đốc HTX sản xuất nấm ăn, nấm dược liệu Mù Cang Chải (Yên Bái) cho biết, tại địa phương có đến hơn 90% người dân là đồng bào dân tộc thiểu số nhưng các thành viên HTX đã biết bán hàng bằng điện thoại thông minh, máy tính.

Bước đầu ứng dụng công nghệ

Cũng nhờ kết nối internet mà thành viên HTX tiếp cận được với chuyên gia nông nghiệp ở nhiều nơi để hỗ trợ sản xuất cũng như học tập kinh nghiệm phát triển nông nghiệp ở trong và ngoài nước. Đặc biệt, thông qua các lớp đào tạo về ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số do Liên minh HTX tỉnh kết hợp với các ban ngành triển khai, không ít thành viên trong HTX đã biết chụp ảnh, quay video, viết bài giới thiệu sản phẩm trên mạng xã hội để quảng bá và tiếp cận khách hàng.

Chính vì vậy mà HTX đã hoạt động hiệu quả, tạo việc làm ổn định cho 10 thành viên với mức lương từ 6-8 triệu đồng/người/tháng và 60 lao động địa phương với mức thu nhập từ 150-200 nghìn đồng/ngày.

Chị Đoàn Thị Lương, Giám đốc HTX Chế biến kinh doanh tổng hợp Đoàn Lương (TP Yên Bái) chia sẻ, ngoài ứng dụng công nghệ vào chế biến các sản phẩm từ quả táo mèo theo hướng hiện đại khép kín, việc sử dụng công nghệ trong tiếp cận khách hàng đã giúp HTX có cơ hội xúc tiến thương mại, đưa sản phẩm đến các thành phố lớn và cả ở nước ngoài.

Tại Tọa đàm “Ứng dụng công nghệ thông tin cho các tổ hợp tác, HTX vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi” ngày 22/11, ông Đỗ Nhân Đạo, Chủ tịch Liên minh HTX Yên Bái chia sẻ, thời gian qua, không ít HTX trên địa bàn tỉnh và ở vùng miền núi đã ứng dụng công nghệ thông tin vào sản xuất kinh doanh, từ đó thúc đẩy phát triển thương mại nội địa và xuất khẩu.

Tiêu biểu như HTX Kiến Thuận (Văn Chấn) là một trong những đơn vị đầu tàu trong ứng dụng công nghệ thông tin vào sản xuất kinh doanh và xuất khẩu giúp doanh thu tăng từ 10 tỷ đồng lên trên 20 tỷ đồng/năm.

Ứng dụng công nghệ thông tin giúp sản phẩm của các HTX ở miền núi đến gần hơn với khách hàng.

Nắm bắt cơ hội về kinh tế số, Tỉnh ủy Yên Bái đã ban hành Nghị quyết 51 và UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 86 về việc hỗ trợ đưa hộ sản xuất nông nghiệp lên sàn thương mại điện tử, thúc đẩy phát triển kinh tế số nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Yên Bái, Liên minh HTX tỉnh đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, hỗ trợ các HTX, tổ hợp tác mở tài khoản giới thiệu, mua, bán trên các sàn thương mại điện tử.

Đặc biệt, có những tổ hợp tác, HTX dù ở vùng miền núi, vùng sâu vùng xa nhưng đã ứng dụng công nghệ thông tin bắt đầu từ chiếc điện thoại thông minh cùng với sự thay đổi tư duy trong sản xuất kinh doanh. Đây được coi là nền móng quan trọng trên con đường chuyển đổi số, thích ứng thời đại 4.0 cho đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, theo đại diện các HTX, do hoạt động trên địa bàn đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhiều thành viên, người lao động trong hầu hết HTX vốn quen với cách sản xuất kinh doanh truyền thống nên khi ứng dụng công nghệ vào bán hàng còn gặp nhiều vướng mắc, bỡ ngỡ.

Ông Đàm Văn Việt, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX Thái Sơn (huyện Lục Yên, Yên Bái) cho biết, để người tiêu dùng nắm bắt thông tin và chất lượng sản phẩm nhanh nhất, các HTX không thể quảng bá, truyền thông theo kiểu truyền thống mà công nghệ thông tin chính là phương tiện hỗ trợ HTX quảng bá rộng, nhanh và hiệu quả nhất hiện nay.

Vậy nhưng, không phải HTX nào ở vùng miền núi cũng có thể dễ dàng làm được điều này. Bởi khi tiêu thụ nông sản bằng công nghệ hiện đại, dù là sản phẩm nào thì cũng phải có công bố đảm bảo chất lượng. Đi liền với đó khâu vận chuyển cần được quan tâm để bảo đảm thời gian cũng như chất lượng sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Thế nhưng, hiện nay, nhìn chung hệ thống giao thông ở các tỉnh miền núi chưa phát triển, gây khó khăn khi vận chuyển nông sản từ đồng ruộng về nhà máy, đến các điểm phân phối, kho bán hàng hiện đại.

Theo một số doanh nghiệp, hiện nhu cầu của người tiêu dùng đối với các sản phẩm đặc sản vùng miền và các sản phẩm nông sản an toàn rất lớn. Vậy nhưng có những thời điểm, nhu cầu thị trường về những mặt hàng này tăng thì năng lực cung ứng của các tổ hợp tác, HTX ở khu vực miền núi lại bị gián đoạn do quy mô và năng lực sản xuất còn hạn chế.

HTX là bệ đỡ trong chuyển đổi số 

Thực tế cho thấy, ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất kinh doanh giúp các HTX tiếp cận được đa dạng khách hàng, tiết kiệm nhiều chi phí bán hàng, marketing truyền thông, phân phối và tối ưu chi phí lưu kho.

Đặc biệt, HTX ở các tỉnh miền núi có lợi thế về đất đai để phát triển kinh tế hàng hóa trên quy mô lớn. Điều này buộc các HTX phải ứng dụng công nghệ thông tin vào trong tiêu thụ thì mới giải quyết được tình trạng dư thừa nông sản khi thu hoạch rộ. Trong khi mua hàng bằng công nghệ thông tin đã là hình thức quen thuộc đối với người tiêu dùng.

Chia sẻ tại Tọa đàm, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân khẳng định ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số giúp nông đặc sản của các HTX ở vùng miền núi phía Bắc có thể đến các vùng miền xa hơn. Tuy nhiên, muốn các HTX này chuyển đổi số hiệu quả thì các thành viên trong HTX cần thêm nhiều kiến thức và thông tin hơn nữa về cách sử dụng nền tảng số. Chính vì vậy, các ngành chức năng cần tiếp tục tạo điều kiện để các HTX nâng cao năng lực trong chuyển đổi số như hỗ trợ cơ sở vật chất, đào tạo tập huấn.

Đặc biệt, các thành viên HTX ở miền núi chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, vì vậy có những khó khăn trong tiếp cận chính sách hỗ trợ về ứng dụng thông tin, nên việc đẩy mạnh tuyên truyền bằng nhiều hình thức mới có thể giúp người dân, HTX tiếp cận được nguồn lực hỗ trợ.

Theo Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam, các cơ quan quản lý cần có cơ chế giúp HTX ở miền núi đưa sản phẩm đến gần với người tiêu dùng như có các chương trình cho vay ưu đãi để hỗ trợ HTX ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số. Đặc biệt là quan tâm hình thành các HTX do các bạn trẻ khởi nghiệp để xóa bớt những khó khăn và làm bệ đỡ trong chuyển đổi số vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Theo Huyền Trang – vnbusiness.vn