Kinh tế tập thể, HTX đã có những tiến bộ cả về lượng và chất khẳng định được tiềm năng, triển vọng phát triển trong tương lai

Theo Bộ NN&PTNT, việc triển khai Nghị quyết số 13-NQ/TW và Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2012 trong nông nghiệp đã làm chuyển đổi nhận thức về vai trò, vị trí và tính cấp thiết của việc phát triển HTX trong nông nghiệp, mô hình HTX kiểu mới trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân; xây dựng môi trường thể chế, hệ thống các cơ chế, chính sách phù hợp và đặc thù trong nông nghiệp; duy trì hệ thống quản lý nhà nước theo ngành dọc. Kinh tế tập thể, HTX đã có những tiến bộ cả về lượng và chất, ngày càng khẳng định được tiềm năng, triển vọng phát triển trong tương lai.

Hoạt động của các HTX nông nghiệp đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm

Trong thực tiễn, xuất hiện nhiều mô hình HTX hoạt động hiệu quả; trình độ cán bộ quản lý HTX nông nghiệp được nâng cao rõ rệt, đội ngũ cán bộ quản lý được trẻ hóa. Cả nước có 2.297 HTX nông nghiệp thành lập doanh nghiệp trong HTX; 2.200 HTX ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số trong sản xuất; trên 4.339 HTX đảm nhận bao tiêu nông sản… Hoạt động của các HTX nông nghiệp đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất nông nghiệp và thu nhập của người nông dân. Năm 2020, doanh thu bình quân/HTX đạt 2,44 tỷ đồng/năm (gấp 5,64 lần so với năm 2001); thu nhập bình quân của lao động thường xuyên đạt 40,5 triệu đồng/năm (gấp 9,1 lần so với năm 2001)… qua đó, đóng góp chung vào thành tựu phát triển của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn suốt 20 năm qua.

 Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế như: Quá trình tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW còn chậm, chưa quyết liệt; Nghị quyết và Luật ban hành đã lâu nên các nội dung, giải pháp và quy định chưa được cập nhật, phù hợp với tình hình mới; số HTX hoạt động có hiệu quả còn thấp, thiếu bền vững; quy mô thành viên và doanh thu của các HTX nông nghiệp còn nhỏ bé; các dịch vụ sơ chế, chế biến, bảo quản, số lượng các HTX có khả năng liên kết chưa nhiều, mới đạt 24% tổng số HTX; Nghị quyết số 13 -NQ/TW đặt ra mục tiêu đến năm 2010 đưa kinh tế tập thể, HTX thoát khỏi những yếu kém, tuy nhiên đến nay mục tiêu này mới cơ bản được hoàn thành; cả nước vẫn còn 985 HTX nông nghiệp ngừng hoạt động chưa giải thể được; một số HTX tuy đã đăng ký tổ chức lại theo Luật HTX năm 2012 nhưng không chuyển đổi được mô hình hoạt động nên hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp…

Tham gia vào hợp tác xã các thành viên hưởng lợi nhiều hơn. Ảnh: Internet

Những chuyển biến rõ nét trogn kinh tế tập thể

Tại Thừa Thiên Huế, qua 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW và 10 năm thi hành Luật HTX, kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh đã có bước chuyển biến rõ nét, hiện có 310 HTX, 43 tổ hợp tác với trên 172.000 thành viên, tổng vốn góp của các thành viên trên 280 tỷ đồng. Trong đó HTXNN có 218 HTX với hơn 101.090 thành viên, năm 2020 doanh thu bình quân của 1 HTX là 1,94 tỷ đồng.

 Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phan Quý Phương, việc thành lập HTX Lâm nghiệp bền vững của từng thôn, xã; tiến đến hình thành liên hiệp các HTX lâm nghiệp là hướng đi rất phù hợp. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã giao nhiệm vụ cho Sở Nông nghiệp và PTNT hỗ trợ bà con nông dân giai đoạn 2016-2020 ngoài mục tiêu mở rộng quy mô rừng trồng gỗ lớn khu vực nông hộ, có chứng chỉ rừng tối thiểu là 5.000 ha với ít nhất 1.250 hộ nông dân và 5.000 người dân được hưởng lợi gắn với phát triển 30 hợp tác xã lâm nghiệp bền vững, hoạt động theo chuỗi giá trị rừng trồng gỗ lớn có chứng chỉ rừng; có doanh nghiệp đầu mối bao tiêu toàn bộ sản phẩm gỗ lớn. Và tiến độ đến nay, tỉnh đã có 1.028 lâm hộ dân với diện tích trên 5.100 ha rừng trồng có chứng chỉ rừng; thành lập được 25/30 hợp tác xã lâm nghiệp bền vững; cho thấy chiến lược đề ra của tỉnh là đúng đắn, phù hợp thực tiễn và hợp lòng dân.

Đối với tỉnh Bắc Kạn, hiện nay có tổng số 241 HTX nông nghiệp và 56 HTX phi nông nghiệp, 1 Liên hiệp HTX, hơn 300 tổ hợp tác, 8 trang trại. Các HTX hoạt động tốt chiếm 39% và trung bình chiếm 40%. Toàn tỉnh có 131 sản phẩm OCOP, trong đó có 95 sản phẩm của HTX nông nghiệp. Nhiều HTX mạnh dạn đầu tư xây dựng hạ tầng, ứng dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến, tạo ra được sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đạt chất lượng và an toàn khá cao, có xu hướng phát triển hợp tác liên kết bền vững.

Tại tỉnh Lào Cai, sau 20 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 13, tỉnh Lào Cai đã đạt được nhiều kết quả nổi bật. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ khá cao: Giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt bình quân 7,7%/năm; giai đoạn 2016-2019 tăng trưởng đạt 9,9%/năm, năm 2020, do dịch bệnh Covid-19 tốc độ tăng trưởng đạt 6,31%; GRDP bình quân đầu người của tỉnh đến hết năm 2020 đạt 71,6 triệu đồng/người/năm. Số lượng HTX năm 2021 là 435 HTX (tăng 338 HTX so với năm 2001). Thu nhập bình quân đầu người của lao động trong HTX năm 2021 đạt 38 triệu đồng/năm (tăng 31,4 triệu đồng so với năm 2001). Doanh thu bình quân của HTX năm 2021 đạt 773 triệu đồng/năm; lãi bình quân HTX năm 2021 đạt 93 triệu đồng/năm. Đóng góp của khu vực HTX vào tổng sản phẩm của địa phương và nền kinh tế đạt 0,15% GRDP. Vai trò lớn nhất của khu vực HTX là đóng góp gián tiếp thông qua tác động tới kinh tế thành viên (chủ yếu khu vực kinh tế cá thể, hộ gia đình).

Đối với tỉnh Thái Nguyên, Nghị quyết số 13-NQ/TW đã được triển khai thực đối đầy đủ cả về nhận thức và quan điểm phát triển kinh tế tập thể, HTX, từng bước được khẳng định và thống nhất trong toàn hệ thống chính trị từ tỉnh đến cấp huyện, xã; vai trò của HTX đối với phát triển kinh tế hộ thành viên, kinh tế địa phương dần được khẳng định. Hoạt động khu vực kinh tế tập thể, HTX phát triển cả về số lượng, chất lượng, từng bước vượt qua tình trạng yếu kém kéo dài, có nhiều tín hiệu phát triển. Số lượng các HTX áp dụng khoa học công nghệ mới, hiện đại vào sản xuất, kinh doanh, tham gia vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao ngày càng nhiều, đặc biệt các HTX nông nghiệp đã hoạt động gắn với các sản phẩm chủ lực của tỉnh, thực hiện liên kết chuỗi, nhiều HTX liên kết với các siêu thị, doanh nghiệp để mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh. Số lượng HTX dự kiến tại thời điểm 31/12/2021 là 433 HTX (tăng 363 HTX so với thời điểm 31/12/2001). Trong đó số HTX thành lập mới 06 tháng đầu năm 2021 là 16 HTX; 04 HTX đã giải thể, chuyển đổi lĩnh vực khác.

Vân Khánh (tổng hợp)

Nguồn: VCA

Thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ trong các HTX nông nghiệp

Kinh tế chia sẻ là xu thế tất yếu nếu muốn phát triển HTX nông nghiệp theo chuỗi giá trị hàng hóa bền vững. Tuy vậy, quá trình ứng dụng kinh tế chia sẻ trong các HTX mới chỉ ở bước “sơ khai” và muốn đầu tư sản xuất theo hướng hiện đại, thì HTX còn nhiều việc cần phải làm.

Hội thảo “Vận dụng mô hình kinh tế chia sẻ vào hoạt động của HTX trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn” do Liên minh HTX Việt Nam tổ chức cho thấy, kinh tế chia sẻ (như điện toán đám mây, big data, IoT, robot tự động, thiết bị truy xuất nguồn gốc, sàn giao dịch điện tử….) sẽ giúp người dân, HTX tận dụng lợi thế của công nghệ số để phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp, đồng thời giúp HTX tiết kiệm chi phí, thời gian và nhân lực.

Khó khăn bủa vây

Mang lại những lợi ích thiết thực như vậy nhưng hiện nay, kinh tế chia sẻ vẫn chỉ được số ít HTX hiểu và ứng dụng thành công. Theo khảo sát của Viện phát triển kinh tế hợp tác (Liên minh HTX Việt Nam) trên 1.000 HTX nông nghiệp thực hiện đầu năm 2021 cho thấy, đa số cán bộ quản lý HTX chưa hiểu về kinh tế chia sẻ.

Khảo sát cho thấy, với 400 phiếu điều tra tại các HTX, có tới 104 phiếu trả lời chưa biết gì về kinh tế số (chiếm 26%), 203 phiếu trả lời chỉ biết và hiểu một ít về kinh tế số (chiếm 50,7%), 77 phiếu chọn đã hiểu về kinh tế chia sẻ (chiếm 19,3%), còn lại chỉ có 15 phiếu trả lời hiểu rõ về kinh tế chia sẻ (chiếm 3,8%).

a2-1599106395977516271668-9546-163524533

Ứng dụng kinh tế chia sẻ vẫn còn mới mẻ với các HTX nông nghiệp.

Lý giải điều này, các chuyên gia cho rằng rào cản lớn nhất là trình độ cán bộ quản lý HTX còn hạn chế, năng lực khai thác thông tin, mức độ sẵn sàng ứng dụng và tiếp nhận, đổi mới khoa học, kỹ thuật còn rất hạn chế.

Theo khảo sát của Bộ NN&PTNT, trong số 56.470 cán bộ HTX nông nghiệp chỉ có 11.675 cán bộ có chứng chỉ chuyên môn từ cao đẳng, đại học trở lên (chiếm 20,6%); 17.243 cán bộ có trình độ sơ cấp, trung cấp (chiếm 30,53%); 27.552 cán bộ chưa qua đào tạo (chiếm 48,79%).

Thực tế vẫn còn nhiều HTX nông nghiệp hoạt động dựa vào số cán bộ cao tuổi, trình độ chuyên môn thấp, quản lý chủ yếu bằng kinh nghiệm và uy tín cá nhân. Đây là một trong những rào cản đối với HTX khi ứng dụng mô hình kinh tế chia sẻ vào hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là những vấn đề liên quan đến công nghệ thông minh, công nghệ cao.

Bên cạnh yếu tố nhân lực, quy mô nhỏ lẻ cũng ảnh hưởng đến việc ứng dụng kinh tế chia sẻ của các HTX hiện nay. Theo nghiên cứu, bình quân 1 HTX có 280 thành viên nhưng chủ yếu số thành viên này từ các HTX nông nghiệp được thành lập trước khi có Luật HTX năm 2012. Số HTX được thành lập những năm gần đây thì thành viên bình quân chỉ khoảng 7-30 thành viên.

Cùng với đó, diện tích canh tác khiêm tốn cũng khó thúc đẩy ứng dụng kinh tế chia sẻ. Trong khi việc tích tụ ruộng đất quy mô lớn sẽ tạo thuận lợi cho đầu tư, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Theo Tổng cục thống kê, từ 2016-2020, số thửa đất sản xuất nông nghiệp bình quân của 1 hộ cũng chỉ tăng từ 2,5 thửa (năm 2016) lên 2,8 thửa (diện tích bình quân một thửa ruộng là 2.026,3m2). Thực tế tại các HTX, nhất là các HTX ở phía Bắc, diện tích sản xuất của người dân, HTX còn ít hơn nhiều bởi điều kiện địa hình đồi núi, địa phương chưa chú trọng đến dồn điền, đổi thửa.

Để ứng dụng kinh tế chia sẻ hiệu quả, ngoài việc mở rộng quy mô sản xuất, các HTX cần quản lý giao dịch bằng hệ thống điện tử, thanh toán bằng thẻ. Thế nhưng các HTX nông nghiệp hiện nay vẫn chưa làm được điều này. Theo báo cáo của Liên minh HTX Việt Nam, cuối năm 2020, cả nước có 1.292 HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (chiếm 5% tổng số HTX cả nước) và chỉ những HTX mới đang chú trọng giao dịch bằng hệ thống điện tử, thanh toán bằng thẻ nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường.

Thực hiện các giao dịch điện tử vừa giúp các HTX hạn chế việc phải ghi chép thủ công bằng sổ sách lại bảo đảm yếu tố chính xác, minh bạch, từ đó bảo đảm vấn đề quản lý thông tin sản xuất kinh doanh. Điều này cũng được quy định cụ thể trong Điều 9, Luật HTX 2012 là: “Các HTX phải đưa vào điều lệ việc minh bạch thông tin, cung cấp thông tin cho thành viên, kiểm soát minh bạch thông tin kiểm soát, kiểm toán…”. Nhưng thực tế, nhiều HTX chưa thực hiện tốt nội dung này.

Ông Hoàng Văn Long (Viện Phát triển kinh tế hợp tác) cho biết, khi ứng dụng mô hình kinh tế chia sẻ vào hoạt động của HTX các hoạt động như vay vốn, sử dụng tài nguyên, máy móc, thiết bị, thanh toán… đều làm thủ công thì rất dễ để xảy ra tình trạng trục lợi cá nhân, gây khó khăn cho HTX khi làm việc với ngân hàng, doanh nghiệp và đối tác nước ngoài.

Lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ

Thực tế, ứng dụng kinh tế chia sẻ đã thực hiện thành công ở một số HTX. Ông Bùi Văn Vũ, Giám đốc HTX sản xuất kinh doanh nông nghiệp an toàn Vũ Anh (Thái Bình) cho biết, hiện nay HTX đã đầu tư sản xuất rau màu theo mô hình công nghệ cao. Đặc biệt, nhờ sự phát triển của công nghệ, HTX đã ứng dụng phần mềm truy xuất nguồn gốc kết nối với máy tính để nâng cao chất lượng sản phẩm, giúp thành viên tự tin đưa sản phẩm ra thị trường.

Tuy nhiên theo ông Vũ, không phải HTX nào cũng có thể ứng dụng kinh tế chia sẻ vì ngoài những khó khăn nội tại, các HTX còn gặp rào cản từ các quy định pháp luật về vay vốn, tích tụ đất đai…

Chính vì vậy, để đưa kinh tế chia sẻ vào trong HTX nông nghiệp, ông Vũ cho rằng trước tiên cần tập trung hỗ trợ những HTX trẻ, có đầu tư, tự nguyện tham gia HTX. Sau khi các mô hình này thí điểm, ứng dụng hiệu quả có thể lan tỏa ra các mô hình khác vì đây là mô hình sản xuất mới, cần thời gian để các HTX thích ứng.

anhvinhhagiang-1536x1152-6927-1635245332

Việc liên kết với doanh nghiệp cũng được cho là giải pháp hiệu quả giúp HTX giải quyết những khó khăn trước mắt cũng như lâu dài.

Thực tế cho thấy, kinh tế chia sẻ khá tương đồng với mô hình HTX vì đều thực hiện theo nguyên tắc “mua chung, bán chung và cùng chia sẻ lợi ích”. Theo các chuyên gia, cũng giống như mô hình kinh tế chia sẻ Grab, chỉ cần người biết sử dụng dịch vụ hướng dẫn thì vẫn có nhiều người lớn tuổi có thể sử dụng được dịch vụ này. Điều quan trọng, tất cả các khái niệm, văn bản pháp luật đến ứng dụng về kinh tế chia sẻ cần đơn giản để phù hợp với nhận thức, điều kiện, hoàn cảnh của HTX. Bên cạnh đó, việc liên kết với doanh nghiệp cũng được cho là giải pháp hiệu quả giúp HTX giải quyết những khó khăn trước mắt cũng như lâu dài.

Chia sẻ về vấn đề này, PGS, TS Đỗ Minh Cương, Chủ nhiệm đề tài khoa học “Vận dụng mô hình kinh tế chia sẻ vào hoạt động của HTX trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn” cho biết, trước đây, quả vải của một số HTX ở Bắc Giang chưa đạt VietGAP chỉ bán 20.000 đồng kg, nhưng sau khi được doanh nghiệp hỗ trợ ứng dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc thông qua điện thoại thông minh thì quả vải đã bán được với giá 40.000 đồng/kg.

“Trong mối quan hệ này, HTX chỉ cần bỏ đất, công để trồng còn doanh nghiệp sẽ hỗ trợ về công nghệ. Đây là một cách làm hiệu quả, phù hợp giúp HTX phát triển được những thế mạnh nội lực trong ứng dụng kinh tế chia sẻ”, ông Cương nói.

Huyền Trang 

Để hợp tác xã là “điểm tựa” của nông dân

Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể (KTTT) và 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2012, số lượng HTX nông nghiệp trên cả nước không ngừng tăng nhanh cả về quy mô lẫn chất lượng. Tuy nhiên, trong thời gian tới, để HTX thật sự phát huy vai trò trong phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp, các chuyên gia kinh tế cho rằng cần nhanh chóng hoàn thiện, bổ sung chính sách, thực hiện cơ chế đồng bộ… giúp HTX có thêm những động lực để phát triển.

Sản xuất rau an toàn, hiệu quả kinh tế cao tại Hợp tác xã nông sản hữu cơ Lương Sơn (Hòa Bình). Ảnh: THU CÚC

Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể (KTTT) và 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2012, số lượng HTX nông nghiệp trên cả nước không ngừng tăng nhanh cả về quy mô lẫn chất lượng. Tuy nhiên, trong thời gian tới, để HTX thật sự phát huy vai trò trong phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp, các chuyên gia kinh tế cho rằng cần nhanh chóng hoàn thiện, bổ sung chính sách, thực hiện cơ chế đồng bộ… giúp HTX có thêm những động lực để phát triển.

Những thành tựu hợp tác xã 

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến nay cả nước có khoảng 18.327 HTX nông nghiệp và 79 liên hiệp HTX nông nghiệp. Như vậy, sau 20 năm, số lượng HTX nông nghiệp tăng 12.569 HTX; còn so với thời điểm Luật HTX năm 2012 có hiệu lực thì số lượng HTX nông nghiệp cả nước tăng khoảng 7.917 HTX. Không chỉ tăng về số lượng mà chất lượng và hiệu quả của các HTX nông nghiệp cũng có nhiều đổi mới. Tỷ lệ các HTX nông nghiệp được đánh giá xếp loại khá tốt đạt 60% (so với năm 2013 chỉ đạt 10%). Nhờ sự thay đổi đem đến những tín hiệu như vậy đã thu hút được người dân tham gia vào HTX, số lượng tăng dần theo từng năm. Đến hết năm 2021, cả nước có 3,23 triệu thành viên; tổng số lao động thường xuyên trong các HTX nông nghiệp khoảng 550.000 người.

Bên cạnh việc tăng nhanh về số lượng, các HTX cũng tập trung phát triển chất lượng hoạt động sản xuất bằng việc ứng dụng công nghệ cao. Tính đến nay, cả nước có 2.200 HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (chiếm 12% tổng số HTX nông nghiệp). Ghi nhận tại HTX Bưởi Da Xanh tỉnh Bến Tre, đơn vị đang sở hữu 101 ha bưởi da xanh với sản lượng trung bình 800 tấn/năm, đã áp dụng thành công thực hành nông nghiệp tốt và đạt chứng nhận VietGAP và GlobalGAP. Trong đó, có 37,7 ha đạt VietGAP và 14,7 ha đạt GlobalGAP. Đồng thời, HTX còn xây dựng và vận hành ổn định Website để giới thiệu và bán sản phẩm.

Nhờ những hoạt động sản xuất, kinh doanh sáng tạo, đến nay, tổng số vốn hoạt động của HTX nông nghiệp khoảng 29.425 tỷ đồng; thu nhập bình quân của lao động thường xuyên đạt 40,5 triệu đồng/năm (năm 2020). Bên cạnh việc phát huy nội lực của các HTX thì chính sách của Nhà nước trong những năm qua cũng góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy hoạt động của các HTX. Trong vòng 20 năm qua, kinh phí hỗ trợ cho các HTX đạt khoảng 8.180 tỷ đồng; bên cạnh đó, đã có 312.363 cán bộ quản lý và thành viên HTX được đào tạo, bồi dưỡng…

Gỡ “nút thắt” để phát triển

Mặc dù bước đầu đã có những thành công nhưng các HTX vẫn còn gặp không ít khó khăn trong sản xuất, hội nhập và phát triển. Theo Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN và PTNT) Lê Minh Hoan, khó khăn lớn nhất qua 5 năm hoạt động gần đây của HTX là nhân sự bộ phận kinh doanh chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là giám đốc điều hành dẫn đến nhiều chỉ tiêu, mục tiêu của HTX chưa đạt như mong muốn. Vì vậy, các HTX muốn phát triển, ngoài những chính sách hỗ trợ của Nhà nước cũng cần sự phát huy nội lực của bản thân. Thời gian tới, ngành nông nghiệp sẽ thu hút đầu tư công nghệ hạ tầng logistics để các HTX nâng cao năng lực. Bộ cũng chuẩn bị trình Chính phủ chương trình logistics cho ngành nông nghiệp để giải quyết việc đứt gãy chuỗi cung ứng khi xảy ra thiên tai, dịch bệnh.

Chia sẻ về thực tế bộ máy điều hành tại HTX Bưởi Da Xanh, ông Nguyễn Quốc Bảo, Chủ tịch HĐQT HTX cho biết, chỉ riêng chức danh giám đốc điều hành, gần 5 năm HTX đã thay đổi năm giám đốc. Do hầu hết giám đốc đều là những người trẻ, còn thiếu kinh nghiệm trong công tác quản lý HTX cho nên hạn chế trong điều hành, dẫn đến nhiều kế hoạch sản xuất không thể thực hiện. Chưa kể kinh nghiệm và kinh doanh mặt hàng nông sản của các giám đốc điều hành trẻ còn hạn chế dẫn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, năng lực cạnh tranh của HTX còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu cần có.

Theo Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn Lê Đức Thịnh, hiện tại bộ máy quản lý HTX nông nghiệp còn yếu và mỏng; chính sách hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp còn hạn chế; một số quy định về HTX chưa hoàn thiện… dẫn đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của HTX còn thấp. Khó khăn về nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có bộ máy điều hành sản xuất, kinh doanh không chỉ là khó khăn của HTX Bưởi Da Xanh tỉnh Bến Tre mà còn của hầu hết các HTX hiện nay. Chưa kể, việc các HTX chấp nhận thay đổi mang tính đột phá là “mua chung, bán chung”, dám ký hợp đồng bán hàng giá cố định trong năm còn thấp, dẫn đến hạn chế trong mở rộng thị trường, tăng vốn đầu tư hướng đến sự phát triển bền vững thấp.

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng, cần phải thu hút nông dân với những mảnh ruộng nhỏ lẻ vào HTX để hình thành những cánh đồng lớn, qua đó mới có thể sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ hiệu quả. Các chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến HTX chủ yếu là lồng ghép vào các Chương trình mục tiêu quốc gia mà chưa có chương trình riêng. Vì vậy, việc hoàn thiện khung khổ pháp lý, bổ sung cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX nông nghiệp tích tụ ruộng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp chính là bước đệm quan trọng để HTX, KTTT phát triển bền vững.

HƯNG SƠN/Báo Nhân dân

Thúc đẩy đổi mới sáng tạo – Hướng tới một nền nông nghiệp xanh

Mới đây, Bộ NNPTNT tổ chức hội nghị toàn thể PSAV với chủ đề: “Thúc đẩy đổi mới sáng tạo – Hướng tới một nền nông nghiệp xanh”.

Trên cơ sở sáng kiến “Tầm nhìn mới trong nông nghiệp” của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), mô hình PPP đã được thể chế hóa thành Đối tác phát triển nông nghiệp bền vững Việt Nam (gọi tắt là PSAV) đang triển khai 8 nhóm công tác PPP ngành hàng bao gồm: Cà phê, chè, rau quả, thủy sản, gạo, hồ tiêu, chăn nuôi và hóa chất nông nghiệp, với sự tham gia của 120 tổ chức, các công ty trong nước và quốc tế, hiệp hội ngành hàng, viện nghiên cứu, các tổ chức quốc tế và phi chính phủ.

Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ NNPTNT – Lê Minh Hoan cho biết, mặc dù chịu tác động của dịch Covid-19 và biến đổi khí hậu, thiên tai, nhưng nông nghiệp Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng dương ở mức 2,68% năm 2020 và 9 tháng năm 2021, nông nghiệp duy trì tăng trưởng 2,74%. Vai trò của ngành nông nghiệp càng đặc biệt quan trọng trong điều kiện bình thường mới cả về kinh tế, xã hội.

Hướng tới nền nông nghiệp xanh - Ảnh 1.

Nông dân thu hoạch rau VietGAP trên cánh đồng tại Yên Lạc (Vĩnh Phúc). Ảnh: Hải Đăng

Tuy nhiên, nông nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức như: Khả năng cạnh tranh của các hộ sản xuất quy mô nhỏ, còn hạn chế; tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và dịch bệnh. Đây là cơ sở để Bộ NNPTNT dự thảo Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào cuối năm 2021.

“Theo đó, chiến lược hướng đến mục tiêu cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; đồng thời xoay quanh ba trụ cột: “Nông nghiệp sinh thái”, “nông thôn hiện đại”, “nông dân thông minh”. Ngành nông nghiệp cũng xác định yêu cầu chuyển đổi từ “tư duy sản xuất” sang “tư duy kinh tế”, hướng tới những giá trị xanh được tạo nên từ “chuyển đổi xanh, tiêu dùng xanh, kinh tế xanh”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh. Bộ NNPTNT đánh giá việc triển khai 8 nhóm công tác PPP ngành hàng đã và đang mang lại kết quả tích cực, đáng khích lệ.

 

Nguồn: https://danviet.vn/thuc-day-doi-moi-sang-tao-huong-toi-mot-nen-nong-nghiep-xanh-20211010170624514.htm

Bộ trưởng NN&PTNT: Săn đón ‘đại bàng’ nhưng phải ‘lót ổ’ cho hợp tác xã, tổ hợp tác

Nhắc tới câu chuyện chúng ta có quan tâm “đại bàng” nhưng cũng đừng quên những “con chim sẻ”, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT cho rằng, săn đón “đại bàng” nhưng phải “lót ổ” cho hợp tác xã, tổ hợp tác. Chưa cần tháo gỡ thể chế từ cấp Trung ương, các địa phương có thể thông qua nguồn lực của mình để đầu tư vào khu vực hợp tác xã.

Đây là nhấn mạnh của Bộ trưởng Lê Minh Hoan tại Hội nghị Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2012 trong lĩnh vực nông nghiệp do Bộ NN&PTNT tổ chức sáng ngày 19/10.

Hoi-nghi-HTX-1376-1634611303.png

Hội nghị Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.

Theo ông Hoan, trong phục hồi kinh tế sau dịch cần nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trong nước, không bị lệ thuộc quá nhiều vào kinh tế nước ngoài.

Lấy ví dụ từ xây dựng nông thôn mới của Hàn Quốc, ông Hoan cho biết, chữ đầu tiên trên lá cờ xây dựng nông thôn mới của nước này là hợp tác, làm sao người nông dân sáng ngủ dậy có suy nghĩ trồng, nuôi con gì thì phải hợp tác với ai, làm gì để hợp tác? Không có sức mạnh riêng lẻ mà thắng được sức mạnh tập thể.

“Vừa rồi, tôi có nói chuyện với chuyên gia Trung Quốc, họ cũng phát triển kinh tế nông nghiệp ở nông thôn rất mạnh”, ông Hoan nói.

Hay vừa qua tại chuyến thăm châu Âu cùng Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho hay ở các nước phát triển phát triển rất mạnh khu vực HTX. Họ khuyên Việt Nam đừng quên lãng khu vực HTX.

Theo đó, Bộ trưởng NN&PTNT cho rằng, đừng nhìn vào mức đóng góp của HTX vào ngân sách nhà nước, bởi bản chất HTX không phải là doanh nghiệp. Mà cần nhìn HTX là một mô hình đa giá trị, có thể tác động tích cực tới đời sống kinh tế – xã hội khu vực nông thôn, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp.

“HTX không chỉ phát triển kinh tế đơn thuần mà còn kích hoạt tình yêu nông thôn của người dân. HTX nông nghiệp vẫn có thể làm du lịch, tạo động lực cho các em học sinh, sinh viên học chuyên ngành nông nghiệp để trở về đóng góp làng quê”, ông Hoan chia sẻ.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan: “Chúng ta không thể chậm trễ, lần lữa trong việc quan tâm đến HTX nông nghiệp. Chưa cần tháo gỡ thể chế từ cấp Trung ương, các địa phương có thể thông qua nguồn lực của mình để đầu tư vào HTX”.

Theo Bộ trưởng NN&PTNT, vừa qua, bà con từ thành phố trở về quê là quy luật tất yếu, nhưng rõ ràng khuấy động làng quê có nhiều sức sống để nông nghiệp phát triển tốt hơn. Vì vậy, Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, Bộ NN&PTNT đưa vào thêm một trong những nền tảng là phát triển kinh tế nông thôn, chứ không chỉ xây dựng cầu, đường; thông qua hình thức hợp tác làng nghề, câu lạc bộ khuyến nông, tổ hợp tác, HTX.

Trước vai trò của HTX, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT nhấn mạnh trách nhiệm của các Bộ, ngành Trung ương, địa phương là cần chăm lo cho HTX. Bộ NN&PTNT sẽ trình Chính phủ chương trình đầu tư hạ tầng logistics cho các vùng HTX, tổ hợp tác, hạn chế đứt gãy khi có rủi ro bên ngoài. Từ đó, bà con nông dân sẽ thấy lợi ích cả về đầu vào và đầu ra khi tham gia HTX, chứng minh nền nông nghiệp không còn bán thô mà tích hợp đa giá trị.

“Bản thân chuyển đổi số, đầu tư kết cấu hạ tầng, bảo hiểm nông nghiệp, đưa khoa học công nghệ cũng không thành công nếu không có HTX”, ông Hoan nói.

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT nhấn mạnh một lần nữa: “Ban đầu đừng nhìn HTX nông nghiệp ở lợi ích kinh tế mà cần nhìn rộng ra tác động của khu vực này đến xã hội, đa giá trị hơn. Chúng ta không thể chậm trễ, lần lữa trong việc quan tâm đến HTX nông nghiệp. Chưa cần tháo gỡ thể chế từ cấp Trung ương, các địa phương có thể thông qua nguồn lực của mình để đầu tư vào HTX. Sự hỗ trợ đồng bộ từ Trung ương tới địa phương cho khu vực kinh tế tập thể, HTX là chỗ dựa cho phát triển HTX trong giai đoạn tới.

Theo ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, ra đời cách đây 10 năm, 20 năm nhưng Nghị quyết 13 và Luật HTX năm 2012 đã đánh giá đúng tình hình, chỉ ra được yêu cầu, định hướng trong xây dựng phát triển kinh tế tập thể, HXT trong lĩnh vực nông nghiệp.

Trong thực tiễn, ngày càng xuất hiện nhiều và đa dạng các mô hình HTX hoạt động hiệu quả, trình độ cán bộ quản lý, HTX nông nghiệp được nâng cao rõ rệt, đội ngũ cán bộ quản lý được trẻ hóa. Số lượng, cơ cấu HTX nông nghiệp từ chỗ chiếm tỷ lệ nhỏ hơn trong tổng số HTX, hiện đã vươn lên đạt 13.350 HTX nông nghiệp trong tổng số 26.500 HTX toàn quốc, bằng 70%.

Tuy nhiên, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cũng cho rằng, quá trình tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 13 còn chậm, tại nhiều thời gian, thời điểm chưa quyết liệt. Tuy số lượng HTX thành lập mới tăng mạnh, nhưng số HTX hoạt động hiệu quả còn thấp; quy mô thành viên và doanh thu các HTX nông nghiệp còn thấp, thiếu bền vững; quy mô thành viên và doanh thu của các HTX nông nghiệp còn nhỏ bé.

Trước tình hình trên, Bộ NN&PTNT đề nghị Trung ương, Bộ Chính trị ban hành mới Nghị quyết về “Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể” với trọng tâm và mục tiêu quan trọng là xây dựng quan hệ sản xuất mới trong sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy đoàn kế, tương hỗ và phúc lợi xã hội.

Thy Lê

Nguồn: https://vnbusiness.vn/hop-tac-xa/bo-truong-nn-amp-ptnt-san-don-dai-bang-nhung-phai-lot-o-cho-hop-tac-xa-to-hop-tac-1081796.html

Sẽ có nghị định riêng về phát triển hợp tác xã nông nghiệp

20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2012 trong lĩnh vực nông nghiệp, hoạt động của khu vực kinh tế hợp tác đã có những chuyển biến vô cùng mạnh mẽ.

60% hợp tác xã được xếp loại khá, tốt

Báo cáo tại hội nghị tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012 trong lĩnh vực nông nghiệp, TS Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NNPTNT) cho biết, đến năm 2020, khu vực kinh tế tập thể, HTX nông nghiệp được đánh giá là đã có bản khắc phục hạn chế, yếu kém kéo dài và đang có nhiều tiềm năng, cơ hội để phát triển.

Tính đến ngày 31/12/2021, cả nước có khoảng 18.327 hợp tác xã (HTX) nông nghiệp và 79 liên hiệp HTX nông nghiệp.

Sẽ có nghị định riêng về phát triển hợp tác xã nông nghiệp - Ảnh 1.

TS Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NNPTNT) báo cáo tại hội nghị tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012 trong lĩnh vực nông nghiệp. Ảnh: K.N

“Từ năm 2013 đến nay, số lượng HTXNN tăng nhanh, trung bình mỗi năm tăng gần 800 HTX. Không chỉ tăng nhanh về số lượng, mà chất lượng và hiệu hoạt động của các HTXNN cũng đã được cải thiện. Tỷ lệ các HTX NN được đánh giá xếp loại khá, tốt đã tăng từ 10% (năm 2013) lên 33% (hết năm 2016) và trên 60% năm 2020” – ông Thịnh cho biết.

Cũng theo ông Thịnh, đến nay cả nước có 2.297 HTXNN đã thành lập doanh nghiệp trong HTX, 2.200 HTX ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số trong sản xuất, tương ứng bằng 13% và 12% tổng số HTXNN cả nước. Đặc biệt đã có trên 4.339 HTX nông nghiệp đảm nhận bao tiêu nông sản, bằng 24,5% tổng số HTX nông nghiệp; tỷ lệ này trước năm 2015 chỉ là 5-7%.

Đáng chú ý, các hoạt động dịch vụ của HTX đã góp làm tăng thu nhập nông nghiệp trung bình của hộ thành viên là 20%, trong tổng số trên 5.000 sản phẩm OCOP cả nước, có 39% số sản phẩm thuộc về các tổ hợp tác, HTX.

Tổng vốn hoạt động của các HTX nông nghiệp hiện nay khoảng 29.425 tỷ đồng, bình quân/HTX là 1,61 tỷ đồng (tăng khoảng 800 triệu đồng/HTX so với năm 2013).

Tuy nhiên, theo ông Thịnh, tuy số lượng HTX thành lập mới tăng mạnh, nhưng số HTX hoạt động có hiệu quả còn thấp, thiếu bền vững; quy mô thành viên và doanh thu của các HTX nông nghiệp còn nhỏ bé. Các dịch vụ sơ chế, chế biến, bảo quản, số lượng các HTX có khả năng liên kết hiệu quả với doanh nghiệp, chế biến và tiêu thụ nông sản cho thành viên HTX và nông dân cũng chưa nhiều, mới đạt 24% tổng số HTX.

“Tình trạng thành lập HTX không xuất phát từ nhu cầu của hộ nông dân mà để hoàn thành tiêu chí nông thôn mới hoặc để thụ hưởng chính sách hỗ trợ của nhà nước vẫn còn. Cơ chế chính sách ban hành nhiều nhưng chưa phù hợp với thực tế, thiếu nguồn lực thực hiện” – ông Thịnh nêu một thực tế.

Sẽ có nghị định riêng về hợp tác xã nông nghiệp - Ảnh 1.

Các thành viên Hợp tác xã thanh long xã Kiểng Phước, huyện Gò Công Đông, Tiền Giang cùng nhau trao đổi kinh nghiệm sản xuất. Ảnh: K.N

Tính đến ngày 31/12/2021, cả nước có khoảng 18.327 HTX nông nghiệp và 79 liên hiệp HTX nông nghiệp. Tỷ lệ các HTX nông nghiệp được đánh giá xếp loại khá, tốt đã tăng từ 10% (năm 2013) lên 33% (hết năm 2016) và trên 60% năm 2020.

Coi trọng chất lượng hợp tác xã hơn số lượng

Ông Nguyễn Ngọc Bảo – Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cho biết: “Có một thực tế, chi phí logistics trong ngành nông nghiệp vẫn rất cao, chiếm tới 20% giá thành; trong khi 85% nông sản của nông dân chỉ được phân phối qua thương lái, chỉ có 15% nông sản đi thẳng từ ruộng đến nhà máy chế biến. Do vậy, phải tổ chức sản xuất lại theo chuỗi, trong HTX mới có thể nâng cao sức cạnh tranh” – ông Bảo nói.

Sẽ “coi trọng chất lượng HTX hơn là số lượng”, Thứ trưởng Bộ NNPTNT Trần Thanh Nam đề nghị Trung ương, Bộ Chính trị ban hành mới nghị quyết về “tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể” mục tiêu xây dựng quan hệ sản xuất mới trong sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy đoàn kết, tương hỗ và phúc lợi xã hội.

Bộ NNPTNT cũng kiến nghị Chính phủ sắp tới phê duyệt nghị quyết về phát triển HTX trong lĩnh vực nông nghiệp, tiến tới ban hành Nghị định riêng về phát triển HTX nông nghiệp.

Tăng cường đầu tư cho hợp tác xã

Bộ trưởng Bộ NNNPTNT Lê Minh Hoan khẳng định, phát triển hợp tác xã sẽ tạo ra sức mạnh đa chiều. “Trong bối cảnh hiện nay, ngoài việc thu hút đầu tư nước ngoài thì cũng tăng cường sức mạnh nội tại. Cùng với sức mạnh của doanh nghiệp thì cũng cần chú ý đến kinh tế tập thể và hợp tác xã. Chúng ta quan tâm đến đại bàng nhưng cũng đừng quên những con chim sẻ” – Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh.

Từ thực tế đó, Bộ trưởng Lê Minh Hoan đề nghị các địa phương quan tâm thực sự đến sự phát triển của hợp tác xã, coi hợp tác xã là một phần của kinh tế nông thôn, là một phần không thể tách rời của kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn.

Bộ trưởng Bộ NNPTNT cho biết thêm, Bộ đang chuẩn bị trình Chính phủ chương trình logictics cho ngành nông nghiệp để hạn chế ảnh hưởng của việc đứt gãy chuỗi cung ứng qua những đại dịch, thiên tai, trong đó hợp tác xã sẽ là nhân tố quan trọng trong chuỗi cung ứng.

Theo báo Dân Việt

Nguồn: https://vca.org.vn/se-co-nghi-dinh-rieng-ve-phat-trien-hop-tac-xa-nong-nghiep-a23994.html

Tư vấn, Chứng nhận Hợp chuẩn – Hợp quy

    Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam trở thành một phần của các Hiệp định thương mại tự do, cạnh tranh trở thành một yếu tố mang tính quốc tế đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, hợp tác xã. Bên cạnh các yếu tố cạnh tranh khác, chất lượng sản phẩm trở thành một trong những chiến lược quan trọng nhất làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, hợp tác xã. Ngày nay, người tiêu dùng có quyền lựa chọn nhà sản xuất, cung ứng một cách dễ dàng hơn. Yêu cầu về chất lượng của thị trường trong nước và nước ngoài càng ngày càng khắt khe.

Bởi vậy, chất lượng sản phẩm đóng vai trò quan trọng quyết định sự sống còn của doanh nghiệp, hợp tác xã, vì:

– Chất lượng sản phẩm tạo ra sức hấp dẫn, thu hút người mua và tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp, HTX. Sản phẩm có chất lượng cao là một trong những căn cứ quan trọng khiến khách hàng quyết định mua hàng.

– Chất lượng sản phẩm làm tăng uy tín, danh tiếng và hình ảnh của doanh nghiệp, HTX, điều này có tác động rất lớn tới quyết định lựa chọn mua và dùng các sản phẩm của khách hàng.

– Chất lượng sản phẩm cao là cơ sở cho hoạt động duy trì và mở rộng thị trường tạo ra sự phát triển lâu dài, bền vững cho các doanh nghiệp, HTX.

– Nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa tương đương với tăng năng suất, giảm phế thải trong sản xuất, nhờ đó giảm các nguồn gây ô nhiễm môi trường.

– Nâng cao chất lượng sản phẩm còn giúp người tiêu dùng tiết kiệm được chi phí, sức lực, còn là giải pháp quan trọng để tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu và lợi nhuận, trên cơ sở đó đảm bảo thống nhất các lợi ích của khách hàng, doanh nghiệp, HTX và xã hội.

– Trong điều kiện ngày nay, nâng cao chất lượng sản phẩm là cơ sở quan trọng cho việc thúc đẩy quá trình hội nhập và cụ thể là tiếp cận được các thị trường nước ngoài đầy tiềm năng.

    Tóm lại, nâng cao chất lượng sản phẩm là tăng khả năng cạnh tranh, khẳng định vị thế của sản phẩm, hàng hoá và thương hiệu của doanh nghiệp, HTX trên thị trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay.

    Song hành với xu hướng của thế giới, lĩnh vực chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy ở Việt Nam cũng đang ngày càng hoàn thiện và đa dạng hóa nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp, HTX những dịch vụ chứng nhận chuyên nghiệp và có giá trị. Đây là một trong những công cụ hữu hiệu nhất đang được sử dụng và công nhận rộng rãi trên toàn thế giới về khía cạnh chất lượng sản phẩm, dịch vụ.

   Đối với khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã, các ngành nghề và sản phẩm chủ yếu liên quan đến nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp… Đây được xem là khu vực kinh tế yếu thế nhất nhưng lại có vai trò to lớn đối với mục tiêu phát triển bình đẳng giữa nông thôn và thành thị, nông nghiệp và công nghiệp… Hiện cả nước có hơn 26.040 HTX và chủ yếu tại vùng nông thôn. Sản phẩm của khu vực kinh tế này rất đa dạng, phong phú nhưng giá trị kinh tế và lợi thế cạnh tranh thấp đã và đang kìm hãm sự phát triển của khu vực. Nhiệm vụ đặt ra là giải quyết các tồn tại trong chuỗi giá trị sản phẩm của các HTX thông qua các giải pháp công nghệ, thị trường, nguồn vốn, nhân lực… Để nâng cao giá trị sản phẩm, tạo dựng và thúc đẩy sự phát triển bền vững không còn cách nào khác tốt hơn là cải thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm, khẳng định chất lượng sản phẩm thông qua các chứng nhận hợp chuẩn hợp quy cho sản phẩm của HTX.

    Được Liên minh HTX Việt Nam thành lập năm 2004, Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường (COSTE) đã và đang tích cực hoàn thiện và mở rộng các dịch vụ khoa học, công nghệ để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình là cung cấp các dịch vụ khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường cho khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã. Riêng trong lĩnh vực hợp chuẩn – hợp quy, COSTE đã và đang cung cấp các dịch vụ tư vấn, chứng nhận cho các HTX, doanh nghiệp, hộ nông dân như sau:

  • Dịch vụ tư vấn, chứng nhận VietGAP (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản),
  • Dịch vụ tư vấn, chứng nhận GlobalGAP (trồng trọt),
  • Dịch vụ tư vấn, chứng nhận Hữu cơ (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản),
  • Dịch vụ tư vấn, chứng nhận ISO 22000
  • Dịch vụ tư vấn, chứng nhận HACCP
  • Dịch vụ tư vấn, chứng nhận ISO 9001
  • Dịch vụ tư vấn, chứng nhận ISO 14001

    Với lợi thế là đơn vị chuyên môn trong Hệ thống Liên minh HTX Việt Nam, các chuyên gia có kinh nghiệm và tâm huyết với người nông dân, HTX, COSTE sẽ cung cấp các dịch vụ cho HTX, doanh nghiệp, hộ cá thể một cách phù hợp, chuyên nghiệp và hiệu quả nhất.

 

Liên hệ tư vấn miễn phí: Hotline 036.385.4402 (Phòng Ứng dụng và chuyển giao công nghệ – COSTE)

COSTE – ĐỒNG HÀNH CÙNG HỢP TÁC XÃ

Địa chỉ: Tòa nhà NEDCEN, Số 149 Giảng Võ, Phường Cát Linh, Quận Đống Đa, Tp Hà Nội.
Điện thoại: 0243.8234.456 | Email: coste@vca.org.vn | Website: www.coste.org.vn

Đào tạo, tập huấn, tư vấn, chuyển giao công nghệ

  1. Khái niệm Chuyển giao công nghệ?

Chuyển giao công nghệ: là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công nghệ.

Trong đó:

– Chuyển giao quyền sở hữu công nghệ: là việc chủ sở hữu công nghệ chuyển giao toàn bộ quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt công nghệ cho tổ chức, cá nhân khác. Trường hợp công nghệ là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thì việc chuyển giao quyền sở hữu công nghệ phải được thực hiện cùng với việc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.

– Chuyển giao quyền sử dụng công nghệ: tổ chức, cá nhân cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng công nghệ của mình.

Phạm vi chuyển giao quyền sử dụng công nghệ do các bên thỏa thuận bao gồm:

+ Độc quyền hoặc không độc quyền sử dụng công nghệ;

+ Được chuyển giao lại hoặc không được chuyển giao lại quyền sử dụng công nghệ cho bên thứ ba;

+ Lĩnh vực sử dụng công nghệ;

+ Quyền được cải tiến công nghệ, quyền được nhận thông tin cải tiến công nghệ;

+ Độc quyền hoặc không độc quyền phân phối, bán sản phẩm do công nghệ được chuyển giao tạo ra;

+ Phạm vi lãnh thổ được bán sản phẩm do công nghệ được chuyển giao tạo ra;

+ Các quyền khác liên quan đến công nghệ được chuyển giao.

Trường hợp công nghệ là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thì việc chuyển giao quyền sử dụng công nghệ phải được thực hiện cùng với việc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.

2. Chủ thể có quyền chuyển giao công nghệ bao gồm:

– Chủ sở hữu công nghệ có quyền chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng công nghệ.

– Tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu công nghệ cho phép chuyển giao quyền sử dụng công nghệ có quyền chuyển giao quyền sử dụng công nghệ đó.

– Tổ chức, cá nhân có công nghệ là đối tượng sở hữu công nghiệp nhưng đã hết thời hạn bảo hộ hoặc không được bảo hộ tại Việt Nam có quyền chuyển giao quyền sử dụng công nghệ đó.

3. Đối tượng của chuyển giao công nghệ:

a. Đối tượng công nghệ được chuyển giao:

– Bí quyết kỹ thuật (là thông tin được tích luỹ, khám phá trong quá trình nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh của chủ sở hữu công nghệ có ý nghĩa quyết định chất lượng, khả năng cạnh tranh của công nghệ, sản phẩm công nghệ);

– Kiến thức kỹ thuật về công nghệ được chuyển giao dưới dạng phương án công nghệ, quy trình công nghệ, giải pháp kỹ thuật, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật, chương trình máy tính, thông tin dữ liệu;

– Giải pháp hợp lý hoá sản xuất, đổi mới công nghệ.

Đối tượng công nghệ được chuyển giao có thể gắn hoặc không gắn với đối tượng sở hữu công nghiệp.

b. Đối tượng công nghệ được khuyến khích chuyển giao: là công nghệ cao, công nghệ tiên tiến đáp ứng một trong các yêu cầu sau đây:

– Tạo ra sản phẩm mới có tính cạnh tranh cao;

– Tạo ra ngành công nghiệp, dịch vụ mới;

– Tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu;

– Sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo;

– Bảo vệ sức khỏe con người;

– Phòng, chống thiên tai, dịch bệnh;

– Sản xuất sạch, thân thiện môi trường;

– Phát triển ngành, nghề truyền thống.;

4. Hình thức chuyển giao công nghệ bao gồm:

Hợp đồng chuyển giao công nghệ độc lập;

Phần chuyển giao công nghệ trong dự án hoặc hợp đồng sau đây:

– Dự án đầu tư;

– Hợp đồng nhượng quyền thương mại;

– Hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp;

– Hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị kèm theo chuyển giao công nghệ;

Hình thức chuyển giao công nghệ khác theo quy định của pháp luật.

5. Hợp đồng chuyển giao công nghệ:

a. Hình thức của hợp đồng chuyển giao công nghệ: là bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị tương đương văn bản, bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

b. Hợp đồng chuyển giao công nghệ bao gồm những nội dung chính sau đây:

– Tên hợp đồng chuyển giao công nghệ, trong đó ghi rõ tên công nghệ được chuyển giao;

– Đối tượng công nghệ được chuyển giao, sản phẩm do công nghệ tạo ra;

– Chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng công nghệ;

– Phương thức chuyển giao công nghệ;

– Quyền và nghĩa vụ của các bên;

– Giá, phương thức thanh toán;

– Thời điểm, thời hạn hiệu lực của hợp đồng;

– Khái niệm, thuật ngữ sử dụng trong hợp đồng (nếu có);

– Kế hoạch, tiến độ chuyển giao công nghệ, địa điểm thực hiện chuyển giao công nghệ;

– Trách nhiệm bảo hành công nghệ được chuyển giao;

– Phạt vi phạm hợp đồng;

– Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;

– Pháp luật được áp dụng để giải quyết tranh chấp;

– Cơ quan giải quyết tranh chấp;

– Các thoả thuận khác không trái với quy định của pháp luật Việt Nam.

c. Đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ

Các bên tham gia giao kết hợp đồng chuyển giao công nghệ có quyền đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ tại cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có thẩm quyền làm cơ sở để được hưởng các ưu đãi theo quy định của Luật Chuyển giao công nghệ các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Hồ sơ đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ bao gồm:

– Đơn đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ;

– Bản gốc hoặc bản sao hợp đồng chuyển giao công nghệ.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có thẩm quyền xem xét, quyết định cấp Giấy chứng nhận đăng ký Hợp đồng chuyển giao công nghệ.

Liên hệ tư vấn miễn phí: Hotline 036.385.4402 (Phòng Ứng dụng và chuyển giao công nghệ – COSTE)

COSTE – ĐỒNG HÀNH CÙNG HỢP TÁC XÃ

Địa chỉ: Tòa nhà NEDCEN, Số 149 Giảng Võ, Phường Cát Linh, Quận Đống Đa, Tp Hà Nội.
Điện thoại: 0243.8234.456 | Email: coste@vca.org.vn | Website: www.coste.org.vn

Nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ

Khoa học công nghệ là gì?

Theo Luật Khoa học Công nghệ năm 2013:

Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy.

Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.

Bởi đó, khi nhắc đến khoa học công nghệ là nhắc đến dây chuyền công nghệ, kỹ thuật sản xuất, quy trình sản xuất, bí quyết công nghệ, thiết bị công nghệ, nhân sự công nghệ cao… Ngày nay, khoa học công nghệ quyết định rất lớn đến sự thành công của mỗi doanh nghiệp, bởi khoa học công nghệ không chỉ tác động làm tăng năng suất, chất lượng, mẫu mã sản phẩm mà còn góp phần vào chuỗi cung ứng, công tác tiếp thị sản phẩm, chuỗi bán lẻ… Có thể nói khoa học công nghệ đã tác động vào tất cả các khâu, các mắt xích của chuỗi giá trị mọi sản phẩm có trên thị trường hiện nay.

Với 30 năm kinh nghiệm, Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường đã thực hiện hàng trăm dự án, nhiệm vụ, đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp bộ, ngành về nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ phù hợp cho thực tiễn sản xuất tại các HTX trên cả nước. Qua thời gian, các dự án đạt được những thành công nhất định, Trung tâm đã và đang khẳng định vị trí và vai trò nòng cốt trong hoạt động tư vấn, ứng dụng và chuyển giao công nghệ cho khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã.

Một số công nghệ Trung tâm đã nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao thành công cho các HTX:

– Công nghệ xử lý chất thải rắn chăn nuôi thành phân bón hữu cơ vi sinh bằng chế phẩm sinh học COSTE-TV05:

 Năm 2018, Trung tâm đã chuyển giao công nghệ xử lý chất thải rắn trong chăn nuôi bò sữa thành phân bón hữu cơ vi sinh bằng chế phẩm sinh học COSTE-TV05 cho HTX Mộc Bắc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Sử dụng chế phẩm trong chăn nuôi giúp hạn chế sinh khí gây mùi hôi thối, ức chế và tiêu diệt sự phát triển của hệ sinh vật có hại, phân giải nhanh chất thải chăn nuôi. Sau 45 ngày xử lý bằng chế phẩm, chất thải đạt tiêu chuẩn làm phân bón hữu cơ vi sinh, đáp ứng các yêu cầu về chất lượng phân bón hữu cơ vi sinh được lưu hành tại Việt Nam.

– Công nghệ bảo quản nông sản tươi bằng chế phẩm sinh học Chitosan-nano bạc CT01:

Trung tâm Khoa học công nghệ và Môi trường đã chuyển giao công nghệ bảo quản nông sản (bưởi, cam) bằng chế phẩm sinh học chitosan-nano bạc CT01 cho HTX Nông sản sạch Đông Lai, xã Đông Lai, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình. Chế phẩm sinh học chitosan-nano bạc CT01 giúp bảo quản quả có múi (bưởi, cam, quít) lâu hơn gấp 3 lần so với phương pháp bảo quản truyền thống. Tổn thất sau bảo quản dưới 12% sau 50 ngày. Công nghệ bảo quản trái cây bằng chế phẩm chitosan-nano bạc CT01 đã mở ra triển vọng mới trong bảo quản các sản phẩm quả dễ héo như vải, nhãn, mận, đào… phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Hình a. Chế phẩm chitosan-nano bạc CT01 Hình b. Hỗ trợ chuyển giao dây chuyền thiết bị phủ màng chitosan-nano bạc

– Công nghệ sản xuất chè ướp hương hoa:

Năm 2019, với mục đích đa dạng hóa, gia tăng giá trị sản phẩm, tạo ra các sản phẩm chè chất lượng cao, nâng cao hiệu quả sản xuất. Trung tâm đã chuyển giao quy trình sản xuất chè ướp hương hoa bằng công nghệ sấy lạnh cho HTX Tây Côn Lĩnh, xã Thượng Sơn, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Chè ướp hương bằng công nghệ sấy lạnh giúp giữ nguyên được phẩm chất chè ban đầu, không bị mất màu, biến chất, tiết kiệm thời gian sấy và mang hương đặc trưng của từng loại hoa trong từng sản phẩm.

– Công nghệ trồng dược liệu dưới tán cây công nghiệp:

Tận dụng diện tích đất dưới tán cây công nghiệp lâu năm, Trung tâm đã nghiên cứu và chuyển giao quy trình công nghệ trồng dược liệu đinh lăng dưới tán cây công nghiệp cho 2 HTX tại tỉnh Đồng Nai. Đề tài đã chứng minh hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của mô hình xen canh này rất tốt. Đặc biệt, công nghệ dễ dàng ứng dụng cho các HTX và đảm bảo môi trường tự nhiên.

– Công nghệ sấy nông sản bằng quang năng:

Năm 2020, qua kết quả thực hiện đề tài khoa học công nghệ, HTX Nông nghiệp Tân Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đã được Trung tâm hỗ trợ thiết bị và chuyển giao công nghệ sấy lúa bằng công nghệ quang năng. Công nghệ này giúp rút ngắn thời gian sấy xuống chỉ còn 12 giờ so với phơi tự nhiên (mất đến 24 giờ), mang lại hiệu quả thiết thực cho các thành viên, góp phần giảm chi phí sấy, nâng cao chất lượng sản phẩm cho HTX. So sánh với các công nghệ thiết bị sấy khác (sấy vỉ ngang, sấy tầng sôi, sấy tháp) công nghệ này đảm bảo chất lượng lúa xuất khẩu, giảm phát khí thải độc hại, đó là chưa kể các ích lợi khác do sử dụng năng lượng sạch – năng lượng mặt trời.

Liên hệ tư vấn miễn phí: Hotline 036.385.4402 (Phòng Ứng dụng và chuyển giao công nghệ – COSTE)

COSTE – ĐỒNG HÀNH CÙNG HỢP TÁC XÃ

Địa chỉ: Tòa nhà NEDCEN, Số 149 Giảng Võ, Phường Cát Linh, Quận Đống Đa, Tp Hà Nội.
Điện thoại: 0243.8234.456 | Email: coste@vca.org.vn | Website: www.coste.org.vn

HTX nhập cuộc thương mại điện tử xuyên biên giới

Đại dịch Covid-19 đã làm thay đổi hành vi mua sắm của người tiêu dùng từ trực tiếp sang trực tuyến. Việc các HTX đẩy mạnh bán hàng online hay thực hiện bán hàng thông qua các nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới sẽ giúp hoạt động xúc tiến thương mại tốt hơn và mở rộng đầu ra nông sản với các thị trường tiềm năng.

Thuong-mai-dien-tu-8502-1634714559.jpg

Khu vực HTX đang đẩy mạnh bán hàng online, thực hiện bán hàng thông qua các nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới (Ảnh: Int)

Tại hội nghị tổng kết Chương trình kết nối cung – cầu tiêu thụ nông sản cho HTX, THT (Chương trình 503) cho thấy, chỉ trong một thời gian ngắn, các đơn vị trực thuộc Liên minh HTX Việt Nam đã hỗ trợ, kết nối tiêu thụ được 15.047,97 tấn (rau, củ, quả, trái cây, thủy hải sản, hàng tiêu dùng cho các HTX. Đây chính là kết quả mà hệ thống Liên minh HTX Việt Nam làm được sau khi đẩy mạnh hình thức bán hàng trực tuyến. Từ đây, nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới cũng nhận được sự quan tâm của nhiều HTX.

Tăng doanh thu nhờ nhập cuộc sớm

HTX nông nghiệp sản xuất và thương mại Sáu Nhung (Kon Tum) thời gian gần đây đã nắm bắt được vai trò của việc bán hàng qua các trang thương mại điện tử như Shopee, voso, Lazada… Gần đây nhất, HTX đã đưa sản phẩm chế biến từ cà phê, trái cây lên sàn Alibaba.com để tiếp cận khách hàng trong và ngoài nước.

Ông Nguyễn Văn Sáu, Giám đốc HTX cho biết, điều thuận lợi khi đưa sản phẩm lên sàn Alibaba.com là trang thương mại điện tử này đã dịch sang tiếng Việt nên HTX dễ nắm bắt thông tin, không phải tốn thêm chi phí thuê người dịch.

Cũng là HTX mạnh dạn đưa nông sản lên sàn Alibaba.com, HTX Dịch vụ Tổng hợp Kiến Thuận (Yên Bái) nhận thấy đây là kênh bán hàng ưu việt, thích hợp cho các HTX.

Ông Đỗ Tuấn Lương, Phó Giám đốc HTX Kiên Thuận, cho biết trước đây, 70% doanh thu của HTX là bán ở trong nước, phần còn lại mới đến từ xuất khẩu. Tuy nhiên, sau khi gia nhập Alibaba.com, sàn thương mại điện tử này đã giúp doanh thu xuất khẩu của HTX tăng lên đến 80%.

Đến nay, HTX đã có lượng khách hàng tương đối ổn định trên sàn Alibaba. Trong thời gian tới, HTX sẽ đẩy mạnh bán hàng qua nền tảng thương mại điện tử này để gia tăng lượng hàng xuất khẩu cũng như giúp nâng cao thu nhập thành viên.

Có thể thấy, bán hàng qua trang thương mại điện tử xuyên biên giới đang nhận được sự quan tâm của các HTX. Theo các chuyên gia, không chỉ các doanh nghiệp mà các HTX vẫn đang tìm đến sàn trực tuyến xuyên biên giới Alibaba. Nhất là HTX chuyên sản xuất và xuất các mặt hàng như thủ công mỹ nghệ, nông lâm thủy hải sản, may mặc và dệt may, nông sản…

Bán hàng qua các trang thương mại điện tử xuyên biên giới, giúp các HTX mở rộng thị trường nhanh chóng, từ đó nâng cao giá trị sản phẩm và lợi nhuận. Đặc biệt hiện nay, Liên minh HTX Việt Nam đang đẩy mạnh hỗ trợ phát triển các HTX theo chuỗi giá trị hàng hóa. Trong năm 2020, đã có 200 chuỗi giá trị hàng hóa được hỗ trợ xây dựng. Đây là nền tảng vững chắc giúp các HTX này đưa sản phẩm lên các sàn thương mại điện tử xuyên biên giới.

Theo Hiệp Hội Thương mại điện tử Việt Nam, có đến gần 50% doanh nghiệp hiện nay sẵn sàng mua hàng thông qua các trang thương mại điện tử xuyên quốc gia. Đặc biệt, đến nay, chỉ có 22% doanh nghiệp thực sự bán hàng và chỉ có 8% doanh nghiệp thực sự đầu tư bán hàng tại đây. Số còn lại chỉ tham gia mở gian hàng.

Điều này cho thấy, nếu biết cách nắm bắt, bán hàng qua các trang thương mại điện tử xuyên quốc gia chính là cơ hội tiềm năng cho các HTX. Và thị trường bán hàng thông qua các trang thương mại xuyên biên giới vẫn còn nhiều dư địa cho các HTX.

Hiện nay, để hỗ trợ các HTX, Liên minh HTX Việt Nam đã xây dựng gian bán hàng trên Alibaba.com. Gian bán hàng này đã bắt đầu đi vào hoạt động từ đầu tháng 10. Các sản phẩm trên gian hàng đa dạng từ hàng thủ công mỹ nghệ đến sản phẩm tươi là các đặc sản của địa phương do các HTX sản xuất.

Tuy nhiên, để bán hàng thành công trên các trang thương mại điện tử không hề dễ dàng vì đây là vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu và đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao.

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo, cho biết thông qua khảo sát HTX chuyển đổi số của Liên minh HTX Việt Nam cho thấy điều kiện cơ bản để tham gia các sàn thương mại điện tử xuyên biên giới là cán bộ, thành viên HTX phải sử dụng được các công cụ thông minh. Mô hình kinh doanh phải ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo chuỗi để vượt qua các hàng rào kỹ thuật của các đối tác trên thế giới và đặc biệt là có thể đáp ứng số lượng nông sản lớn mỗi lần xuất khẩu. HTX cũng cần phải đầu tư cho logistics để bảo đảm giá trị sản phẩm, đáp ứng nhu cầu mua hàng hóa của khách hàng. Bên cạnh đó, HTX cần phải có hạ tầng công nghệ thông tin, có trụ sở làm việc đầy đủ.

“Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có số ít HTX đáp ứng được những yêu cầu này”, Chủ tịch Nguyễn Ngọc Bảo cho biết.

Ông Nguyễn Công Thừa, Chủ tịch HĐQT HTX Anh Đào (Lâm Đồng) cho biết, các HTX sản xuất quy mô lớn nhỏ, không theo quy trình, thu hoạch theo mùa vụ nên khó làm việc với doanh nghiệp. Đây cũng là rào cản khi tham gia bán hàng trên các trang thương mại điện tử xuyên biên giới.

Gỡ rào cản, tăng cơ hội

Theo các chuyên gia, xuất khẩu nông sản qua kênh thương mại điện tử có nhiều lợi thế như tăng hiệu quả tiếp cận, tăng khả năng marketing đến khách hàng, giảm thời gian chuyển hàng và đặc biệt lợi nhuận có thể tăng gấp ba lần nếu so với xuất khẩu theo cách truyền thống. Tuy nhiên, cơ hội bao giờ cũng đi kèm thách thức.

Đó là những khó khăn trong vận chuyển hàng hoá, bảo quản hàng hoá, khâu thông quan hàng hóa, hiểu biết về thủ tục xuất nhập khẩu… Đây chính là những vấn đề mà các HTX cần phải tìm hiểu, nắm bắt, thực hành thành thạo.

Và để làm được điều này, đòi hỏi HTX phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, am hiểu về xuất nhập khẩu và công nghệ thông tin. Tuy nhiên đây cũng chính là khó khăn của các HTX hiện nay khi phần lớn cán bộ HTX trên 50 tuổi, ít tiếp xúc với công nghệ thông tin.

Để tận dụng lợi thế về bán hàng trên các trang thương mại điện tử, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng, trước mắt, cần tập trung vào làm việc với các địa phương xem các HTX đáp ứng được các yêu cầu về nhân lực, công nghệ thông tin, khả năng về chất lượng và số lượng hàng hóa, Liên minh HTX Việt Nam sẽ hỗ trợ đào tạo các HTX này một cách chuyên nghiệp, sau đó sẽ từng bước nhân rộng trên cả nước.

Ông Trường Sơn, Phó Tổng Giám đốc Saigon co.op, cho biết bán hàng trên Alibaba sẽ tạo sự đột phá cho HTX trong thời gian tới. Tuy nhiên ở đây mang tầm cỡ toàn cầu, chuyên nghiệp HTX cần có chiến lược rõ ràng (hiểu văn hóa các nước đối tác), có dữ liệu được số hóa (hình ảnh, tài liệu, video giới thiệu sản phẩm..), và có giải pháp tiếp cận khách hàng cụ thể.

Bên cạnh đó, HTX cần đăng ký nhãn hiệu, bao bì sản phẩm cần đầu tư bắt mắt đầy đủ thông tin. Có web site để người tiêu dùng thế giới có thể tìm hiểu thêm về HTX, sản phẩm.

Để hạn chế tính nhỏ lẻ, theo ông Hải, cần kết nối các HTX để trở thành các nhóm cùng kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, từ đó đáp ứng được nhu cầu của các đối tác trong và ngoài nước.

Huyền Trang