LTS: Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan có bài phát biểu quan trọng tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII diễn ra từ 4-7/10/2021. Báo Nông nghiệp Việt Nam trân trọng giới thiệu tới độc giả. Tựa trong bài do tòa soạn đặt.
Bối cảnh vô cùng khó khăn do đại dịch Covid-19 khiến kinh tế đất nước rơi vào giai đoạn khủng hoảng nhất trong nhiều năm, dù đã được dự báo phần nào từ những diễn biến phức tạp, khó lường của dịch bệnh toàn cầu. Có thể nhận định rằng, ngay từ năm đầu tiên của nhiệm kỳ mới, khó khăn nhiều hơn thuận lợi, thách thức nhiều hơn cơ hội, tác động sâu rộng không chỉ trong ngắn hạn, mà kéo dài qua trung hạn, thậm chí đến dài hạn.
Song, luôn còn đấy tín hiệu lạc quan, tích cực đến từ điểm tựa niềm tin của doanh nghiệp và người dân về sự phục hồi kinh tế sau đại dịch trong điều kiện bình thường mới: “kinh tế vĩ mô vẫn ổn định, lạm phát ở mức thấp, các cân đối lớn được bảo đảm”. Mục tiêu kép, dù không dễ thực hiện, không dễ cân bằng các giải pháp, nhưng không còn sự lựa chọn nào khác. Với sự chỉ đạo sát sao của Đảng, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, sự đồng hành của Quốc hội, sự chia sẻ, thấu hiểu từ cộng đồng doanh nghiệp và người dân, dịch bệnh dần được kiểm soát, sản xuất, kinh doanh từng bước khôi phục, đời sống xã hội bắt nhịp bình thường mới.
Trước nhiều thách thức, ngành Nông nghiệp tiếp tục là “trụ đỡ” của nền kinh tế. Luỹ kế 9 tháng đầu năm 2021, tốc độ tăng trưởng đạt 2,74%. Riêng trong quý ba, mặc dù dịch bệnh diễn ra trên diện rộng ở 19 tỉnh, thành phía Nam, giá trị gia tăng của ngành vẫn tăng 1,04%, so với quý ba năm 2020. Lương thực, thực phẩm vẫn đảm bảo nguồn cung và góp phần vào an sinh xã hội ở các đô thị lớn trong điều kiện giãn cách xã hội. Kim ngạch xuất khẩu nông – lâm – thuỷ sản đạt trên 35,5 tỷ đô la Mỹ, tăng 17,7% so với cùng kỳ, và dự báo có thể đạt và vượt mục tiêu cả năm. Khi các đô thị lớn thực hiện giãn cách xã hội, nhiều lực lượng lao động cùng lúc trở về quê, nhất thời tạo ra áp lực dịch chuyển, bảo đảm san sinh lớn, nhưng đồng thời, cũng cho thấy vai trò hậu phương quan trọng của nông thôn.
Tuy nhiên, cũng như các ngành, lĩnh vực khác, ngành Nông nghiệp cũng đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn, khó tránh khỏi, từ các vấn đề nội tại lẫn các yếu tố khách quan: biến đổi khí hậu, biến động thị trường và biến chuyển xu thế tiêu dùng của thế giới. Giá vật tư, nguyên liệu đầu vào, chi phí logistics tăng mạnh, khiến lợi nhuận của nông dân và doanh nghiệp không tương xứng với giá trị tăng trưởng của ngành.
Thực tế cho thấy, nền nông nghiệp vẫn phụ thuộc nhiều vào nước ngoài, tính tự chủ chưa cao, năng lực, trình độ của doanh nghiệp trong nước, hợp tác xã nông nghiệp chưa theo kịp ưu thế, tìm lực của các nhà đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài.
Việc đứt gãy chuỗi cung ứng khiến giá cả sụt giảm do đầu cầu bị thu hẹp. Trước những quy định mới của các thị trường nhập khẩu, nông sản trong nước cần thời gian để điều chỉnh, thích ứng. Thị trường rộng mở, nhờ các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới, nhưng vẫn còn đấy những rào cản kỹ thuật lẫn phi kỹ thuật.
Để ngành Nông nghiệp tiếp tục đảm trách vai trò trụ đỡ bền vững, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030 đang được dự thảo và lấy ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước và sẽ trình trong cuối quý tư năm 2021. Chiến lược này sẽ hiện thực hoá các quan điểm chỉ đạo và định hướng của Đại hội XIII của Đảng. Đó là, Chiến lược nhấn mạnh đến đổi mới mô hình tăng trưởng trong nông nghiệp dựa trên động lực “Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”. Đó là, Chiến lược hướng đến mục tiêu cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới. Đó là, Chiến lược xoay quanh ba trụ cột: “Nông nghiệp sinh thái”, “Nông thôn hiện đại”, “Nông dân thông minh”.
Chiến lược cũng tiếp tục đưa ba đột phá chiến lược từ Nghị quyết Đại hội XII và được bổ sung trong Nghị quyết Đại hội XIII về: (1) Thể chế: Tập trung “Tháo gỡ thể chế – Khơi thông nguồn lực” như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Tăng cường hợp tác công tư trong tổng thể phát triển gắn kết, hài hoà “Nhà nước – Thị trường – Xã hội”; (2) Nguồn nhân lực trong nông nghiệp, trong đó có lực lượng nông dân, hướng đến nông dân thông minh, chuyên nghiệp, được huấn luyện nghề nông và cả ngành nghề phi nông nghiệp; (3) Hạ tầng: Phát triển hệ thống hạ tầng phục vụ chuyển đổi nông nghiệp, kinh tế nông thôn, vừa hạn chế đứt gãy chuỗi cung ứng, vừa hạn chế tình trạng tổn thất sau thu hoạch.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư dựa trên trí tuệ nhân tạo, kết nối vạn vật và dữ liệu lớn, chứng kiến người máy, dây chuyền tự động hoá thay thế con người làm trong rất nhiều lĩnh vực. Khi ấy, đã có nhiều dự báo về sự thay đổi ngành nghề trong tương lai, nghề nào sẽ biến mất, nghề nào tồn tại, nghề nào mới ra đời.
Trong đại dịch Covid-19, theo một luận điểm thì: “Khi mọi người tranh luận xem ngành nào là thiết yếu và không thiết yếu, thì có một điều không cần phải tranh cải: Nông nghiệp. Bởi lẽ, Nông nghiệp đạt đủ các chuẩn mực của một ngành thiết yếu. Không có thức ăn chúng ta không có gì cả”.
“Tình trạng thiếu hụt lương thực, thực phẩm, nhất là sản phẩm tươi sống khuyến khích nhiều người quan tâm tham gia vào nghề nông, vào lĩnh vực nông nghiệp”. Bên cạnh những khó khăn gây ra tình trạng đứt gãy tạm thời chuỗi cung ứng nông sản do ảnh hưởng của dịch bệnh mở ra cơ hội cho việc cân nhắc, xem xét cơ chế hợp tác công – tư trong đầu tư, quản lý, vận hành, khai thác hạ tầng phục vụ nông nghiệp như: hạ tầng logistics, trung tâm phân loại, bảo quản nông sản, cảng cá, sàn giao dịch nông sản,…
Sự tham gia, phối hợp giữa nhà nước và tư nhân có thể giúp tối ưu hoá nguồn lực, hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ khó khăn, nâng cao năng lực thích ứng linh hoạt trong các điều kiện, tình huống khác nhau. Cùng với đó, có thể từng bước thực hiện thí điểm mô hình cụm liên kết ngành hàng nông sản, để không chia tách nông nghiệp, công nghiệp và du lịch thành 3 lĩnh vực riêng lẻ, mà tạo thành các mảnh ghép chặt chẽ, hài hoà trên từng không gian sản xuất, không gian sinh hoạt cộng đồng dân cư nông thôn.
Tín hiệu đáng mừng là các đối tác quốc tế bày tỏ sự sẵn lòng đồng hành với ngành nông nghiệp trong việc nâng cao năng lực quản trị, dịch vụ, hạ tầng, các khâu hậu cần, logistics ở cấp độ nhỏ tại các hợp tác xã, liên hợp tác xã, như Vương quốc Bỉ đang hỗ trợ những kho bảo quản, sơ chế… tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tại buổi làm việc gần đây với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Đại sứ, Trưởng Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam, cũng bày tỏ thiện ý sẵn sàng cung cấp những hỗ trợ kĩ thuật, như chuỗi kho bảo quản lạnh cho nông sản Việt Nam để hướng đến thị trường châu Âu đang rộng mở nhờ Hiệp định EVFTA.
Đây cũng là tiền đề khuyến khích liên kết vùng, mở ra không gian kinh tế vùng, với sự tham gia tích cực và vai trò năng động của cộng đồng doanh nghiệp. Các địa phương tương đồng về điều kiện, đặc điểm, ngành hàng có thể liên kết liên địa giới hành chính, trong không gian kết nối kinh tế mở như một thực thể kinh tế hoàn chỉnh thay vì bó hẹp trong không gian hành chính từng địa phương. Không gian phát triển càng lớn quy mô kinh tế càng lớn và khi ấy chúng ta sẽ nghĩ lớn hơn và hành động mạnh mẽ hơn. Cùng với vai trò kiến tạo nền tảng, không gian phát triển của chính quyền các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp đảm trách vai trò đề xuất, đóng góp chính sách, tư vấn kinh tế, kết nối thị trường, dẫn dắt xu hướng phát triển, lan toả sự thay đổi, giá trị tích cực đến người dân và cộng đồng.
Nhiều dự báo, sau đại dịch, sẽ xuất hiện việc “Gia tăng sự quan tâm dành cho an ninh lương thực, an ninh dinh dưỡng”. Đây là cơ hội cho một quốc gia có tiềm năng phát triển nông nghiệp như Việt Nam. Nghị quyết Đại hội XIII xác định tầm nhìn: “đến năm 2025, Việt Nam là nước đang phát triển có nền công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 là nước đang phát triển có nền công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.
Với tầm nhìn như vậy, chúng ta cần tiếp cận khái niệm an ninh lương thực theo hướng “An ninh lương thực, thực phẩm và cân bằng dinh dưỡng”. Đây là vấn đề đã được Bộ Chính trị khẳng định trong Kết luận 81-KL/TƯ, phù hợp với quá trình chuyển đổi cây trồng vật nuôi thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan và giữ gìn hệ sinh thái bền vững. Trong đó, cần bảo đảm khả năng và quyền tiếp cận của người dân đối với lương thực, thực phẩm an toàn, chất lượng, bảo đảm dinh dưỡng.
Gợi mở từ “Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050” vừa được Chính phủ ban hành, ngành Nông nghiệp xác định yêu cầu chuyển đổi từ “tư duy sản xuất” sang “tư duy kinh tế”, hướng tới những “giá trị xanh” được tạo nên từ “chuyển đổi xanh, tiêu dùng xanh, kinh tế xanh”. Song song với mục tiêu duy trì, cải thiện năng suất, sản lượng, nền nông nghiệp cần phát triển tích hợp “đa giá trị”.
Tích hợp đa giá trị là tạo ra giá trị gia tăng tối ưu trên một đơn vị diện tích canh tác, trong điều kiện đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp diện tích và chịu tác động từ biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh. Tích hợp đa giá trị là tạo ra giá trị tăng thêm dựa trên khai thác hiệu quả các nguồn lực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, thay cho thực trạng ngành nông nghiệp tăng trưởng dựa trên thâm dụng lao động, thâm dụng tài nguyên thiên nhiên. Tích hợp đa giá trị là kết tinh tài nguyên bản địa, với các kỹ thuật, công nghệ chế biến tiên tiến, và cả những bản sắc văn hoá – xã hội, tạo thành thương hiệu cho sản phẩm nông nghiệp, nông thôn. Tích hợp đa giá trị là kết nối hài hoà nông nghiệp truyền thống với các mô hình nông nghiệp hữu cơ, thông minh, tuần hoàn,…
Với cách thức tiếp cận “đa giá trị”, các công trình hạ tầng, các đề án, kế hoạch phục vụ, hỗ trợ phát triển nông nghiệp, hay mở rộng ra đến tất cả các vấn đề của ngành nông nghiệp, đều có thể được quan sát, nhìn nhận trong tổng thể của sự kết nối, của tính đa công dụng, đa chức năng, đa mục tiêu.
Ví dụ như ở ngành lâm nghiệp, một khu rừng không chỉ có giá trị từ ngành khai thác, chế biến gỗ, mà còn được xem là một nguồn lực thiên nhiên, với tính “đa dụng” của nó. Cùng với giá trị từ cây gỗ thô, rừng còn là không gian bảo tồn các động vật hoang dã, những loài thảo mộc tự nhiên, dược liệu có giá trị dinh dưỡng cao, là nơi trải nghiệm cảnh quang thiên nhiên, là nơi gìn giữ tính đa dạng sinh học, hấp thụ khí carbon, giúp cân bằng hệ sinh thái.
Những giá trị gần như vô hình đó tạo ra không gian sống hài hoà, thân thiện giữa con người với thiên nhiên. Phải chăng đấy mới chính là ý nghĩa của khái niệm “rừng vàng” được gửi gắm với nhiều hàm nghĩa sâu sắc?
Quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong nông nghiệp còn đặt ra yêu cầu nhất định về khả năng tiếp cận, trình độ ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Khoa học, kỹ thuật có ý nghĩa quan trọng trong nông nghiệp, nhưng chưa phải tất cả. Khi chưa thể ứng dụng được ngay những thành tựu tiên tiến nhất, chúng ta vẫn có thể nhìn nhận những điều đang có theo một cách nhìn mới, góc độ mới. Người đi sau luôn có lợi thế của người đi sau. Đó là rút ra những bài học để tận dụng thời gian, thu gần khoảng cách. Đó là tận dụng tối đa nguồn lực hiện hữu, để mang đến những giá trị mới cho những điều vốn tưởng chừng không có nhiều giá trị – những điều sẵn có trong tự nhiên, gần gũi với sinh hoạt ngày thường, thân thiện với môi trường. Từ đấy, những phụ phẩm nông nghiệp không còn bị lãng phí, mà được làm mới giá trị, trở thành một sản phẩm hiện diện trong vòng kinh tế nông nghiệp tuần hoàn.
Một trong những nguồn lực quan trọng đóng góp vào quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong nông nghiệp nằm ở các mô hình kinh tế hợp tác, các hợp tác xã nông nghiệp. Nhiều nền nông nghiệp phát triển là đều quan tâm, đầu tư vào hợp tác xã nông nghiệp. Có ý kiến khẳng định rằng: “Hợp tác xã, hợp tác xã, hợp tác xã, hay không là gì cả!”. Sức mạnh của “mua chung, bán chung” giúp tối ưu hoá chi phí đầu vào, giảm thiểu thất thoát, lãng phí, chia sẻ rủi ro mùa vụ,… Nhân Hội nghị này, tôi đề nghị các đồng chí lãnh đạo địa phương thật sự quan tâm đến Hợp tác xã, một thiết chế kinh tế – xã hội nông thôn. Khi nói về Hợp tác xã, Bác Hồ đã đúc kết: “Nhóm lại thành giàu, chia ra thành khó”.
Nếu tất cả trông chờ vào nguồn vốn hữu hạn của Nhà nước thì sẽ không bao giờ đáp ứng đủ cho nhu cầu vô hạn của xã hội. Huy động vốn từ cộng đồng, hợp tác xã, doanh nghiệp đối tác sẽ là một giải pháp cơ bản, bền vững trong nền kinh tế thị trường mà cả thế giới đã làm trăm năm nay thay vì chỉ trông cậy vào sự hỗ trợ từ Nhà nước.
Vấn đề cần quan tâm là những chương trình, chính sách hỗ trợ phù hợp, giúp nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động của các mô hình kinh tế hợp tác, của các hợp tác xã nông nghiệp. Theo đấy, hợp tác xã, nông dân – thành viên hợp tác xã được trang bị đầy đủ kiến thức lập phương án sản xuất kinh doanh, mang tính khả thi, xây dựng bảng cân đối tài chính minh bạch, thuyết phục được người tham gia góp vốn và thu về lợi nhuận, lợi ích.
Để đạt được những mục tiêu đề ra, bên cạnh sự vào cuộc tích cực, chủ động của toàn Ngành, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn luôn cần đến sự định hướng, lãnh đạo của Đảng, của Chính phủ, sự đồng hành, ủng hộ của các bộ, ban ngành, địa phương. Để không chỉ là “trụ đỡ” của nền kinh tế khi đất nước ở vào thời điểm khó khăn, ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quyết hướng đến khát vọng vươn tầm, đủ sức trở thành “thước đo mức độ bền vững của quốc gia”.