Tư vấn, Chứng nhận Hợp chuẩn – Hợp quy

    Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam trở thành một phần của các Hiệp định thương mại tự do, cạnh tranh trở thành một yếu tố mang tính quốc tế đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, hợp tác xã. Bên cạnh các yếu tố cạnh tranh khác, chất lượng sản phẩm trở thành một trong những chiến lược quan trọng nhất làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, hợp tác xã. Ngày nay, người tiêu dùng có quyền lựa chọn nhà sản xuất, cung ứng một cách dễ dàng hơn. Yêu cầu về chất lượng của thị trường trong nước và nước ngoài càng ngày càng khắt khe.

Bởi vậy, chất lượng sản phẩm đóng vai trò quan trọng quyết định sự sống còn của doanh nghiệp, hợp tác xã, vì:

– Chất lượng sản phẩm tạo ra sức hấp dẫn, thu hút người mua và tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp, HTX. Sản phẩm có chất lượng cao là một trong những căn cứ quan trọng khiến khách hàng quyết định mua hàng.

– Chất lượng sản phẩm làm tăng uy tín, danh tiếng và hình ảnh của doanh nghiệp, HTX, điều này có tác động rất lớn tới quyết định lựa chọn mua và dùng các sản phẩm của khách hàng.

– Chất lượng sản phẩm cao là cơ sở cho hoạt động duy trì và mở rộng thị trường tạo ra sự phát triển lâu dài, bền vững cho các doanh nghiệp, HTX.

– Nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa tương đương với tăng năng suất, giảm phế thải trong sản xuất, nhờ đó giảm các nguồn gây ô nhiễm môi trường.

– Nâng cao chất lượng sản phẩm còn giúp người tiêu dùng tiết kiệm được chi phí, sức lực, còn là giải pháp quan trọng để tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu và lợi nhuận, trên cơ sở đó đảm bảo thống nhất các lợi ích của khách hàng, doanh nghiệp, HTX và xã hội.

– Trong điều kiện ngày nay, nâng cao chất lượng sản phẩm là cơ sở quan trọng cho việc thúc đẩy quá trình hội nhập và cụ thể là tiếp cận được các thị trường nước ngoài đầy tiềm năng.

    Tóm lại, nâng cao chất lượng sản phẩm là tăng khả năng cạnh tranh, khẳng định vị thế của sản phẩm, hàng hoá và thương hiệu của doanh nghiệp, HTX trên thị trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay.

    Song hành với xu hướng của thế giới, lĩnh vực chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy ở Việt Nam cũng đang ngày càng hoàn thiện và đa dạng hóa nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp, HTX những dịch vụ chứng nhận chuyên nghiệp và có giá trị. Đây là một trong những công cụ hữu hiệu nhất đang được sử dụng và công nhận rộng rãi trên toàn thế giới về khía cạnh chất lượng sản phẩm, dịch vụ.

   Đối với khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã, các ngành nghề và sản phẩm chủ yếu liên quan đến nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp… Đây được xem là khu vực kinh tế yếu thế nhất nhưng lại có vai trò to lớn đối với mục tiêu phát triển bình đẳng giữa nông thôn và thành thị, nông nghiệp và công nghiệp… Hiện cả nước có hơn 26.040 HTX và chủ yếu tại vùng nông thôn. Sản phẩm của khu vực kinh tế này rất đa dạng, phong phú nhưng giá trị kinh tế và lợi thế cạnh tranh thấp đã và đang kìm hãm sự phát triển của khu vực. Nhiệm vụ đặt ra là giải quyết các tồn tại trong chuỗi giá trị sản phẩm của các HTX thông qua các giải pháp công nghệ, thị trường, nguồn vốn, nhân lực… Để nâng cao giá trị sản phẩm, tạo dựng và thúc đẩy sự phát triển bền vững không còn cách nào khác tốt hơn là cải thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm, khẳng định chất lượng sản phẩm thông qua các chứng nhận hợp chuẩn hợp quy cho sản phẩm của HTX.

    Được Liên minh HTX Việt Nam thành lập năm 2004, Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường (COSTE) đã và đang tích cực hoàn thiện và mở rộng các dịch vụ khoa học, công nghệ để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình là cung cấp các dịch vụ khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường cho khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã. Riêng trong lĩnh vực hợp chuẩn – hợp quy, COSTE đã và đang cung cấp các dịch vụ tư vấn, chứng nhận cho các HTX, doanh nghiệp, hộ nông dân như sau:

  • Dịch vụ tư vấn, chứng nhận VietGAP (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản),
  • Dịch vụ tư vấn, chứng nhận GlobalGAP (trồng trọt),
  • Dịch vụ tư vấn, chứng nhận Hữu cơ (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản),
  • Dịch vụ tư vấn, chứng nhận ISO 22000
  • Dịch vụ tư vấn, chứng nhận HACCP
  • Dịch vụ tư vấn, chứng nhận ISO 9001
  • Dịch vụ tư vấn, chứng nhận ISO 14001

    Với lợi thế là đơn vị chuyên môn trong Hệ thống Liên minh HTX Việt Nam, các chuyên gia có kinh nghiệm và tâm huyết với người nông dân, HTX, COSTE sẽ cung cấp các dịch vụ cho HTX, doanh nghiệp, hộ cá thể một cách phù hợp, chuyên nghiệp và hiệu quả nhất.

 

Liên hệ tư vấn miễn phí: Hotline 036.385.4402 (Phòng Ứng dụng và chuyển giao công nghệ – COSTE)

COSTE – ĐỒNG HÀNH CÙNG HỢP TÁC XÃ

Địa chỉ: Tòa nhà NEDCEN, Số 149 Giảng Võ, Phường Cát Linh, Quận Đống Đa, Tp Hà Nội.
Điện thoại: 0243.8234.456 | Email: coste@vca.org.vn | Website: www.coste.org.vn

Đào tạo, tập huấn, tư vấn, chuyển giao công nghệ

  1. Khái niệm Chuyển giao công nghệ?

Chuyển giao công nghệ: là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công nghệ.

Trong đó:

– Chuyển giao quyền sở hữu công nghệ: là việc chủ sở hữu công nghệ chuyển giao toàn bộ quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt công nghệ cho tổ chức, cá nhân khác. Trường hợp công nghệ là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thì việc chuyển giao quyền sở hữu công nghệ phải được thực hiện cùng với việc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.

– Chuyển giao quyền sử dụng công nghệ: tổ chức, cá nhân cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng công nghệ của mình.

Phạm vi chuyển giao quyền sử dụng công nghệ do các bên thỏa thuận bao gồm:

+ Độc quyền hoặc không độc quyền sử dụng công nghệ;

+ Được chuyển giao lại hoặc không được chuyển giao lại quyền sử dụng công nghệ cho bên thứ ba;

+ Lĩnh vực sử dụng công nghệ;

+ Quyền được cải tiến công nghệ, quyền được nhận thông tin cải tiến công nghệ;

+ Độc quyền hoặc không độc quyền phân phối, bán sản phẩm do công nghệ được chuyển giao tạo ra;

+ Phạm vi lãnh thổ được bán sản phẩm do công nghệ được chuyển giao tạo ra;

+ Các quyền khác liên quan đến công nghệ được chuyển giao.

Trường hợp công nghệ là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thì việc chuyển giao quyền sử dụng công nghệ phải được thực hiện cùng với việc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.

2. Chủ thể có quyền chuyển giao công nghệ bao gồm:

– Chủ sở hữu công nghệ có quyền chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng công nghệ.

– Tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu công nghệ cho phép chuyển giao quyền sử dụng công nghệ có quyền chuyển giao quyền sử dụng công nghệ đó.

– Tổ chức, cá nhân có công nghệ là đối tượng sở hữu công nghiệp nhưng đã hết thời hạn bảo hộ hoặc không được bảo hộ tại Việt Nam có quyền chuyển giao quyền sử dụng công nghệ đó.

3. Đối tượng của chuyển giao công nghệ:

a. Đối tượng công nghệ được chuyển giao:

– Bí quyết kỹ thuật (là thông tin được tích luỹ, khám phá trong quá trình nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh của chủ sở hữu công nghệ có ý nghĩa quyết định chất lượng, khả năng cạnh tranh của công nghệ, sản phẩm công nghệ);

– Kiến thức kỹ thuật về công nghệ được chuyển giao dưới dạng phương án công nghệ, quy trình công nghệ, giải pháp kỹ thuật, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật, chương trình máy tính, thông tin dữ liệu;

– Giải pháp hợp lý hoá sản xuất, đổi mới công nghệ.

Đối tượng công nghệ được chuyển giao có thể gắn hoặc không gắn với đối tượng sở hữu công nghiệp.

b. Đối tượng công nghệ được khuyến khích chuyển giao: là công nghệ cao, công nghệ tiên tiến đáp ứng một trong các yêu cầu sau đây:

– Tạo ra sản phẩm mới có tính cạnh tranh cao;

– Tạo ra ngành công nghiệp, dịch vụ mới;

– Tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu;

– Sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo;

– Bảo vệ sức khỏe con người;

– Phòng, chống thiên tai, dịch bệnh;

– Sản xuất sạch, thân thiện môi trường;

– Phát triển ngành, nghề truyền thống.;

4. Hình thức chuyển giao công nghệ bao gồm:

Hợp đồng chuyển giao công nghệ độc lập;

Phần chuyển giao công nghệ trong dự án hoặc hợp đồng sau đây:

– Dự án đầu tư;

– Hợp đồng nhượng quyền thương mại;

– Hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp;

– Hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị kèm theo chuyển giao công nghệ;

Hình thức chuyển giao công nghệ khác theo quy định của pháp luật.

5. Hợp đồng chuyển giao công nghệ:

a. Hình thức của hợp đồng chuyển giao công nghệ: là bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị tương đương văn bản, bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

b. Hợp đồng chuyển giao công nghệ bao gồm những nội dung chính sau đây:

– Tên hợp đồng chuyển giao công nghệ, trong đó ghi rõ tên công nghệ được chuyển giao;

– Đối tượng công nghệ được chuyển giao, sản phẩm do công nghệ tạo ra;

– Chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng công nghệ;

– Phương thức chuyển giao công nghệ;

– Quyền và nghĩa vụ của các bên;

– Giá, phương thức thanh toán;

– Thời điểm, thời hạn hiệu lực của hợp đồng;

– Khái niệm, thuật ngữ sử dụng trong hợp đồng (nếu có);

– Kế hoạch, tiến độ chuyển giao công nghệ, địa điểm thực hiện chuyển giao công nghệ;

– Trách nhiệm bảo hành công nghệ được chuyển giao;

– Phạt vi phạm hợp đồng;

– Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;

– Pháp luật được áp dụng để giải quyết tranh chấp;

– Cơ quan giải quyết tranh chấp;

– Các thoả thuận khác không trái với quy định của pháp luật Việt Nam.

c. Đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ

Các bên tham gia giao kết hợp đồng chuyển giao công nghệ có quyền đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ tại cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có thẩm quyền làm cơ sở để được hưởng các ưu đãi theo quy định của Luật Chuyển giao công nghệ các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Hồ sơ đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ bao gồm:

– Đơn đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ;

– Bản gốc hoặc bản sao hợp đồng chuyển giao công nghệ.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có thẩm quyền xem xét, quyết định cấp Giấy chứng nhận đăng ký Hợp đồng chuyển giao công nghệ.

Liên hệ tư vấn miễn phí: Hotline 036.385.4402 (Phòng Ứng dụng và chuyển giao công nghệ – COSTE)

COSTE – ĐỒNG HÀNH CÙNG HỢP TÁC XÃ

Địa chỉ: Tòa nhà NEDCEN, Số 149 Giảng Võ, Phường Cát Linh, Quận Đống Đa, Tp Hà Nội.
Điện thoại: 0243.8234.456 | Email: coste@vca.org.vn | Website: www.coste.org.vn

Nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ

Khoa học công nghệ là gì?

Theo Luật Khoa học Công nghệ năm 2013:

Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy.

Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.

Bởi đó, khi nhắc đến khoa học công nghệ là nhắc đến dây chuyền công nghệ, kỹ thuật sản xuất, quy trình sản xuất, bí quyết công nghệ, thiết bị công nghệ, nhân sự công nghệ cao… Ngày nay, khoa học công nghệ quyết định rất lớn đến sự thành công của mỗi doanh nghiệp, bởi khoa học công nghệ không chỉ tác động làm tăng năng suất, chất lượng, mẫu mã sản phẩm mà còn góp phần vào chuỗi cung ứng, công tác tiếp thị sản phẩm, chuỗi bán lẻ… Có thể nói khoa học công nghệ đã tác động vào tất cả các khâu, các mắt xích của chuỗi giá trị mọi sản phẩm có trên thị trường hiện nay.

Với 30 năm kinh nghiệm, Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường đã thực hiện hàng trăm dự án, nhiệm vụ, đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp bộ, ngành về nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ phù hợp cho thực tiễn sản xuất tại các HTX trên cả nước. Qua thời gian, các dự án đạt được những thành công nhất định, Trung tâm đã và đang khẳng định vị trí và vai trò nòng cốt trong hoạt động tư vấn, ứng dụng và chuyển giao công nghệ cho khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã.

Một số công nghệ Trung tâm đã nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao thành công cho các HTX:

– Công nghệ xử lý chất thải rắn chăn nuôi thành phân bón hữu cơ vi sinh bằng chế phẩm sinh học COSTE-TV05:

 Năm 2018, Trung tâm đã chuyển giao công nghệ xử lý chất thải rắn trong chăn nuôi bò sữa thành phân bón hữu cơ vi sinh bằng chế phẩm sinh học COSTE-TV05 cho HTX Mộc Bắc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Sử dụng chế phẩm trong chăn nuôi giúp hạn chế sinh khí gây mùi hôi thối, ức chế và tiêu diệt sự phát triển của hệ sinh vật có hại, phân giải nhanh chất thải chăn nuôi. Sau 45 ngày xử lý bằng chế phẩm, chất thải đạt tiêu chuẩn làm phân bón hữu cơ vi sinh, đáp ứng các yêu cầu về chất lượng phân bón hữu cơ vi sinh được lưu hành tại Việt Nam.

– Công nghệ bảo quản nông sản tươi bằng chế phẩm sinh học Chitosan-nano bạc CT01:

Trung tâm Khoa học công nghệ và Môi trường đã chuyển giao công nghệ bảo quản nông sản (bưởi, cam) bằng chế phẩm sinh học chitosan-nano bạc CT01 cho HTX Nông sản sạch Đông Lai, xã Đông Lai, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình. Chế phẩm sinh học chitosan-nano bạc CT01 giúp bảo quản quả có múi (bưởi, cam, quít) lâu hơn gấp 3 lần so với phương pháp bảo quản truyền thống. Tổn thất sau bảo quản dưới 12% sau 50 ngày. Công nghệ bảo quản trái cây bằng chế phẩm chitosan-nano bạc CT01 đã mở ra triển vọng mới trong bảo quản các sản phẩm quả dễ héo như vải, nhãn, mận, đào… phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Hình a. Chế phẩm chitosan-nano bạc CT01 Hình b. Hỗ trợ chuyển giao dây chuyền thiết bị phủ màng chitosan-nano bạc

– Công nghệ sản xuất chè ướp hương hoa:

Năm 2019, với mục đích đa dạng hóa, gia tăng giá trị sản phẩm, tạo ra các sản phẩm chè chất lượng cao, nâng cao hiệu quả sản xuất. Trung tâm đã chuyển giao quy trình sản xuất chè ướp hương hoa bằng công nghệ sấy lạnh cho HTX Tây Côn Lĩnh, xã Thượng Sơn, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Chè ướp hương bằng công nghệ sấy lạnh giúp giữ nguyên được phẩm chất chè ban đầu, không bị mất màu, biến chất, tiết kiệm thời gian sấy và mang hương đặc trưng của từng loại hoa trong từng sản phẩm.

– Công nghệ trồng dược liệu dưới tán cây công nghiệp:

Tận dụng diện tích đất dưới tán cây công nghiệp lâu năm, Trung tâm đã nghiên cứu và chuyển giao quy trình công nghệ trồng dược liệu đinh lăng dưới tán cây công nghiệp cho 2 HTX tại tỉnh Đồng Nai. Đề tài đã chứng minh hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của mô hình xen canh này rất tốt. Đặc biệt, công nghệ dễ dàng ứng dụng cho các HTX và đảm bảo môi trường tự nhiên.

– Công nghệ sấy nông sản bằng quang năng:

Năm 2020, qua kết quả thực hiện đề tài khoa học công nghệ, HTX Nông nghiệp Tân Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đã được Trung tâm hỗ trợ thiết bị và chuyển giao công nghệ sấy lúa bằng công nghệ quang năng. Công nghệ này giúp rút ngắn thời gian sấy xuống chỉ còn 12 giờ so với phơi tự nhiên (mất đến 24 giờ), mang lại hiệu quả thiết thực cho các thành viên, góp phần giảm chi phí sấy, nâng cao chất lượng sản phẩm cho HTX. So sánh với các công nghệ thiết bị sấy khác (sấy vỉ ngang, sấy tầng sôi, sấy tháp) công nghệ này đảm bảo chất lượng lúa xuất khẩu, giảm phát khí thải độc hại, đó là chưa kể các ích lợi khác do sử dụng năng lượng sạch – năng lượng mặt trời.

Liên hệ tư vấn miễn phí: Hotline 036.385.4402 (Phòng Ứng dụng và chuyển giao công nghệ – COSTE)

COSTE – ĐỒNG HÀNH CÙNG HỢP TÁC XÃ

Địa chỉ: Tòa nhà NEDCEN, Số 149 Giảng Võ, Phường Cát Linh, Quận Đống Đa, Tp Hà Nội.
Điện thoại: 0243.8234.456 | Email: coste@vca.org.vn | Website: www.coste.org.vn

HTX nhập cuộc thương mại điện tử xuyên biên giới

Đại dịch Covid-19 đã làm thay đổi hành vi mua sắm của người tiêu dùng từ trực tiếp sang trực tuyến. Việc các HTX đẩy mạnh bán hàng online hay thực hiện bán hàng thông qua các nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới sẽ giúp hoạt động xúc tiến thương mại tốt hơn và mở rộng đầu ra nông sản với các thị trường tiềm năng.

Thuong-mai-dien-tu-8502-1634714559.jpg

Khu vực HTX đang đẩy mạnh bán hàng online, thực hiện bán hàng thông qua các nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới (Ảnh: Int)

Tại hội nghị tổng kết Chương trình kết nối cung – cầu tiêu thụ nông sản cho HTX, THT (Chương trình 503) cho thấy, chỉ trong một thời gian ngắn, các đơn vị trực thuộc Liên minh HTX Việt Nam đã hỗ trợ, kết nối tiêu thụ được 15.047,97 tấn (rau, củ, quả, trái cây, thủy hải sản, hàng tiêu dùng cho các HTX. Đây chính là kết quả mà hệ thống Liên minh HTX Việt Nam làm được sau khi đẩy mạnh hình thức bán hàng trực tuyến. Từ đây, nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới cũng nhận được sự quan tâm của nhiều HTX.

Tăng doanh thu nhờ nhập cuộc sớm

HTX nông nghiệp sản xuất và thương mại Sáu Nhung (Kon Tum) thời gian gần đây đã nắm bắt được vai trò của việc bán hàng qua các trang thương mại điện tử như Shopee, voso, Lazada… Gần đây nhất, HTX đã đưa sản phẩm chế biến từ cà phê, trái cây lên sàn Alibaba.com để tiếp cận khách hàng trong và ngoài nước.

Ông Nguyễn Văn Sáu, Giám đốc HTX cho biết, điều thuận lợi khi đưa sản phẩm lên sàn Alibaba.com là trang thương mại điện tử này đã dịch sang tiếng Việt nên HTX dễ nắm bắt thông tin, không phải tốn thêm chi phí thuê người dịch.

Cũng là HTX mạnh dạn đưa nông sản lên sàn Alibaba.com, HTX Dịch vụ Tổng hợp Kiến Thuận (Yên Bái) nhận thấy đây là kênh bán hàng ưu việt, thích hợp cho các HTX.

Ông Đỗ Tuấn Lương, Phó Giám đốc HTX Kiên Thuận, cho biết trước đây, 70% doanh thu của HTX là bán ở trong nước, phần còn lại mới đến từ xuất khẩu. Tuy nhiên, sau khi gia nhập Alibaba.com, sàn thương mại điện tử này đã giúp doanh thu xuất khẩu của HTX tăng lên đến 80%.

Đến nay, HTX đã có lượng khách hàng tương đối ổn định trên sàn Alibaba. Trong thời gian tới, HTX sẽ đẩy mạnh bán hàng qua nền tảng thương mại điện tử này để gia tăng lượng hàng xuất khẩu cũng như giúp nâng cao thu nhập thành viên.

Có thể thấy, bán hàng qua trang thương mại điện tử xuyên biên giới đang nhận được sự quan tâm của các HTX. Theo các chuyên gia, không chỉ các doanh nghiệp mà các HTX vẫn đang tìm đến sàn trực tuyến xuyên biên giới Alibaba. Nhất là HTX chuyên sản xuất và xuất các mặt hàng như thủ công mỹ nghệ, nông lâm thủy hải sản, may mặc và dệt may, nông sản…

Bán hàng qua các trang thương mại điện tử xuyên biên giới, giúp các HTX mở rộng thị trường nhanh chóng, từ đó nâng cao giá trị sản phẩm và lợi nhuận. Đặc biệt hiện nay, Liên minh HTX Việt Nam đang đẩy mạnh hỗ trợ phát triển các HTX theo chuỗi giá trị hàng hóa. Trong năm 2020, đã có 200 chuỗi giá trị hàng hóa được hỗ trợ xây dựng. Đây là nền tảng vững chắc giúp các HTX này đưa sản phẩm lên các sàn thương mại điện tử xuyên biên giới.

Theo Hiệp Hội Thương mại điện tử Việt Nam, có đến gần 50% doanh nghiệp hiện nay sẵn sàng mua hàng thông qua các trang thương mại điện tử xuyên quốc gia. Đặc biệt, đến nay, chỉ có 22% doanh nghiệp thực sự bán hàng và chỉ có 8% doanh nghiệp thực sự đầu tư bán hàng tại đây. Số còn lại chỉ tham gia mở gian hàng.

Điều này cho thấy, nếu biết cách nắm bắt, bán hàng qua các trang thương mại điện tử xuyên quốc gia chính là cơ hội tiềm năng cho các HTX. Và thị trường bán hàng thông qua các trang thương mại xuyên biên giới vẫn còn nhiều dư địa cho các HTX.

Hiện nay, để hỗ trợ các HTX, Liên minh HTX Việt Nam đã xây dựng gian bán hàng trên Alibaba.com. Gian bán hàng này đã bắt đầu đi vào hoạt động từ đầu tháng 10. Các sản phẩm trên gian hàng đa dạng từ hàng thủ công mỹ nghệ đến sản phẩm tươi là các đặc sản của địa phương do các HTX sản xuất.

Tuy nhiên, để bán hàng thành công trên các trang thương mại điện tử không hề dễ dàng vì đây là vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu và đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao.

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo, cho biết thông qua khảo sát HTX chuyển đổi số của Liên minh HTX Việt Nam cho thấy điều kiện cơ bản để tham gia các sàn thương mại điện tử xuyên biên giới là cán bộ, thành viên HTX phải sử dụng được các công cụ thông minh. Mô hình kinh doanh phải ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo chuỗi để vượt qua các hàng rào kỹ thuật của các đối tác trên thế giới và đặc biệt là có thể đáp ứng số lượng nông sản lớn mỗi lần xuất khẩu. HTX cũng cần phải đầu tư cho logistics để bảo đảm giá trị sản phẩm, đáp ứng nhu cầu mua hàng hóa của khách hàng. Bên cạnh đó, HTX cần phải có hạ tầng công nghệ thông tin, có trụ sở làm việc đầy đủ.

“Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có số ít HTX đáp ứng được những yêu cầu này”, Chủ tịch Nguyễn Ngọc Bảo cho biết.

Ông Nguyễn Công Thừa, Chủ tịch HĐQT HTX Anh Đào (Lâm Đồng) cho biết, các HTX sản xuất quy mô lớn nhỏ, không theo quy trình, thu hoạch theo mùa vụ nên khó làm việc với doanh nghiệp. Đây cũng là rào cản khi tham gia bán hàng trên các trang thương mại điện tử xuyên biên giới.

Gỡ rào cản, tăng cơ hội

Theo các chuyên gia, xuất khẩu nông sản qua kênh thương mại điện tử có nhiều lợi thế như tăng hiệu quả tiếp cận, tăng khả năng marketing đến khách hàng, giảm thời gian chuyển hàng và đặc biệt lợi nhuận có thể tăng gấp ba lần nếu so với xuất khẩu theo cách truyền thống. Tuy nhiên, cơ hội bao giờ cũng đi kèm thách thức.

Đó là những khó khăn trong vận chuyển hàng hoá, bảo quản hàng hoá, khâu thông quan hàng hóa, hiểu biết về thủ tục xuất nhập khẩu… Đây chính là những vấn đề mà các HTX cần phải tìm hiểu, nắm bắt, thực hành thành thạo.

Và để làm được điều này, đòi hỏi HTX phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, am hiểu về xuất nhập khẩu và công nghệ thông tin. Tuy nhiên đây cũng chính là khó khăn của các HTX hiện nay khi phần lớn cán bộ HTX trên 50 tuổi, ít tiếp xúc với công nghệ thông tin.

Để tận dụng lợi thế về bán hàng trên các trang thương mại điện tử, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng, trước mắt, cần tập trung vào làm việc với các địa phương xem các HTX đáp ứng được các yêu cầu về nhân lực, công nghệ thông tin, khả năng về chất lượng và số lượng hàng hóa, Liên minh HTX Việt Nam sẽ hỗ trợ đào tạo các HTX này một cách chuyên nghiệp, sau đó sẽ từng bước nhân rộng trên cả nước.

Ông Trường Sơn, Phó Tổng Giám đốc Saigon co.op, cho biết bán hàng trên Alibaba sẽ tạo sự đột phá cho HTX trong thời gian tới. Tuy nhiên ở đây mang tầm cỡ toàn cầu, chuyên nghiệp HTX cần có chiến lược rõ ràng (hiểu văn hóa các nước đối tác), có dữ liệu được số hóa (hình ảnh, tài liệu, video giới thiệu sản phẩm..), và có giải pháp tiếp cận khách hàng cụ thể.

Bên cạnh đó, HTX cần đăng ký nhãn hiệu, bao bì sản phẩm cần đầu tư bắt mắt đầy đủ thông tin. Có web site để người tiêu dùng thế giới có thể tìm hiểu thêm về HTX, sản phẩm.

Để hạn chế tính nhỏ lẻ, theo ông Hải, cần kết nối các HTX để trở thành các nhóm cùng kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, từ đó đáp ứng được nhu cầu của các đối tác trong và ngoài nước.

Huyền Trang

Chính phủ đặt mục tiêu GDP năm 2022 tăng 6-6,5%

Tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XV diễn ra tại Hà Nội sáng 20/10, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã trình bày Báo cáo kết quả phát triển kinh tế-xã hội năm 2021, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2022. Cổng TTĐT Chính phủ trân trọng giới thiệu toàn văn nội dung Báo cáo.

BÁO CÁO
KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN

KINH TẾ – XÃ HỘI NĂM 2021; DỰ KIẾN KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI NĂM 2022

 (Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính

trình bày tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XV)

_________

Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồng chí lão thành cách mạng!

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước!

Theo chương trình Kỳ họp, Chính phủ đã gửi đến Quốc hội 54 báo cáo và tờ trình về các lĩnh vực, trong đó có các báo cáo đánh giá đầy đủ, toàn diện về kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội (KTXH) năm 2021, dự kiến Kế hoạch phát triển KTXH năm 2022 và về công tác phòng, chống dịch COVID-19. Thay mặt Chính phủ, tôi xin báo cáo Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước những nội dung chủ yếu như sau:

I. TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ PHÁT TRIỂN KTXH NĂM 2021

Năm 2021 diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước; là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2021 – 2030 và các kế hoạch 5 năm 2021 – 2025 trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, thách thức mới gay gắt hơn. Do tiếp tục xuất hiện các đợt dịch COVID-19 với những biến chủng mới, kinh tế thế giới còn nhiều bất định và tăng trưởng không vững chắc; các nước trong khu vực Đông Nam Á bị ảnh hưởng nặng nề[1]. Trong nước, dịch COVID-19 bùng phát lần thứ tư ở nhiều địa phương với sự xuất hiện của biến chủng Delta có tốc độ lây lan rất nhanh, nguy hiểm hơn nhiều so với chủng gốc trước đây[2], lại xâm nhập sâu vào các trung tâm kinh tế, đô thị lớn… buộc chúng ta phải áp dụng nhiều biện pháp phòng, chống dịch chưa có tiền lệ, mạnh mẽ, quyết liệt hơn để thực hiện mục tiêu ưu tiên trước hết, trên hết là bảo vệ sức khỏe, tính mạng của Nhân dân; từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất kinh doanh, sinh kế và đời sống nhân dân.

Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương Đảng, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự kịp thời ban hành những quyết sách đặc thù phục vụ phòng, chống dịch, phát triển KTXH, bảo đảm an sinh xã hội và giám sát hiệu quả của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương và sự đồng tình, ủng hộ, chia sẻ, tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, rất đáng khích lệ trong toàn hệ thống và trên tất cả các lĩnh vực:

1. Tổ chức Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, kiện toàn nhân sự các chức danh lãnh đạo các cơ quan nhà nước

Trong điều kiện dịch COVID-19 diễn biến phức tạp tại một số địa phương, chúng ta đã chuẩn bị chu đáo và tổ chức rất thành công Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và kiện toàn nhân sự các chức danh lãnh đạo các cơ quan nhà nước, góp phần ổn định chính trị – xã hội, khẳng định sự đồng bộ, tính thống nhất của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ, tạo nền tảng vững chắc và điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

2. Về phòng, chống dịch COVID-19

Những tháng vừa qua công tác phòng, chống dịch COVID-19 là ưu tiên hàng đầu trong chỉ đạo, điều hành quyết liệt, mạnh mẽ của Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương; với tinh thần vừa có kế thừa và vừa có đổi mới vì chưa có tiền lệ nên phải bám sát yêu cầu thực tiễn; vừa làm vừa rút kinh nghiệm, bổ sung từng bước hoàn thiện các biện pháp phòng, chống dịch phù hợp với biến chủng mới lây lan nhanh, nguy hiểm, khó kiểm soát hơn theo phương châm 5K + vắc-xin + điều trị + công nghệ + đề cao ý thức của Nhân dân. Khi dịch bệnh đã nhiễm sâu tại các đô thị, vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, chúng ta đã nhanh chóng điều chỉnh tổ chức thực hiện theo cách tiếp cận toàn dân, lấy cấp xã là “pháo đài”, người dân là “chiến sỹ” và là trung tâm phục vụ, là chủ thể tham gia phòng, chống dịch; đưa dịch vụ y tế, an sinh xã hội đến cấp cơ sở để người dân tiếp cận kịp thời, hiệu quả hơn và bảo vệ an ninh, an toàn cho Nhân dân[3].

Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực, quyết tâm cao và phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các địa phương, đặc biệt là các lực lượng tuyến đầu chống dịch như y tế, quân đội, công an, các lực lượng cơ sở và sự đoàn kết, đồng tình ủng hộ, tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, công tác phòng, chống dịch ngày càng chuyển biến tích cực, hiệu quả hơn[4], nhất là sau khi nâng cấp, kiện toàn Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 và kịp thời điều động một lực lượng lớn chưa từng có, trong một thời gian rất ngắn với khoảng hơn 300 nghìn lượt cán bộ, chiến sỹ các lực lượng y tế, quân đội, công an từ Trung ương và các địa phương khác hỗ trợ cho các địa phương thực hiện giãn cách và tăng cường giãn cách xã hội[5]. Đồng thời, đẩy mạnh ngoại giao vắc-xin, thành lập Quỹ vắc-xin phòng chống COVID-19[6], tích cực đẩy mạnh nhập khẩu, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sản xuất vắc-xin trong nước và phát động chiến dịch tiêm chủng lớn nhất từ trước tới nay với tinh thần “vắc-xin tốt nhất là vắc-xin được tiêm sớm nhất”[7]. Kịp thời động viên, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phòng, chống dịch[8]. Duy trì phù hợp hoạt động sản xuất kinh doanh ở những nơi đủ điều kiện, an toàn dịch bệnh; hạn chế tối đa đứt gãy chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động.

Có thể nói, chúng ta đã nỗ lực hết sức mình trong điều kiện có thể vì nguồn lực, năng lực hệ thống y tế còn nhiều hạn chế, bất cập, nhất là ở cấp cơ sở[9], hầu hết các vật tư, sinh phẩm, thiết bị y tế, đặc biệt là thuốc, vắc-xin trong nước chưa sản xuất được, phải nhập khẩu trong điều kiện nguồn cung khan hiếm trên toàn cầu. Vì vậy, kết quả đạt được như Trung ương đã đánh giá: “Các chủ trương, chính sách, biện pháp được triển khai trong thời gian qua là đúng đắn, kịp thời và chỉ đạo, tổ chức thực hiện khẩn trương, quyết liệt, đạt được những kết quả quan trọng. Đến nay dịch bệnh cơ bản được kiểm soát trên phạm vi toàn quốc và đang thực hiện lộ trình thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh tại nhiều địa phương”[10].

Điều nổi bật là, trong những thời điểm khó khăn, thử thách gay gắt nhất của dịch bệnh, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy mạnh mẽ, đã xuất hiện rất nhiều tấm gương, nghĩa cử cao đẹp, lay động lòng người. Hàng chục nghìn y, bác sĩ, nhân viên y tế, những “chiến sỹ áo trắng”, phải xa gia đình trong thời gian dài, chấp nhận hy sinh, kiên cường bám trụ, bất chấp hiểm nguy, “chiến đấu” quên mình vì sức khỏe, tính mạng của người dân. Hàng trăm nghìn cán bộ, chiến sỹ quân đội, công an, Tổ COVID cộng đồng bám sát địa bàn, tận tâm, tận lực, không ngại gian khổ, khó khăn ngày đêm, hỗ trợ các địa phương và người dân. Nhiều người sau khi nhiễm và khỏi bệnh tự nguyện tham gia phòng, chống dịch. Trong số đó, có những người đã ra đi mãi mãi. Hệ thống chính trị các cấp, nhất là lực lượng chức năng tại cơ sở đã “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng” phục vụ phòng, chống dịch, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống cho người dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan Dân vận các cấp, các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể nhân dân, các hội quần chúng, đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, nhà báo, phóng viên, người dân, doanh nghiệp… trong và ngoài nước đã có nhiều sáng kiến, hành động cụ thể, thiết thực tham gia phòng, chống dịch[11] (về phòng, chống dịch COVID-19 có Báo cáo riêng).

Đảng, Nhà nước ghi nhận, đánh giá cao và trân trọng cảm ơn những nỗ lực, hỗ trợ, đóng góp hiệu quả, những nghĩa cử cao đẹp, tận tâm, tận lực hết mình của đồng bào, đồng chí, chiến sỹ và cộng đồng doanh nghiệp, sự giúp đỡ quý báu của đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế trong phòng, chống dịch; đồng thời chia sẻ, cảm thông sâu sắc với những tổn thất, mất mát về người, vật chất và tinh thần mà Nhân dân ta phải gánh chịu do đại dịch COVID-19 gây ra.

3. Về tình hình phát triển KTXH

Nhằm khắc phục những khó khăn do tác động nghiêm trọng của dịch COVID-19, Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương vừa phải quyết liệt triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Quốc hội, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các Nghị quyết, chương trình, kế hoạch hành động của Chính phủ; phối hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác trong chỉ đạo, điều hành; tập trung giải quyết khó khăn, tháo gỡ vướng mắc, vượt qua thách thức; nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã được Quốc hội giao.

Ước thực hiện cả năm dự kiến đạt và vượt 8/12 chỉ tiêu chủ yếu đề ra. Kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định; lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 9 tháng chỉ tăng bình quân 1,82%, cả năm ước tăng dưới mức Quốc hội giao[12]; các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm[13]. Thu NSNN 9 tháng đạt trên 80%, cả năm ước vượt dự toán[14], cơ bản bảo đảm nguồn lực cho công tác phòng, chống dịch bệnh và các nhiệm vụ cấp bách khác; bội chi NSNN trong phạm vi dự toán (4% GDP). Huy động vốn đầu tư toàn xã hội ước cả năm đạt khoảng 35% GDP[15]. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 9 tháng đạt trên 240 tỷ USD, cả năm ước tăng khoảng 10,7%. Mặt bằng lãi suất giảm; tỷ giá, thị trường ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại hối nhà nước tiếp tục được củng cố. Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia[16]; phấn đấu đến cuối năm có khoảng 68% số xã đạt chuẩn nông thôn mới[17]. Tăng trưởng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khá[18]; an ninh năng lượng được bảo đảm[19]. Tiếp tục triển khai nhiều dự án kết cấu hạ tầng quan trọng quốc gia[20].

Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, đột phá, góp phần tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh. Chính phủ tập trung hơn cho công tác xây dựng thể chế[21]; phối hợp ngày càng chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan của Quốc hội trong việc rà soát, sửa đổi, bổ sung kịp thời các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật đáp ứng yêu cầu thực tiễn phòng, chống dịch và phục hồi, phát triển KTXH.

Triển khai Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội[22], Chính phủ ban hành Nghị quyết số 86/NQ-CP về các giải pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19; báo cáo cấp có thẩm quyền và Ủy ban thường vụ Quốc hội để kịp thời triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh[23]; hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp[24]; trình cấp có thẩm quyền sớm triển khai miễn, giảm một số loại thuế, phí, lệ phí             để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh[25]; đồng thời chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách theo tinh thần vướng mắc ở cấp, ngành nào thì cấp, ngành đó chủ động sửa đổi, hoàn thiện để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn, sớm ổn định đời sống và khôi phục, phát triển kinh tế – xã hội[26]

Các hoạt động văn hóa, xã hội được tổ chức theo hình thức phù hợp với tình hình dịch bệnh, nhất là tăng cường các hoạt động trực tuyến. Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, chăm lo đời sống người có công[27], đối tượng chính sách, bảo trợ xã hội, giảm nghèo được đẩy mạnh. Công tác an sinh xã hội, hỗ trợ người dân, người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh được triển khai tích cực, hiệu quả. Các chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, người cao tuổi, trẻ em, gia đình, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ tiếp tục được quan tâm; thể thao thành tích cao đạt một số kết quả ấn tượng[28].

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân tiếp tục được quan tâm; đẩy mạnh kết nối liên thông nền tảng hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh trực tuyến[29]. Khuyến khích nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và sản xuất vắc-xin, thuốc, sinh phẩm trong nước[30]. Tổ chức tốt các kỳ thi tốt nghiệp, tuyển sinh cao đẳng, đại học; khai giảng năm học mới, dạy và học trực tiếp, trực tuyến linh hoạt, phù hợp với tình hình dịch bệnh; tích cực triển khai Chương trình “Sóng và máy tính cho em” [31]. Các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số được thúc đẩy mạnh mẽ trên các lĩnh vực[32].

Công tác quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu được thường xuyên chỉ đạo. Tích cực tổng kết Nghị quyết của Trung ương về đất đai và Nghị quyết của Bộ Chính trị về khoáng sản[33]; tháo gỡ một số bất cập trong quy định về quản lý đất đai, tài nguyên, môi trường[34]. Đang trình các cấp có thẩm quyền kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2021 – 2025[35]. Hoàn thành các chỉ tiêu bảo vệ môi trường theo kế hoạch đề ra[36].

Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính tiếp tục được đẩy mạnh. Hoàn thiện, báo cáo cấp có thẩm quyền về việc phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước và cơ chế tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Tiếp tục rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy bên trong của các bộ, ngành, địa phương gắn với tinh giản biên chế. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính; kiểm tra, thanh tra các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực và dư luận quan tâm. Công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng được thực hiện nghiêm theo đúng tinh thần chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực[37]. Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được chú trọng; tỷ lệ giải quyết các vụ việc tố cáo đạt 88,3%, vượt mục tiêu đề ra (85%)[38].

Quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Xử lý linh hoạt, phù hợp, hiệu quả các tình huống phức tạp trên biển và tuyến biên giới. Tăng cường các biện pháp bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tập trung trấn áp các loại tội phạm[39]; bảo đảm an ninh, an toàn các sự kiện quan trọng của đất nước[40]. Kịp thời đấu tranh, phản bác các quan điểm, tư tưởng sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động

Công tác đối ngoại được triển khai đồng bộ, toàn diện, linh hoạt, hiệu quả, phù hợp với tình hình, nhất là ngoại giao vắc-xin[41], ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế; công tác thông tin đối ngoại, bảo hộ công dân được quan tâm chỉ đạo; qua đó góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển và tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế[42].

Thông tin, truyền thông ngày càng đổi mới tích cực, kịp thời, góp phần tạo đồng thuận xã hội, nhất là trong phòng, chống dịch bệnh và phục hồi, phát triển KTXH. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, cơ quan Dân vận và các tổ chức chính trị – xã hội tăng cường tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và niềm tin trong Nhân dân; kịp thời ngăn chặn thông tin xấu, độc, xử lý nghiêm các vi phạm.

4. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

Trong các báo cáo về KTXH và về công tác phòng, chống dịch COVID-19 gửi đến các vị đại biểu Quốc hội đã nêu cụ thể những tồn tại, hạn chế trên các lĩnh vực; trong đó có những nội dung chủ yếu sau đây:

Công tác phòng, chống dịch có lúc, có nơi còn bị động, lúng túng trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, nhất là giai đoạn đầu khi dịch bùng phát mạnh ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam do biến chủng Delta lây lan nhanh, hết sức nguy hiểm, khó lường, khó kiểm soát; vẫn còn thiếu nhất quán trong triển khai các biện pháp phòng, chống dịch, nhất là trong thực hiện yêu cầu giãn cách xã hội tại cơ sở; việc thực hiện các quy định về đi lại của người dân, lưu thông hàng hóa thiếu thống nhất giữa các địa phương, gây ách tắc, phiền hà cục bộ cho Nhân dân. Tiếp cận nguồn vắc-xin so với một số nước còn chậm, gặp nhiều khó khăn do khan hiếm trên toàn cầu; việc mua vắc-xin chịu nhiều rủi ro, phải chấp nhận các điều kiện áp đặt      của nhà cung cấp. Năng lực y tế, nhất là ở cấp cơ sở còn nhiều hạn chế, bất cập[43], dẫn đến quá tải ở một số địa phương và số ca tử vong cao trong giai đoạn đầu. Việc triển khai công tác cứu trợ, bảo đảm an sinh xã hội tại một số địa bàn, nhất là khu cách ly, phong tỏa còn khó khăn do số lượng người cần được hỗ trợ lên tới hàng chục triệu người[44].

Dự kiến có 4/12 chỉ tiêu KTXH chủ yếu chưa đạt mục tiêu đề ra[45]. Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm đạt 5,64%, tuy nhiên quý III giảm 6,17% do ảnh hưởng nghiêm trọng của đợt dịch bùng phát lần thứ tư nên tính chung 9 tháng GDP chỉ tăng 1,42%. Kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn rủi ro; sức ép lạm phát tăng; xuất khẩu giảm tốc, tiếp tục xu hướng nhập siêu; xuất nhập khẩu phụ thuộc vào khu vực FDI và một số ít thị trường. Xuất hiện tình trạng đứt gãy một số chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động. Thị trường tài chính, bất động sản, chứng khoán có thời điểm tăng nóng. Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công chậm, nhất là vốn ODA và vay ưu đãi[46]. Khu vực dịch vụ gặp khó khăn nghiêm trọng, đặc biệt là du lịch, lưu trú, ăn uống, vận tải hành khách[47]. Lao động, việc làm bị ảnh hưởng nặng nề[48].

Tình hình sản xuất kinh doanh và đời sống một bộ phận người dân gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong các khu cách ly, phong tỏa, các địa bàn tâm dịch. Sức chống chịu của nền kinh tế suy giảm mạnh; số lượng người lao động tạm ngừng việc, thiếu, mất việc làm gia tăng. Đời sống tinh thần, tâm lý của người dân bị ảnh hưởng, nhất là tại các địa bàn thực hiện giãn cách xã hội và tăng cường giãn cách xã hội kéo dài. Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, tạm ngừng hoạt động hoặc chờ giải thể tăng và ở mức khá cao (mặc dù thấp hơn số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động[49]). Tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro[50].

Cơ cấu giữa các ngành, lĩnh vực và nội ngành, lĩnh vực chuyển dịch chậm[51]; khu vực công nghiệp, dịch vụ gặp nhiều khó khăn. Cơ cấu lại 3 lĩnh vực trọng tâm còn hạn chế[52]. Cổ phần hóa DNNN chưa đạt tiến độ. Việc xử lý các ngân hàng yếu kém và các dự án, doanh nghiệp kém hiệu quả còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ; đang đề xuất cấp có thẩm quyền xin cơ chế xử lý 2 ngân hàng thương mại yếu kém và 5 dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả. Công tác lập quy hoạch theo Luật Quy hoạch còn chậm.

Chất lượng nguồn nhân lực chưa chuyển biến rõ nét. Dạy và học trực tuyến còn nhiều bất cập. Công tác bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng và đấu tranh, phòng, chống tội phạm còn nhiều thách thức cần phải vượt qua. Quốc phòng, an ninh còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp…

Những tồn tại, hạn chế, yếu kém nêu trên có nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân khách quan cơ bản là do dịch COVID-19 diễn biến nhanh, phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng và gây hậu quả nặng nề, khiến 23 địa phương phải thực hiện giãn cách, tăng cường giãn cách xã hội trong thời gian dài, trong đó có các trung tâm kinh tế, vùng động lực tăng trưởng[53]. Đồng thời, còn có các yếu tố từ bên ngoài như: chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, đứt gãy; giá nguyên, nhiên, vật liệu, cước, phí vận chuyển hàng hóa quốc tế tăng cao; việc huy động chuyên gia, nhà quản lý, nhà thầu nước ngoài, máy móc, thiết bị nhập khẩu bị gián đoạn. Dòng vốn đầu tư toàn cầu phục hồi chậm đã ảnh hưởng đến tình hình thu hút FDI[54].

Nguyên nhân chủ quan chủ yếu là do công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện có lúc, có nơi còn lơ là, mất cảnh giác, chủ quan, bị động, lúng túng hoặc cứng nhắc, chưa đồng bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo xử lý các tình huống cụ thể, đột xuất; còn hạn chế, bất cập trong phân tích, dự báo tình hình để xây dựng và triển khai thực hiện các kế hoạch, phương án vừa phòng, chống dịch, vừa phát triển KTXH; năng lực một bộ phận cán bộ còn hạn chế; việc thực hiện các biện pháp, chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương về phòng, chống dịch, lưu thông hàng hóa, tổ chức sản xuất an toàn có lúc, có nơi chưa kịp thời, chưa nghiêm, áp dụng thiếu nhất quán, chưa linh hoạt. Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương chưa thật sự chặt chẽ, hiệu quả chưa cao; chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các cơ chế, chính sách đáp ứng yêu cầu thực tiễn diễn biến nhanh, khó lường; thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, người dân vẫn còn phiền hà…

5Một số kinh nghiệm

Qua thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thời gian qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm bước đầu sau đây:

(1) Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, cần phải nhất quán, xuyên suốt, quyết liệt, kịp thời từ Trung ương đến cơ sở; bám sát yêu cầu thực tiễn, kịp thời có kế hoạch, phương án, biện pháp phù hợp để vừa phòng, chống dịch bệnh hiệu quả, vừa phục hồi và phát triển KTXH; tuyệt đối không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác và cũng không hoang mang, mất bình tĩnh, nóng vội trong phòng, chống dịch.

(2) Đẩy mạnh rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi có ý nghĩa quan trọng, không chỉ tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, mà còn tạo động lực thúc đẩy phát triển; coi trọng sơ kết, đánh giá thực tiễn, kịp thời rút kinh nghiệm và nâng cao năng lực phân tích, dự báo, cảnh báo, nắm chắc tình hình, kịp thời ứng phó, xử lý hiệu quả những vấn đề phát sinh.

(3) Để nắm bắt và giải quyết kịp thời, có hiệu quả các vướng mắc, yêu cầu cấp bách của thực tiễn, đặc biệt là các tình huống diễn biến nhanh trong phòng, chống dịch và phát triển KTXH đòi hỏi phải nâng cao năng lực của hệ thống chính trị và năng lực quản lý xã hội của Nhà nước, nhất là ở cấp cơ sở.

(4) Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và tinh thần tự lực, tự cường; huy động hiệu quả mọi nguồn lực, tận dụng cơ hội, tăng cường hợp tác và tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế là rất quan trọng, tạo sức mạnh tổng hợp trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

(5) Phải tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao tính chủ động, tự chủ, ý thức, tinh thần trách nhiệm và trang bị kiến thức, kỹ năng của Nhân dân trong phòng, chống dịch bệnh và phát triển KTXH, đồng thời góp phần củng cố niềm tin trong Nhân dân, tạo sức mạnh đồng thuận xã hội.

6. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu những tháng cuối năm 2021

Tập trung nỗ lực cao nhất cho phòng, chống dịch COVID-19; khẩn trương xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án, kịch bản cụ thể, sát hợp với tình hình thực tế; quyết liệt hành động, triển khai thực hiện hiệu quả, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đề ra theo phương châm nhạy bén, linh hoạt, sáng tạo, bình tĩnh, kịp thời với mục tiêu xuyên suốt là bảo vệ sức khỏe, tính mạng của Nhân dân là trên hết, trước hết; thúc đẩy viện trợ, nhập khẩu vắc-xin, nghiên cứu chuyển giao công nghệ và sản xuất trong nước, đẩy nhanh tiến độ bao phủ tiêm vắc-xin, chuẩn bị thuốc điều trị cần thiết, nâng cao năng lực y tế, nhất là công tác điều trị và ở cơ sở; có lộ trình thích ứng an toàn, linh hoạt, phấn đấu kiểm soát hiệu quả dịch bệnh trên phạm vi toàn quốc để tập trung khắc phục hậu quả của dịch bệnh và khôi phục, phát triển KTXH.

Khẩn trương hoàn thiện, báo cáo cấp có thẩm quyền Chiến lược tổng thể về phòng, chống dịch và Chương trình phục hồi và phát triển KTXH. Rà soát, tháo gỡ ngay khó khăn, vướng mắc về thể chế; giảm thiểu các thủ tục và chi phí sản xuất kinh doanh. Điều chỉnh linh hoạt chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác để giữ vững ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu; kiểm soát chặt chẽ giá cả, thị trường. Tập trung ưu tiên triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ thiết thực, hiệu quả cho người dân, doanh nghiệp; nhanh chóng khôi phục thị trường lao động do bị tác động trực tiếp bởi dịch COVID-19; thúc đẩy phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh; bảo đảm cung ứng, lưu thông hàng hoá thông suốt. Khơi thông mọi nguồn lực cho phòng, chống dịch và phát triển KTXH, bảo đảm an sinh xã hội. Sớm đưa học sinh trở lại trường học an toàn. Củng cố, giữ vững quốc phòng, an ninh; tiếp tục triển khai mạnh mẽ ngoại giao vắc-xin, ngoại giao kinh tế, ngoại giao chính trị; đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin truyền thông.

II. DỰ KIẾN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KTXH NĂM 2022

Năm 2022 là năm có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng thực hiện các mục tiêu của Kế hoạch 5 năm 2021 – 2025. Dự báo tình hình quốc tế, trong nước có những thuận lợi, cơ hội và khó khăn, thách thức đan xen, nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn. Dịch COVID-19 có thể xuất hiện phức tạp, nguy hiểm hơn. Tăng trưởng kinh tế thế giới không đồng đều, chưa vững chắc và thấp hơn năm 2021; rủi ro tiếp tục gia tăng. Trong nước, kinh nghiệm, năng lực, khả năng ứng phó dịch bệnh tiếp tục được nâng lên, nhưng sức chống chịu và nguồn lực của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân giảm sút. Nguy cơ chậm phục hồi kinh tế, suy giảm tăng trưởng vẫn còn tiềm ẩn nếu không kiểm soát được dịch bệnh một cách cơ bản để mở cửa trở lại nền kinh tế; rủi ro lạm phát gia tăng; thiên tai, biến đổi khí hậu là nguy cơ luôn tiềm ẩn.

1. Quan điểm chỉ đạo, điều hành

(1) Bám sát quan điểm phát triển theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc và hệ thống chính trị; nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào nội lực là chính, ngoại lực là cần thiết, quan trọng.

(2) Đặt sức khỏe, tính mạng của người dân lên trên hết, trước hết; từng bước thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19. Phòng, chống dịch là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; tiêm chủng, xét nghiệm, cách ly, điều trị là đặc biệt quan trọng; đề cao ý thức, trách nhiệm, tính tự chủ của người dân, doanh nghiệp trong phòng, chống dịch.

(3) Vừa phòng, chống dịch hiệu quả, vừa phục hồi và phát triển KTXH, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, khôi phục và ổn định thị trường lao động, nâng cao thu nhập, đời sống cho người dân; bảo đảm sự đồng bộ, nhất quán, thông suốt, trách nhiệm trong chỉ đạo điều hành của các cấp, các ngành, các địa phương.

(4) Điều chỉnh chính sách tiền tệ, tài khóa phù hợp, khả thi, linh hoạt,           thích ứng với bối cảnh dịch bệnh có thể kéo dài; tập trung thực hiện 3 trọng tâm: khôi phục, thúc đẩy sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh xuất khẩu; đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công và huy động nguồn lực xã hội, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhất là hạ tầng chiến lược.

(5) Bảo đảm ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tiếp tục củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh và nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế.

2. Mục tiêu và các chỉ tiêu chủ yếu

(1) Mục tiêu: Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh COVID-19, bảo vệ tối đa sức khỏe, tính mạng của Nhân dân, cùng với tập trung tận dụng tốt cơ hội để thúc đẩy phục hồi và phát triển KTXH với các giải pháp tổng thể kích thích nền kinh tế, hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, không để suy giảm các động lực tăng trưởng trong dài hạn. Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao tính tự chủ, khả năng chống chịu, thích ứng của nền kinh tế. Tiếp tục ưu tiên rà soát, hoàn thiện về thể chế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là một số công trình trọng điểm quốc gia; đầu tư nâng cao chất lượng nhân lực gắn với phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Chú trọng phát triển văn hóa, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống của người dân, nhất là người có công, người nghèo, người yếu thế. Quản lý chặt chẽ đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, khơi thông các nguồn lực cho phát triển. Đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại; làm tốt công tác thông tin, truyền thông, tạo đồng thuận xã hội[55].

(2) Chỉ tiêu chủ yếu: gồm 16 chỉ tiêu chủ yếu về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường[56]; trong đó tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt khoảng 6 – 6,5%; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%; bội chi NSNN so với GDP khoảng 4%.

3. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu

(1) Tập trung thực hiện linh hoạt, hiệu quả mục tiêu vừa phòng, chống dịch COVID-19, vừa phục hồi, phát triển KTXH. Triển khai hiệu quả Chiến lược tổng thể về phòng, chống dịch, có lộ trình thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19, coi đây là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của các cấp, các ngành ngay từ đầu năm 2022. Các địa phương vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn nhưng không trái với định hướng của Trung ương. Tiếp tục mở rộng độ bao phủ, tăng tốc chiến dịch tiêm vắc-xin cho người dân; nâng cao năng lực hệ thống y tế, nhất là điều trị và ở cơ sở;          tổng kết thực tiễn, bổ sung, hoàn thiện và thực hiện hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch. Xây dựng kế hoạch nhập khẩu, sản xuất, tiêm chủng vắc-xin một cách khoa học, an toàn, hiệu quả, hợp lý cho năm 2022 và những năm tiếp theo, trong đó có vắc-xin cho trẻ em. Hoàn thiện thể chế, quy định về phòng, chống dịch, nhất là thúc đẩy xã hội hóa, kết hợp công tư, bảo đảm đủ nguồn lực để thực hiện.

Tập trung thực hiện hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển KTXH[57] phù hợp, khả thi. Điều chỉnh linh hoạt, phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách khác để vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn; vừa hỗ trợ phục hồi sản xuất kinh doanh, thúc đẩy xuất khẩu, tiêu dùng nội địa, đẩy mạnh đầu tư, có cơ chế huy động thêm nguồn lực cho phục hồi, phát triển KTXH. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính – ngân sách nhà nước (NSNN), phấn đấu tăng thu[58], triệt để tiết kiệm chi. Huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội và ưu tiên bố trí nguồn NSNN hợp lý cho các nhiệm vụ trọng tâm. Bảo đảm đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế và an toàn hệ thống tín dụng, ngân hàng[59].

(2) Ưu tiên công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế và tổ chức thi hành pháp luật, tập trung tháo gỡ khó khăn, cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Triển khai thực hiện tốt Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022. Nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Khẩn trương xây dựng, ban hành những văn bản pháp luật liên quan đến phòng, chống dịch và phục hồi, phát triển KTXH[60]. Không ngừng nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật; chú trọng giải quyết các tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế và hoàn thiện thể chế  phát triển đồng bộ, ổn định, bền vững các loại thị trường[61]. Từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách cho hoạt động của các mô hình kinh doanh, các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số; tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số quốc gia[62]

(3) Thực hiện thực chất, hiệu quả hơn cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát triển kinh tế số, xã hội số. Làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, phân bổ và đẩy mạnh giải ngân vốn hiệu quả đầu tư công. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án quan trọng quốc gia, các chương trình mục tiêu quốc gia. Thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư ngoài nhà nước gắn với tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, ách tắc trong đầu tư, kinh doanh. Phê duyệt các đề án cơ cấu lại tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Quyết liệt, hiệu quả hơn nữa trong cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu và các dự án, doanh nghiệp kém hiệu quả. Tiếp tục cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công hiệu quả, bảo đảm khả năng trả nợ. Đẩy mạnh cơ cấu lại gắn với phát triển các ngành, lĩnh vực[63] theo hướng khai thác hiệu quả không gian tăng trưởng mới và thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn theo lộ trình phù hợp. Có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Phục hồi các chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động bị đứt gãy, tổ chức kết nối và hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước tham gia. Cơ cấu lại, phát triển hiệu quả một số ngành, lĩnh vực quan trọng bị tác động trực tiếp bởi dịch COVID-19[64].

(4) Đẩy mạnh xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, nhất là về giao thông, năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, thích ứng với biến đổi khí hậu… Lấy đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt đầu tư xã hội, nhất là phương thức hợp tác đối tác công tư. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án kết cấu hạ tầng trọng điểm, hạ tầng thương mại và hạ tầng văn hóa, xã hội; tăng cường kết nối liên vùng, khu vực, quốc tế, nhất là các công trình hạ tầng giao thông quan trọng, trong đó có đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông, cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ[65]; dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, các tuyến đường sắt đô thị… Phát triển hệ thống hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; các dự án chống sạt lở do biến đổi khí hậu.

(5) Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Phê duyệt, triển khai Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo; đưa học sinh trở lại trường học an toàn với dịch bệnh; đa dạng hóa hình thức tổ chức dạy và học trực tuyến trong bối cảnh dịch bệnh còn diễn biến phức tạp. Triển khai các chiến lược, quy hoạch giáo dục nghề nghiệp. Chú trọng đào tạo nghề cho thanh niên, người chưa có việc làm. Thúc đẩy nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và thu hút nguồn nhân lực cho khoa học công nghệ[66]; phát triển phong trào đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo trên phạm vi toàn quốc, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể[67].

(6) Thúc đẩy phát triển liên kết vùng, khu kinh tế và phát triển đô thị, kinh tế đô thị, đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các quy hoạch. Phấn đấu cơ bản hoàn thành việc phê duyệt các quy hoạch trong năm 2022[68]. Đề xuất các cơ chế, chính sách phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, các vùng động lực tăng trưởng mới. Triển khai các kế hoạch, đề án về phát triển đô thị ứng phó với biến đổi khí hậu; lấy đô thị làm động lực phát triển vùng; phấn đấu tỷ lệ đô thị hóa đạt 41,5 – 42%.

(7) Gắn kết hài hoà, hợp lý giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội; phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam, chú trọng thực hiện chính sách người có công, bảo trợ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội. Triển khai hiệu quả Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030. Tổ chức phù hợp các hoạt động văn hóa, xã hội, nghệ thuật, bảo đảm an toàn dịch bệnh. Thực hiện tốt các chính sách người có công, bảo trợ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tạo việc làm, giảm nghèo đa chiều, bền vững; gia tăng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, nhất là bảo hiểm tự nguyện[69]. Tiếp tục rà soát, ban hành và triển khai đồng bộ, kịp thời, hiệu quả các chính sách hỗ trợ người lao động; triển khai các giải pháp phục hồi và ổn định thị trường lao động. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Đẩy mạnh triển khai kịp thời, hiệu quả 3 Chương trình mục tiêu quốc gia[70]. Chú trọng phát triển nhà ở cho công nhân, xây dựng thiết chế văn hoá ở các khu công nghiệp. Quan tâm hơn nữa công tác dân tộc, tôn giáo, vì sự tiến bộ của phụ nữ, gia đình, thanh thiếu niên, chăm sóc người cao tuổi, trẻ em, nhất là trẻ em bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19[71].

(8) Quản lý, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Hoàn thiện, trình Quốc hội xem xét, ban hành Luật đất đai (sửa đổi). Huy động và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực từ đất đai, tài nguyên; chú trọng bảo vệ, phát triển các loại rừng. Khai thác tiềm năng, lợi thế phát triển các ngành kinh tế biển. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu[72]. Sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên nước, bảo đảm an ninh nguồn nước. Chú trọng các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, thực hiện các cam kết theo Thỏa thuận Pa-ri. Phát triển công nghiệp xử lý, tái chế chất thải. Huy động nguồn lực, xây dựng cơ chế, chính sách thực hiện hiệu quả Nghị quyết              số 120/NQ-CP về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long[73].

(9) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực kiến tạo phát triển; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính đi đôi với tạo dựng môi trường đổi mới sáng tạo; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước[74], đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Triển khai thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 – 2030. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, đề cao trách nhiệm người đứng đầu; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm sai phạm. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện v

Phóng sự ảnh: Chúc mừng Ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 và Trao giải Cuộc thi ảnh “Duyên dáng Áo dài Liên minh Hợp tác xã Việt Nam”

Nhân dịp kỉ niệm ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10, Công đoàn Liên minh Hợp tác xã Việt Nam long trọng tổ chức kỷ niệm 91 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 20/10/1930 – 20/10/2021.

Tham dự buổi lễ kỉ niệm có đồng chí Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Bí thư Đảng ủy, Phó chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Thường trực, đại diện Văn phòng, Công đoàn, Đoàn Thanh niên cùng toàn thể các chị em là cán bộ, viên chức khối văn phòng và các Ban tham mưu, đơn vị trực thuộc.

Cũng nhân dịp này, Công đoàn Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tổ chức Lễ trao giải cuộc thi “Duyên dáng áo dài Liên minh Hợp tác xã Việt Nam” do Công đoàn Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Ban nữ công, Đoàn thanh niên phát động.

Một số hình ảnh tại buổi Lễ:

Đồng chí Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tặng lẵng hoa Chúc mừng ngày Phụ nữ Việt Nam cho các chị em là cán bộ, viên chức khối văn phòng và các Ban tham mưu, đơn vị trực thuộc.

Đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Bí thư Đảng ủy, Phó chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam phát biểu chúc mừng ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10

Quang cảnh buổi Lễ kỷ niệm

Đồng chí Phùng Khánh Toản, Chủ tịch công đoàn Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phát biểu tại buổi Lễ

Đồng chí Nguyễn Duy Việt, Bí thư Đoàn thanh niên Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đọc quyêt định trao giải cho các cá nhân, tập thể đạt giải cuộc thi ảnh “Duyên dáng Áo dài Liên minh Hợp tác xã Việt Nam”

Đồng chí Phùng Khánh Toản, Chủ tịch Công đoàn Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trao giải cho các cá nhân, tập thể đạt giải do Ban giám khảo bình chọn

Phó chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Nguyễn Văn Thịnh và Lê Văn Nghị trao giải cho các cá nhân, tập thể đạt giải Bình chọn trên fanpage Liên minh Hợp tác xã Việt Nam

Đồng chí Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cùng đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Phó chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trao giải Đặc biệt của cuộc thi cho 1 cá nhân và 1 tập thể

 

Chị em phụ nữ cơ quan Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chụp ảnh lưu niệm cùng các đồng chí Thường trực, Lãnh đạo các Ban, đơn vị trực thuộc

Lê Huy

Gần hàng trăm ngàn tấn nông sản được kết nối tiêu thụ giúp thành viên hợp tác xã vượt qua khó khăn dịch Covid-19

Sáng ngày 20/10, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tổ chức Hội nghị sơ kết đánh giá kết quả triển khai Chương trình 503, đồng chí Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chủ trì Hội nghị.

Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả triển khai Chương trình kết nối cung – cầu, tiêu thụ hàng hoá do hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất theo chuỗi cung ứng; đặc biệt là lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm thiết yếu cho các địa phương thực hiện giãn cách xã hội (gọi tắt là Chương trình 503) trong thời gian qua; đưa ra giải pháp đẩy mạnh thực hiện Chương trình trong thời gian tới.

Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tại Hội nghị

Ông Vũ Quang Phong, Giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư cho biết, Chương trình 503 đã hướng dẫn 63/63 đầu mối của Liên minh Hợp tác xã tỉnh, thành phố đã đăng ký tài khoản trên Cổng thông tin. Hỗ trợ Hướng dẫn 63/63 đầu mối Liên minh Hợp tác xã tỉnh, thành phố đã đăng thông tin với tổng số 1.035 sản phẩm, 2.044 lượt đăng (1.904 đăng tin bán, 129 đăng tin mua, 11 đăng tin logistics), có 1.010 thành viên (Liên minh Hợp tác xã tỉnh, thành phố, HTX, THT, DN) đã đăng ký tài khoản. 63/63 Liên minh Hợp tác xã tỉnh, thành phố đã đăng ký tài khoản trên.

Cùng với đó, các HTX, THT cũng tích cực tham gia vào Chương trình 503. Các đơn vị trực thuộc Liên minh Hợp tác xã Việt Nam như Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư, Trung tâm Phát triển thương mại và đầu tư hỗ trợ, kết nối tiêu thụ 62.645,97 tấn (rau, củ, quả, trái cây, thuỷ hải sản, hàng tiêu dùng,…; trong đó Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư kết nối 27.404,97 tấn, Trung tâm phát triển thương mại và đầu tư kết nối 28.756 tấn rau củ quả, thuỷ hải sản gia cầm, 1.263.300 quả trứng, 775 tấn gạo) cho HTX, THT.

Ông Nguyễn Mạnh Cường, Bí thư Đảng uỷ, Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tại Hội nghị

Có 30 Liên minh Hợp tác xã các tỉnh, thành phố (Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Ninh Bình, Lào Cai, Yên Bái, Hoà Bình, Cao Bằng, Bắc Giang, Lâm Đồng, Nghệ An, Thanh Hoá, Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Khánh Hoà, Gia Lai, Kom Tum, Đắk Nông, Bạc Liêu, Đồng Tháp, An Giang, Trà Vinh, Bình Thuận, Hậu Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Bình Phước, Bình Dương, Long An, Tây Ninh) đã hỗ trợ kết nối tiêu thụ được 99.359,27 tấn thực phẩm rau, củ, quả, trái cây, gạo, thuỷ sản,…, 682.539 quả trứng gà, vịt; 75.518 combo rau, củ, quả, trái cây và 16.620 lít dầu ăn các loại, 314.440 hộp trà cao an xoa, cà gai leo, nấm linh chi, túi lọc măng tây, cà phê pha sẵn, tinh dầu,… các loại.

Ông Vũ Quang Phong – Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư

Đồng thời, Liên hiệp HTX thương mại thành phố Hồ Chí Minh đã hỗ trợ tiêu thụ được 5.710 tấn, trong đó số lượng nông sản thu mua phân phối tại thành phố Hồ Chí Minh là 3.281 tấn; tại thành phố Hà Nội là 503 tấn, các tỉnh thành khác là 1.926 tấn.

Ông Nguyễn Mạnh Cường, Bí thư Đảng đoàn, Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, thành viên Ban chỉ đạo, Tổ trưởng Tổ công tác điều hành Chương trình, chỉ đạo thực hiện các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam về Chương trình 503, đánh giá cả hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã thực sự vào cuộc và rất chủ động, tích cực thực hiện Chương trình 503 nhanh, kịp thời, có kết quả cụ thể (thành lập Tổ công tác 503, cử cán bộ làm đầu mối, cập nhật thông tin sản phẩm của HTX, THT, chủ động triển khai các hoạt động kết nối tiêu thụ tại địa phương.

“Không chỉ HTX Sáu Nhung (Kon Tum) mà rất nhiều HTX trồng cà phê trên địa bàn tỉnh Kon Tum hiện nay đều khó khăn về đầu ra cho nông sản vì các nhà hàng, khách sạn, cửa hàng đóng cửa; chi phí vận chuyển tăng cao. Thông qua việc tham gia các Hội nghị tập huấn, vận hành, quản trị Cổng thông tin kết nối cung – cầu đã giúp cho đầu ra của các HTX dễ dàng hơn”, Ông Nguyễn Tri Sáu – Giám đốc HTX Sáu Nhung cho biết.

Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho biết cổng thông tin lmhtxvnmart trong thời gian vừa qua đã chủ động quảng bá, cung cấp thông tin sản phẩm cho các đối tác trong nước, quảng bá thông tin HTX và sản phẩm của HTX tới các đối tác nước ngoài (Nga, Anh, Hà Lan, Trung Quốc, Úc, Đức,…). Ông Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng sự hưởng ứng, quan tâm của các HTX, THT trong việc chủ động công nghệ, chuyển đổi số sản xuất, nâng cao chất lượng, đa dạng sản phẩm,… đáp ứng yêu cầu của thị trường; HTX đã dần làm quen, tường bước tiếp cận với thương mại số thông qua Cổng kết nối cung – cầu, phù hợp với xu thế phát triển, đặc biệt trong tình hình khó khăn hiện năy do dịch Covid-19.

Đại diện HTX Nam Sơn cho biết, đứng trước những khó khăn do đại dịch Covid-19, thông qua Chương trình 503, HTX đã tiêu thụ được 1.002 tấn rau củ quả.

Bên cạnh việc tiếp tục tăng cường tổ chức các hoạt động kết nối giữa HTX, THT với các đơn vị liên quan…, người đứng đầu Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nhấn mạnh trong thời gian tới tiếp tục nâng cấp Cổng thông tin, với thiết kế giao diện đẹp và hiện đại hơn, bổ sung các mục video, hình ảnh; tạo diễn đàn trao đổi, trò chuyện cho các đơn vị cung cấp và tiêu thụ; xây dựng mục quản lý các tài khoản phân quyền có hệ thống và dễ sử dụng cho người dùng.

Cũng tại Hội nghị, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã tặng bằng khen cho 12 tập thể đã hoàn thành xuất sắc chương trình kết nối cung – cầu, tiêu thụ hàng hoà chủ lực do hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất theo chuỗi cung ứng.

Quang Trung – Quỳnh Trang
Ảnh: Lê Huy

Phát triển hợp tác xã sẽ tạo ra sức mạnh đa chiều

Sáng 19/10, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức hội nghị trực tuyến Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012 trong lĩnh vực nông nghiệp. Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đến dự và phát biểu tại Hội nghị.

Chú thích ảnh
Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN

Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan, cùng với sức mạnh của doanh nghiệp, cần quan tâm đến kinh tế tập thể và hợp tác xã. Các địa phương phải thực sự quan tâm đến sự phát triển của hợp tác xã, coi đó là một phần không thể tách rời của kinh tế nông thôn.
Việc đầu tư cho nông nghiệp sẽ không thành công nếu không có hợp tác xã. Phát triển hợp tác xã sẽ tạo ra sức mạnh đa chiều trong hợp tác và liên kết, bảo tồn giá trị văn hóa, bảo vệ môi trường ở nông thôn, góp phần quan trọng vào cơ cấu lại nông nghiệp.
“Có thể hợp tác xã không mang lại nhiều về tăng trưởng cho địa phương và ngân sách Nhà nước, nhất là hợp tác xã trong khu vực nông nghiệp, nhưng nó chính là nền tảng cho sự liên kết, hợp tác, chia sẻ trong chuỗi ngành hàng. Hợp tác xã chính là nơi để huy động sức mạnh cộng đồng, nông dân cùng với sự hỗ trợ của nhà nước để tạo ra một sức mạnh đa chiều hơn. Sự kết nối tạo ra sự bền vững hơn”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho hay.
Theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, qua 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể (Nghị quyết 13) và 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012, cả nước có 34.871 tổ hợp tác nông nghiệp, giảm hơn một nửa so với năm 2001. Nhiều tổ hợp tác hoạt động hiệu quả đã phát triển lên thành các hợp tác xã.
Đến ngày 31/12/2021, cả nước có khoảng 18.327 hợp tác xã nông nghiệp và 79 liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp. Như vậy, sau 20 năm thực hiện Nghị quyết 13, số lượng hợp tác xã nông nghiệp tăng 12.569 hợp tác xã; còn so với thời điểm 31/12/2013, khi Luật Hợp tác xã có hiệu lực thì số lượng hợp tác xã nông nghiệp cả nước tăng khoảng 7.917 hợp tác xã.
Không chỉ tăng nhanh về số lượng, mà chất lượng và hiệu hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp cũng đã được cải thiện. Tỷ lệ các hợp tác xã nông nghiệp  được đánh giá xếp loại khá, tốt đã tăng từ 10% (năm 2013) lên 33% (hết năm 2016) và trên 60% năm 2020.
Cả nước có khoảng 3,23 triệu thành viên, tăng 473 nghìn thành viên so với năm 2001 nhưng giảm khoảng 1,87 triệu thành viên so với năm 201). Trung bình 1 hợp tác xã nông nghiệp có 176 thành viên. Số lượng thành viên giảm do các hợp tác xã giải thể đa số là các hợp tác xã kiểu cũ, đông thành viên, trong khi các hợp tác xã mới thành lập quy mô thành viên ít.
Chất lượng và hiệu quả hoạt động của hợp tác xã còn thể hiện qua việc có 2.297 hợp tác xã nông nghiệp đã thành lập doanh nghiệp trong hợp tác xã. Cùng với đó còn có 2.200 hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số trong sản xuất, tương ứng bằng 13% và 12% tổng số hợp tác xã nông nghiệp cả nước. Đặc biệt đã có trên 4.339 hợp tác xã nông nghiệp đảm nhận bao tiêu nông sản, bằng 24,5% tổng số hợp tác xã nông nghiệp; tỷ lệ này trước năm 2015 chỉ từ 5-7%.
Từ thực tế làm đầu mối thực hiện liên kết ngành hàng chủ lực của Bến Tre là bưởi da xanh, ông Nguyễn Quốc Bảo, Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã Nông nghiệp bưởi da xanh Bến Tre chia sẻ, khó khăn với hợp tác xã hiện nay không phải là vận động người dân tham gia, mà là tìm được người lãnh đạo, quản lý hợp tác xã. Muốn cho nông dân gắn bó thì hợp tác xã phải kinh doanh có hiệu quả, có lợi nhuận đáp ứng được những mong muốn của các thành viên. Như vậy thì mới thu hút thành viên tham gia và gắn bó với hợp tác xã. Nếu chưa làm được điều này rõ ràng hợp tác xã chưa thể làm tốt được vai trò và rất khó nâng cao được hiệu quả của mình trong việc tổ chức sản xuất và cơ cấu lại nông nghiệp.

Theo ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, triển khai Nghị quyết số 13 trong ngành nông nghiệp đã làm chuyển đổi nhận thức về vai trò, vị trí và tính cấp thiết của việc phát triển hợp tác xã trong nông nghiệp, mô hình hợp tác xã kiểu mới trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Xây dựng được môi trường thể chế, hệ thống các cơ chế, chính sách phù hợp và đặc thù trong nông nghiệp.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xác định, kinh tế tập thể, hợp tác xã là công cụ, giải pháp trụ cột để thực hiện các mục tiêu cơ cấu lại ngành nông nghiệp và phát triển nông, nông thôn.
Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết 13 còn chậm, tại nhiều thời gian, thời điểm chưa quyết liệt. Nghị quyết số 13 đặt ra mục tiêu 10 năm sau (đến năm 2010) là đưa kinh tế tập thể, hợp tác xã thoát khỏi những yếu kém. Tuy nhiên, đến nay (chậm 10 năm so với yêu cầu của Nghị quyết) mục tiêu này mới cơ bản được hoàn thành.
Số lượng hợp tác xã thành lập mới tăng mạnh, nhưng số hợp tác xã hoạt động có hiệu quả còn thấp, thiếu bền vững; quy mô thành viên và doanh thu của các hợp tác xã nông nghiệp còn nhỏ bé. Các dịch vụ sơ chế, chế biến, bảo quản, số lượng các hợp tác xã có khả năng liên kết hiệu quả với doanh nghiệp, chế biến và tiêu thụ nông sản cho thành viên hợp tác xã và nông dân cũng chưa nhiều, mới đạt 24% tổng số hợp tác xã.
Trước xu thế phát triển mới, có những thách thức và thời cơ; trong đó có vấn đề tiếp cận thị trường rộng mở trong nước và thế giới; biến đổi khí hậu; dịch bệnh đang là thách thức, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam cho rằng, vấn đề này đòi hỏi các hợp tác xã phải nâng cao năng lực nội sinh của mình để chủ động trong kinh tế thị trường và ứng phó với thiên tai, dịch bệnh.

Chú thích ảnh
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN

Theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, quan điểm phát triển của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong thời gian tới là lấy hợp tác xã và thành viên của hợp tác xã là trung tâm để hỗ trợ chính sách và huy động nguồn lực cộng đồng để hợp tác xã tổ chức lại sản xuất trong điều kiện mới.
Để hợp tác xã đủ sức hoạt động cần tạo cơ chế để họ phát huy nội lực, đó là nguồn nhân lực, tạo ra nguồn vốn từ nội lực, vốn liên doanh liên kết. Các hợp tác xã cần thu hút được nhiều thành viên và đảm bảo các dịch vụ cho thành viên thì mới hiệu quả, do đó cần tăng các dịch vụ lên trong thời gian tới.
“Hợp tác xã phải tổ chức mô hình đa dịch vụ, hợp tác xã không chỉ sản xuất nông nghiệp như trồng rau, chăn nuôi… mà hợp tác xã nông nghiệp phải cung ứng theo chuỗi giá trị – hợp tác xã làm dịch vụ là chính nên cần đa dịch vụ, đa mục tiêu thì mới đảm bảo thu nhập cho các thành viên. Đồng thời định hướng đa chức năng cho hợp tác xã trong kinh tế thị trường. Theo đó, hợp tác xã cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, kiến thức thị trường, quản trị hợp tác xã, ứng dụng khoa học công nghệ,” Thứ trưởng Trần Thanh Nam nhấn mạnh.

Bích Hồng (TTXVN)

Làm sao để hợp tác xã không bỏ lỡ ‘chuyến tàu’ chuyển đổi số

Bộ trưởng NN&PTNT: Săn đón ‘đại bàng’ nhưng phải ‘lót ổ’ cho hợp tác xã, tổ hợp tác