Hợp tác xã miền núi chuyển đổi số, thích ứng với thị trường

Những năm qua, các HTX trên địa bàn tỉnh Yên Bái đã có những đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động ở địa phương. Các HTX này hiện đang tích cực ứng dụng công nghệ hiện đại, chuyển đổi số trong phát triển sản xuất, nhằm thích ứng với thị trường và kinh doanh bền vững.

HTX Suối Giàng, huyện Văn Chấn (Yên Bái) nằm ở địa bàn vùng cao nhưng rất tích cực ứng dụng công nghệ hiện đại vào quy trình trồng, chăm sóc, sản xuất, tiêu thụ và quảng bá sản phẩm chè Shan tuyết đặc sản. Thông qua các chương trình, dự án của ngành nông nghiệp và liên minh HTX, đơn vị này đã thực hiện chuyển đổi số, truy suất nguồn gốc đến tận từng gốc chè.

Bà Lâm Thị Kim Thoa, Giám đốc HTX chia sẻ, những năm gần đây, đơn vị đã mạnh dạn tham gia các diễn đàn, hội nghị khoa học để tiếp cận với thị trường thương mại điện tử.

“Chúng tôi cố gắng, nỗ lực tự học hỏi và tham gia các chương trình hỗ trợ tập huấn của Sở Thông tin và truyền thông, Liên minh HTX hoặc các cơ quan tại huyện. Đấy là những bước đầu giúp cho chúng tôi có niềm tin, tự tin hơn để đưa các sản phẩm của mình lên sàn thương mại điện tử. Chúng tôi cũng đang thu hút các bạn có đào tạo chuyên môn cao hơn nữa về công nghệ thông tin về làm việc tại HTX” – bà Lâm Thị Kim Thoa nói.

Tại HTX Thái Sơn, huyện Lục Yên, từ dây chuyển sản xuất được đầu tư hiện đại, đơn vị này đã cho ra những sản phẩm chế biến sâu là dầu lạc, dầu đậu tương, được cấp chứng nhận OCOP với tem mã truy suất nguồn gốc, thuận tiện cho người tiêu dùng. Đơn vị này cũng tiên phong ở địa phương trong việc tham gia các hội nghị, hội chợ quảng bá sản phẩm và đưa các sản phẩm lên sàn thương mại điện tử. Ngoài kênh bán hàng trực tiếp thì bán hàng trực tuyến cũng phát huy hiệu quả cao, nâng doanh thu cho HTX.

Chị Tăng Thị Thắm Hồng, Giám đốc HTX cho biết: “Để quảng bá cho các sản phẩm thì HTX cũng có các kênh sàn thương mạng, zalo, facebook, shopee. HTX cũng liên kết với bên VOSO, Postmart để lên sàn của hai đơn vị này”.

Ông Đỗ Tuấn Lương, Giám đốc HTX chè Shan tuyết Phình Hồ, huyện Trạm Tấu chia sẻ: Số hóa các công đoạn và đẩy mạnh kinh doanh trên các sàn thương mại điện tử là cơ hội để sản phẩm của các HTX vượt ra khỏi phạm vi khu vực, mở rộng ra cả nước và vươn ra thị trường thế giới.

“Sử dụng phần mềm nội bộ chúng tôi quản lí hệ thống nhân viên, doanh thu, chất lượng đầu vào của trà búp tươi. Kèm theo đấy chúng tôi áp dụng thương mại điện tử cũng như mạng xã hội để quảng bá hình ảnh, thương hiệu Trà shan tuyết Phình Hồ đến với mọi miền tổ quốc” – ông Đỗ Tuấn Lương chia sẻ.

Dù đã có sự chủ động, song việc chuyển đổi số ở các HTX miền núi vẫn còn không ít khó khăn, như: quyết tâm của cán bộ lãnh đạo một số HTX chưa cao; trình độ, kỹ năng về công nghệ của thành viên, người lao động còn hạn chế, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin chưa đồng bộ, nhất là với các HTX ở địa bàn vùng cao.

Ông Đỗ Nhân Đạo, Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Yên Bái cho biết: Để thực hiện chuyển đổi số và tăng cường ứng dụng các giải pháp công nghệ vào thực tiễn sản xuất, Liên minh HTX tỉnh đã và đang đẩy mạnh tuyên truyền về vai trò, ý nghĩa của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh của các HTX. Các đơn vị cung cấp các giải pháp về nền tảng số, dịch vụ thương mại điện tử cũng tích cực vào cuộc để đẩy mạnh kết nối giữa doanh nghiệp, HTX với người tiêu dùng.

“Bên cạnh đó tích động viên các HTX đầu tư các trang thiết bị đủ điều kiện sử dụng công nghệ số. Chúng tôi còn thực hiện tốt các chính sách, cơ chế của tỉnh, của ngành để hỗ trợ cho các HTX, ví dụ chương trình phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có phần hỗ trợ công tác đào tạo, tập huấn, hỗ trợ về trang thiết bị thì hiện nay Liên minh HTX tỉnh đã thực hiện” – ông Đỗ Nhân Đạo nói.

Xác định chuyển đổi số là một cuộc cách mạng về chính sách, thể chế và công nghệ, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, tỉnh Yên Bái đã ban hành nghị quyết về Chuyển đổi số tỉnh Yên Bái giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Đối với khu vực kinh tế tập thể – nơi có trên 700 HTX thu hút hơn 32 nghìn thành viên thì thực hiện chuyển đổi số, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin được xác định là một nhu cầu bức thiết.

Ông Lê Tuấn An, Viện trưởng Viện Khoa học công nghệ và môi trường, Liên minh HTX Việt Nam nhận định: “HTX thì gần các trung tâm văn hóa, điều kiện về cơ sở hạ tầng, đường sá, điều kiện về hạ tầng công nghệ thông tin tốt hơn, các thành viên HTX có thể đến HTX tập trung tại đây để có thể học tập, tập huấn và triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin”.

Sự chuyển mình trong chuyển đổi số đã, đang giúp các HTX ở tỉnh miền núi Yên Bái sản xuất, kinh doanh một cách linh hoạt, hiệu quả, tiết giảm chi phí, tối ưu nguồn lực. Từ đây, thu nhập của thành viên và người lao động ngày càng nâng cao, góp phần vào công cuộc giảm nghèo bền vững ở khu vực nông thôn, miền núi.

Để HTX trở thành những nhà bán hàng hiện đại trên sàn thương mại điện tử

Tại chương trình Chuyển đổi số quốc gia, Chính phủ đã đề ra mỗi nông dân sẽ là một thương nhân và mỗi HTX là một doanh nghiệp ứng dụng công nghệ số. Chính vì vậy, nông dân, HTX cần được đào tạo, hỗ trợ để trở thành những nhà bán hàng thương mại điện tử thực thụ thay vì chỉ đưa nông sản lên sàn một cách thông thường như hiện nay.

Việc đưa hàng, bán hàng lên các sàn thương mại điện tử, trang mạng đã được nhiều HTX quan tâm và thực hiện. Tuy nhiên, không phải HTX nào cũng thu được hiệu quả như mong đợi bởi muốn bán được hàng thông qua hình thức online, HTX còn cần nhiều yếu tố.

Thiếu tương tác, nhiều rủi ro

HTX dịch vụ nông nghiệp và thương mại Yên Lạc (Thanh Hóa) đã thực hiện bán hàng online nhưng theo các thành viên, lượng hàng bán qua hình thức này vẫn còn khiêm tốn. Nhiều bài và nhiều sàn thương mại, trang mạng, được HTX ứng dụng bán hàng nhưng tương tác rất ít.

Ông Nghiêm Xuân Dưng, Giám đốc HTX Nông nghiệp hữu cơ, dịch vụ Hòa Phát (Đắk Nông), cho biết sầu riêng của HTX sản xuất nếu đưa lên sàn thương mại điện tử gặp khó khăn là phải tiêu thụ ngay. Nếu hàng bị tồn kho sẽ hỏng, không bảo đảm chất lượng. Trong khi HTX chưa đầu tư được công nghệ cấp đông, chế biến, chưa liên kết được với doanh nghiệp nên bán hàng online đối với HTX mới chỉ dừng lại là một kênh trưng bày, giới thiệu, quảng bá sản phẩm, phục vụ khách tìm hiểu về sản phẩm cũng như so sánh giá cả.

Dù đã tiếp cận với bán hàng online nhưng tỷ lệ hàng hóa bán theo hình thức này của các HTX vẫn chưa cao. Điều này được các chuyên gia lý giải là vì mối liên kết giữa HTX với các sàn thương mại điện tử vẫn chưa chặt chẽ. Đặc biệt, khi đưa hàng lên các sàn thương mại điện tử, HTX cũng chịu sự phụ thuộc nhất định vào đơn vị lưu trữ hàng hóa, làm sao bảo đảm mức chiết khấu phù hợp cho người mua.

Cần hỗ trợ HTX để họ trở thành những nhà bán hàng thực thụ trên các nền tảng thương mại điện tử.

Thạc sỹ Nguyễn Phi Hiệp, Liên hiệp HTX Kinh tế số Việt Nam cho biết nhiều HTX rất muốn bán hàng hiệu quả trên sàn thương mại điện tử nhưng họ lại ít kiến thức về công nghệ. Nhiều người muốn được nâng cao kỹ năng từ cách chụp ảnh, bán hàng, tương tác với khách hàng… nhưng không biết học từ đâu. Đó là lý do dẫn tới phần lớn nông sản vẫn tiêu thụ theo cách truyền thống.

Đặc biệt, các sàn thương mại điện tử là bên trung gian kết nối HTX với khách hàng. Do đó, khi HTX bán hàng trên các trang thương mại điện tử thì cũng đồng nghĩa với việc HTX phải lệ thuộc vào các sàn, đặc biệt là công nghệ, trong khi đây vẫn đang là yếu thế của không ít HTX. Nhất là khi các sàn tổ chức các chương trình sale lớn, lượng khách truy cập ồ ạt khiến các trang thương mại điện tử bị sập, bị lỗi… Việc này có thể khiến người mua không vào gian hàng của HTX dẫn đến hiệu quả bán hàng thấp.

Dù thương mại điện tử ở Việt Nam được đánh giá là có nhiều tiềm năng nhưng thực tế hiện nay cho thấy, nông sản được bán trên sàn thương mại điện tử có phần đang chững lại.

Đặc biệt do sự cạnh tranh gay gắt giữa các sàn thương mại điện tử với các chính sách chặt chẽ, pháp lý phức tạp nên dù bán hàng trên các sàn là xu hướng không thể bỏ qua trong thời đại 4.0 nhưng cũng là những điều không hề dễ dàng với các HTX.

Thống kê trong năm 2023 cho thấy, đã có tới hơn 105.000 nhà bán hàng trên 4 sàn Shopee, Lazada, Tiki, Sendo rời khỏi thị trường, trong đó có không ít nhà bán hàng là các HTX.

Bán hàng theo hướng hiện đại

Khảo sát của Ngân hàng Thế giới, cho thấy 60% nông dân, HTX Việt Nam sẵn sàng chi tiền cho các dịch vụ tư vấn và thông tin dự báo. Điều này cho thấy, tinh thần học hỏi, nâng cao kỹ năng chuyển đổi số luôn sẵn sàng trong các HTX. Nếu được tiếp cận các cơ sở đào tạo, tập huấn và nếu được kết nối với các sàn thương mại, các nền tảng xã hội, HTX sẽ nâng cao được năng lực, giải quyết được những khúc mắc trong bán hàng online.

TS. Nguyễn Đức Tùng, Tổng thư ký Hiệp hội Nông nghiệp số Việt Nam, cho rằng nông dân, HTX vẫn còn hạn chế trong việc tiếp cận các công cụ và dịch vụ hỗ trợ để đầu tư vào bán hàng trên các nền tảng thương mại điện tử. Ngay như về con người, nhiều HTX đang gặp nhiều hạn chế trong việc tuyển dụng nhân sự với các kỹ năng chuyển đổi số, bán hàng thông thạo bằng công nghệ và giữ chân các nhân sự trong thời gian dài.

Ngoài ra, nông dân còn hạn chế về năng lực sử dụng công nghệ, áp dụng các chính sách của sàn thương mại trong bán hàng. Chính vì vậy cần có nhiều chính sách hấp dẫn hơn nữa để HTX đẩy mạnh bán hàng, kinh doanh trên các nền tảng thương mại điện tử.

Ông Trần Minh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Kinh tế số và Xã hội số (Bộ Thông tin và Truyền thông), cho rằng công nghệ thông tin luôn phát triển, chính vì vậy, nông dân, HTX muốn kinh doanh hiệu quả trên các nền tảng thương mại điện tử thì cần giúp họ chủ động trong vận hành các gian hàng trên các sàn thương mại. Và một trong những giải pháp thiết thực là tận dụng hệ thống đoàn viên, thanh niên trong việc hỗ trợ HTX, nông dân tiếp cận với các nền tảng thương mại, công nghệ.

Tuy nhiên, thay vì tiếp cận các nền tảng thương mại theo hướng truyền thống đó là đưa sản phẩm lên sàn, tạo gian hàng và chờ đợi khách hàng mua thì các chuyên gia cho rằng cần tiếp cận các sàn bằng hình thức hiện đại, hợp xu thế hơn đó là tối ưu hóa sự tương tác giữa HTX và người tiêu dùng bằng cách tận dụng sự hiểu biết của những người có kiến thức về nền tảng số, có tầm ảnh hưởng trên mạng xã hội.

Ngoài ra, để tăng sự tương tác trên nền tảng thương mại điện tử, việc đào tạo nông dân, thành viên HTX về cách tiếp cận khách hàng sẽ thúc đẩy nông sản đến gần hơn với người tiêu dùng.

Như tại Đài Loan (Trung Quốc), để nông dân, HTX bán hàng online hiệu quả, ngành nông nghiệp đã thành lập đơn vị chuyên trách thực hiện nhiệm vụ tập hợp, đào tạo cho các bà mẹ, những nông dân sống ở các vùng nông thôn kiến thức về dinh dưỡng, nghệ thuật chế biến món ăn, tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, cách làm video, marketing, các ứng dụng AI, cách tăng tương tác với khách hàng trên nền tảng số và tiến hành thi cấp chứng nhận khi khóa học kết thúc.

Chính sách này đã tạo ra lực lượng “sale số” mạnh mẽ, hỗ trợ đắc lực cho nông dân, HTX tại các địa phương chuyển mình khi kinh doanh trên các sàn thương mại điện tử.

Theo Huyền Trang – Vnbusiness.vn

Viện Khoa học Công nghệ và Môi trường thực hiện thành công nhiệm vụ bảo vệ rừng ngập mặn

Nhiều hoạt động hỗ trợ trong nhiệm vụ bảo vệ môi trường của Viện Khoa học Công nghệ và Môi trường về bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn cho các Hợp tác xã đã đạt được kết quả tích cực.

Quang cảnh buổi bảo vệ cấp ngành

Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu. Hiện nay, tổng diện tích rừng ngập mặn ở Việt Nam khoảng 200.000 ha đã và đang đóng góp vai trò to lớn trong việc làm sạch môi trường và mang lại nguồn kinh tế cho người dân.

Nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của các HTX trong bảo vệ, khai thác rừng ngập mặn, góp phần cải thiện đời sống kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Viện Khoa học Công nghệ và Môi trường đã tổ chức thực hiện và nghiệm thu cấp Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nhiệm vụ: “Đánh giá Thực trạng ô nhiễm rừng ngập mặn sản xuất và đề xuất giải pháp xây dựng, phát triển mô hình HTX lâm nghiệp bền vững, chống biến đổi khí hậu” ngày 15 tháng 3 năm 2024.

Khảo sát, lựa chọn HTX tại RNM Rú Chá của tỉnh TT Huế, năm 2022
Khảo sát, lựa chọn HTX tại RNM tỉnh Bạc Liêu, năm 2023

        Kết quả khảo sát và đánh giá mà nhiệm vụ đã thu được, cho thấy hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản với tần suất khai thác hàng ngày đã mang lại nguồn thu nhập chính cho các HTX và thành viên ở trong khu vực rừng ngập mặn.

Tuy nhiên qua khảo sát, môi trường nước rừng ngập mặn tại các HTX đang có dấu hiệu bị ô nhiễm Coliform, TSS, NH4+ và Fe. Nguyên nhân gây ra tình trạng ô nhiễm nước tại các điểm quan trắc trên được xác định do hoạt động nuôi trồng thủy sản và do nguồn nước thải sinh hoạt của khu dân cư, nước thải chăn nuôi và nước thải công nghiệp ở các khu vực đầu nguồn và lân cận. Bên cạnh đó, các kết quả phân tích trầm tích tại các HTX cũng cho thấy các chỉ tiêu Cd, Pb và Fe ở hầu hết các HTX thuộc các vùng nghiên cứu đều cao và vượt ngưỡng quy chuẩn cho phép của QCVN 43:2017/BTNMT. Nguyên nhân gây ô nhiễm được xác định chủ yếu do các hoạt động dân sinh cũng như hoạt động sản xuất ở các làng nghề ở các khu vực xung quanh.

Quang cảnh hội thảo

Trước thực trạng trên, Viện Khoa học Công nghệ và Môi trường đã đưa ra là các giải pháp tổng hợp, ngắn hạn và dài hạn bao gồm: giải pháp đào tạo, tập huấn nâng cao nhận thức về vai trò, giá trị của rừng ngập mặn; giải pháp quản lý là áp dụng các quy định của ISO 14001:2015, giải pháp công nghệ là áp dụng chế phẩm sinh học…

Kết quả sau 2 năm thực hiện, nhiệm vụ đã tập huấn đào tạo và tuyên truyền cho hơn 500 lượt học viên ở khu vực kinh tế tập thể, góp phần nâng cao nhận thức về vai trò giá trị của rừng ngập mặn, bảo vệ rừng ngập mặn, quản lý chất thải hiệu quả góp phần bảo vệ môi trường. Chất lượng nước sau khi hỗ trợ ở cả 2 HTX xây dựng mô hình đã đạt quy chuẩn cho phép trong nuôi trồng thủy sản. Kết quả này đã chứng tỏ hiệu quả môi trường mà nhiệm vụ mang lại, đáp ứng yêu cầu về phát triển bền vững.

Việc áp dụng hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14001:2015 giúp cho các HTX kiểm soát tốt hơn các quá trình sản xuất, ngăn ngừa và xử lý kịp thời những rủi ro, đặc biệt là những yếu tố rủi ro gây ô nhiễm môi trường, nâng cao hiệu quả quản lý, xử lý chất thải cũng như ý thức và nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Thông qua các sản phẩm hỗ trợ khác như; chế phẩm sinh học xử lý ô nhiễm môi trường, kinh phí kết quả theo dõi đánh giá sau 1-2 vụ nuôi trồng như lúa gạo, tôm, cá tại các HTX tham gia mô hình cho thấy sản lượng, chất lượng đều được cải thiện, doanh thu và lợi nhuận thu được sau hỗ trợ đều tăng đáng kể lần lượt 10,3% sau 1 vụ nuôi tôm thẻ chân trắng tại HTX DV NTTS 30/4; tăng 40,7% doanh thu đối các sản phẩm lúa, cá, và tôm của HTX NN Thuận Hòa.

Nghiệm thu, bàn giao kết quả hỗ trợ năm 2022
Nghiệm thu, bàn giao kết quả hỗ trợ năm 2023

Nhiệm vụ đã đạt được nhiều kết quả tích cực, các nội dung tư vấn và hỗ trợ của nhiệm vụ đã mang lại hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường cho cả 2 HTX tham gia xây dựng mô hình và được các nhà khoa học đánh giá cao.

 

Viện Khoa học Công nghệ và Môi trường nghiệm thu thành công nhiệm vụ môi trường cấp ngành về phát triển dịch vụ môi trường cho hợp tác xã ở khu vực nông thôn miền núi

Nhiều giải pháp đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX một cách đồng bộ như: giải pháp kỹ thuật – công nghệ, giải pháp quản lý hệ thống, giải pháp tuyên truyền, vận động…đã đem lại hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường cho các Hợp tác xã ở khu vực nông thôn, miền núi hiện nay.

Cùng với các lĩnh vực kinh doanh khác, dịch vụ môi trường là một hoạt động đã và đang được nhiều hợp tác xã (HTX) trên nhiều địa phương trong cả nước quan tâm và tiếp cận, đặc biệt khu vực nông thôn và miền núi, góp phần tích cực trong công tác bảo vệ môi trường, tạo ra công ăn việc làm đảm bảo đời sống và xóa đói giảm nghèo cho lực lượng lao động tại chỗ. Tuy nhiên, các HTX hoạt động trong lĩnh vực này còn nhiều khó khăn như: về nguồn vốn, quy mô hoạt động còn nhỏ, công nghệ xử lý rác thải còn lạc hậu, nhận thức của người dân về phân loại rác thải tại nguồn, kinh phí cho công tác thu gom, xử lý rác thải còn thấp …..

Viện Khoa học Công nghệ và Môi trường đã thực hiện nhiệm vụ: “Đánh giá hiệu quả hoạt động và đề xuất giải pháp tổ chức dịch vụ môi trường cho các hợp tác xã ở khu vực nông thôn, miền núi” trong hai năm 2022-2023 và tổ chức nghiệm thu cấp ngành thành công kết quả của nhiệm vụ ngày 15/3/2024 vừa qua.

Thông qua khảo sát thực tế và các kết quả quan trắc chất lượng môi trường tại khu vực tập kết rác thải, khu vực tập kết không được trang bị đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật gây ra tình trạng trạng ô nhiễm không khí cục bộ, ô nhiễm nguồn nước do các với nền chống thấm, mái che, đặc biệt các rác thải hữu cơ chưa được tận dụng để làm phân bón sinh học. Thực tế khảo sát cũng cho thấy việc xử lý rác thải của nhiều HTX chủ yếu theo phương pháp thủ công, chôn lấp tại chỗ, đốt nilon, bao bì… không đảm bảo vệ sinh môi trường.

                                                                                                 Quang cảnh buổi bảo vệ cấp ngành

     Trước thực trạng như trên, Viện Khoa học Công nghệ và Môi trường đã đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX một cách đồng bộ như giải pháp kỹ thuật – công nghệ, giải pháp quản lý hệ thống, giải pháp tuyên truyền, vận động, giải pháp đào tạo, tư vấn.

Để kiểm chứng các giải pháp đề xuất, nhiệm vụ đã lựa chọn và hỗ trợ xây dựng 03 mô hình tại 3 HTX: HTX Hùng Việt (tỉnh Phú Thọ), HTX Hưng Khánh (tỉnh Yên Bái), và HTX Phú Riềng (tỉnh Bình Phước). Điểm mới và tiêu biểu trong đó là việc hỗ trợ về công tác quản lý, tư vấn, hướng dẫn và áp dụng hệ thống quản lý môi trường ISO 14001:2015 đã giúp các HTX quản lý và tổ chức hoạt động một cách khoa học, hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh. Doanh thu của 03 HTX tăng lên từ 15,2%- 33%; Thu nhập của người lao động hàng tháng tăng 5-12,5 %. Bên cạnh đó, chất lượng môi trường tại điểm tập kết rác thải đã được cải thiện, giảm ô nhiễm rõ rệt, đồng thời nhận thức của chính quyền, người dân địa phương và các tổ chức đoàn thể trong quản lý chất thải đã được nâng cao.

                                                                                          Tập huấn, hướng dẫn tại HTX Hưng Khánh
                                                      Hướng dẫn HTX Phú Riềng ủ phân từ rác thải hữu cơ và phụ phẩm nông nghiệp

Sau 2 năm hoạt động, nhiệm vụ đã đạt được nhiều kết quả tích cực như: đánh giá tình hình hoạt động, tổ chức dịch vụ môi trường tại các HTX ở khu vực nông thôn, miền núi; đề xuất giải pháp tổ chức dịch vụ môi trường cho các HTX khu vực nông thôn, miền núi… giúp HTX tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế, góp phần nâng cao chất lượng đời sống của người lao động.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Hợp tác xã

Vấn đề Hợp tác xã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập một cách có hệ thống, từ những ý tưởng mang tính chất lý luận đến những bài nói, bài viết sau này tuy mang tính chất chỉ đạo thực tiễn nhiều hơn nhưng đều chứa đựng quan điểm nhất quán về vai trò to lớn của HTX đối với đồng bào ta, nhất là vùng nông thôn, nông nghiệp.

 Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã đưa những quan điểm về hợp tác xã (HTX) vào Việt Nam. Người đã kế thừa những lý luận và thực tiễn về HTX của thế giới, của Chủ nghĩa Mác – Lênin và phát triển một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của đất nước.

       Đặc biệt trong tác phẩm Đường Cách mệnh năm 1927, tác phẩm lý luận điển hình, mẫu mực về HTX. Người đã giành hẳn một chương viết về HTX. Người nói “HTX là “góp gạo thổi cơm chung” cho khỏi “hao của, tốn công, lại có nhiều phần vui vẻ”[1]; và vận dụng tục ngữ Việt Nam “Nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó” và “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” để rút ra kết luận: “lý luận HTX đều ở trong những điều ấy”[2].

       Hồ Chí Minh nói về tính chất HTX là tổ chức kinh tế – xã hội, nó không thuần túy là kinh tế và cũng không thuần túy là xã hội. Nó khác hội buôn và khác hội từ thiện vì các hội ấy có tiêu đi mà không làm ra. HXT có tiêu đi, có làm ra, chỉ giúp cho người trong hội nhưng giúp một cách bình đẳng.

       Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những vấn đề lý luận cơ bản của HTX như: lịch sử ra đời, mục tiêu, bản chất, tổ chức quản lý,… Đặc biệt Người đề cập vấn đề quan trọng nhất của HTX chính là bản chất, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX, “đã vào hội thì bất kỳ góp nhiều hay ít, vào trước vào sau, ai cũng bình đẳng như nhau”[3], “xã viên là hạt nhân, là trung tâm của HTX nên phải hiểu rõ về HTX, phải nâng cao ý thức trách nhiệm về “HTX là nhà, xã viên là chủ”[4].

       Sau khi đã giành được chính quyền cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chỉ đạo thực hiện tư tưởng HTX vào thực tế Việt Nam. Trong “Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam” ngày 11/4/1946 – sự kiện giờ đây trở thành ngày truyền thống HTX Việt Nam – khi lý giải cụ thể HTX , Người viết: “Nói tóm lại, HTX là hợp vốn, hợp sức lại với nhau. Vốn nhiều, sức mạnh, thì khó nhọc ít mà lợi ích nhiều”. Mong muốn của Người là: “anh em ta ai chẳng mong cho nước thịnh, dân cường. Vậy chúng ta hãy mau mau chung vốn, góp sức, lập nên HTX nông nghiệp ở khắp nơi, từ làng mạc đến tỉnh thành đâu đâu cũng phải có HTX”[5].

       Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đến khi hòa bình lập lại năm 1954, ở miền Bắc, Hồ Chủ tịch luôn chú trọng đến tổ chức phát triển HTX, đến con đường làm ăn tập thể. Với cương vị Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nước, Người đã cùng Trung ương Đảng, Chính phủ có những chủ trương, đường lối phù hợp, đúng đắn để kinh tế HTX được tổ chức, phát triển, tạo được sức mạnh tổng hợp vào thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Kháng chiến, kiến quốc; xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu trang giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Nhìn chung, trong thời kỳ này các HTX được củng cố, phát triển và trở thành một lực lượng kinh tế quan trọng trong nền kinh tế của hậu phương lớn miền Bắc.

       Trong giai đoạn hiện nay, trên nền tảng quan điểm Hồ Chí Minh về HTX, Đảng chỉ đạo triển khai, phát triển sát với thực tiễn, với những quyết sách tạo ra cơ chế đột phá cho kinh tế hộ, là giải pháp hiệu lực về củng cố, phát huy hiệu lực của HTX nông nghiệp.

       Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, khu vực kinh tế hợp tác, HTX đã có những biến đổi quan trọng. Khi cơ chế quản lý tập trung bao cấp được xóa bỏ, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước từng bước được hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế. Phần lớn, HTX trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế rơi vào tình trạng khó khăn, lúng túng. Nhiều HTX sản xuất kinh doanh thua lỗ bị tan rã, giải thể. Tuy nhiên, trong khó khăn vẫn có một bộ phận HTX đã kịp thời chuyển đổi thích ứng với cơ chế mới, hoạt động có hiệu quả.

    Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền các cấp, ban, nghành, đoàn thể, sự hưởng ứng của người dân, phong trào HTX trong cả nước có nhiều chuyển biến tích cực. HTX tiếp tục phát triển về số lượng, đa dạng về loại hình và nhiều mô hình, điển hình và HTX kiểu mới được thành lập. Kinh tế HTX có nhiều đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế, an sinh xã hội và đóng góp tích cực trong việc giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.

       Sự ra đời, tồn tại, phát triển kinh tế tập thể, kinh tế HTX là tất yếu khách quan. Bác Hồ, Đảng ta rất sớm nhận rõ sự cần thiết của kinh tế HTX đối với sự phát triển của đất nước. Quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về HTX là nhất quán. Trong xu thế hội nhập và phát triển, nhận thức rõ và tập trung cho phát triển kinh tế HTX là sự lựa chọn thiết thực.

ThS.ThS.Trần Thu Hương – Khoa Xây Dựng Đảng

Trưởng Chính trị tỉnh Kon Tum

[1] Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, Tập 2, tr. 343.

[2] Chí Minh toàn tập, Tlđd, , tr. 343.

[3] Chí Minh toàn tập, Tlđd, tr. 347.

[4] Chí Minh toàn tập, Tlđd, tr.181

[5] Chí Minh toàn tập, Tlđd, tr.246.

Tìm ‘chìa khóa’ thu hút thành viên vào HTX

Các HTX đang có vai trò quan trọng góp phần đưa ngành nông nghiệp Việt Nam dần thoát khỏi tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ. Việc thu hút nông dân, hộ cá thể tham gia tích cực vào HTX không chỉ giúp mô hình HTX nâng được cả chất và lượng mà còn tiếp sức cho nền nông nghiệp lớn mạnh.

Trên thực tế, nhiều nông dân khởi nghiệp hoặc tham gia HTX đã trở thành triệu phú, tỷ phú hoặc đơn giản là thoát được nghèo. Như tại HTX nông nghiệp Đạ M’ri (Lâm Đồng) đang có 123 thành viên, nhờ đầu tư sản xuất trên quy mô lớn, đáp ứng các tiêu chuẩn xuất khẩu mà năm 2023, mỗi thành viên HTX có nguồn thu ít nhất là 1,1 tỷ đồng từ sản xuất sầu riêng theo hướng hàng hóa.

Vẫn khó giữ chân thành viên

Từ những đóng góp của các HTX như HTX Đạ M’ri có thể khẳng định kinh tế tập thể, HTX đang đóng vai trò quan trọng trong phát triển nền nông nghiệp hiện đại.

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) cho rằng kinh tế tập thể, HTX đang đóng góp tích cực vào phát triển ngành nông nghiệp. Minh chứng rõ nhất là chất lượng, số lượng nông sản hàng hóa của Việt Nam thời gian qua đã được nâng lên, đáp ứng các tiêu chí xuất khẩu của nhiều thị trường quốc tế. Thông qua HTX, doanh nghiệp cũng có những cơ hội đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường. Nhiều HTX cũng đã xây dựng được những vùng nguyên liệu đạt chất lượng, với những nông sản có thương hiệu trên thị trường.

Tuy nhiên, đó là những HTX có quy mô lớn cả về thành viên và năng lực sản xuất. Đến nay, vẫn còn nhiều HTX có quy mô nhỏ cả về thành viên, dịch vụ, diện tích sản xuất nên đang gặp những khó khăn nhất định trong việc nâng cao hiệu quả và phát triển các chuỗi giá trị hàng hóa.

Tại HTX Nông nghiệp dịch vụ và thương mại Hợp Nhất (Đăk Lăk), sau 17 năm hoạt động và chuyển đổi, số lượng thành viên của HTX không những không tăng mà giảm dần từ 30 đến nay còn 8 thành viên. Chính vì vậy, nhiều kế hoạch sản xuất, nâng diện tích, mở rộng dịch vụ, đầu tư máy móc của HTX bị “dậm chân tại chỗ”.

Điều này cho thấy, vẫn có những HTX không chỉ khó khăn trong thu hút thành viên mới mà còn khó “giữ chân” thành viên cũ. Nguyên nhân có thể do HTX bị tác động từ thị trường (dịch bệnh, suy thoái kinh tế…), có thể do HTX chưa minh bạch trong quá trình hoạt động, nhưng cũng có thể do người dân chưa hiểu rõ về bản chất của mô hình kinh tế tập thể, HTX.

Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, cả nước có hơn 19.000 HTX nông nghiệp thì bình quân mỗi HTX nông nghiệp mới chỉ có 176 thành viên. HTX nông nghiệp mới chỉ thu hút được khoảng 31% tổng số hộ nông lâm thủy sản cả nước (9,10 triệu hộ). Chỉ có số hộ liên kết với HTX nông nghiệp là tăng. Cụ thể là đến năm 2023, tổng số lao động thường xuyên trong HTX nông nghiệp vào khoảng 550 nghìn người (tăng 143 nghìn người so với năm 2013).

Tuy nhiên, nếu người dân chỉ liên kết với HTX thì hình thức hợp tác này được đánh giá là chưa thực sự ổn định và bền vững. Các thành viên liên kết không được thụ hưởng quyền lợi như thành viên chính thức.

Thu hút nhiều thành viên giúp HTX thuận lợi trong sản xuất theo hướng hàng hóa quy mô lớn.

Trong sản xuất, không phải HTX nào có quy mô thành viên nhỏ cũng hoạt động không hiệu quả. Nhưng xét về bản chất HTX và giá trị kinh tế, khi HTX đứng ra làm các dịch vụ hỗ trợ thành viên, nếu HTX có hàng trăm thành viên thì chắc chắn giá các loại dịch vụ của HTX sẽ mềm hơn, thành viên sẽ được hưởng lợi nhiều hơn.

Chẳng hạn như HTX chăn nuôi liên kết với doanh nghiệp để cung cấp cám thức ăn chăn nuôi cho thành viên. Nếu HTX có số lượng thành viên lớn, có nhu cầu nguồn cám nhiều, chắc chắn doanh nghiệp sẽ có chính sách hỗ trợ, đưa ra mức giá hợp lý hơn so với những HTX có số lượng thành viên nhỏ với nhu cầu mua thức ăn chăn nuôi ít.

Trong mối liên kết với HTX, các doanh nghiệp phân phối, chế biến cũng luôn mong muốn có nguồn nguyên liệu bảo đảm chất lượng, quy mô lớn và phát triển ổn định. Chính vì vậy, những HTX có số lượng thành viên lớn luôn là lợi thế trong liên kết với doanh nghiệp.

Đảm bảo công bằng, minh bạch

Kinh nghiệm thế giới cho thấy, để phát triển các HTX hiệu quả, các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan… luôn chú trọng mở rộng quy mô thành viên. Bởi như vậy, các HTX sẽ rất thuận lợi trong việc mở rộng và đa dạng các dịch vụ, huy động vốn, mở rộng diện tích, quản lý cũng như đáp ứng các nhu cầu sản xuất quy mô lớn.

Do đó, các nước này đã tiếp hành sáp nhập những HTX cũ hoặc hình thành những HTX mới trên quy mô toàn tỉnh, toàn huyện. Như Nhật Bản, sau quá trình sáp nhập và phát triển, cả nước hiện nay chỉ có khoảng 600 HTX. Điều này được đánh giá là giúp Nhật Bản dễ dàng trong việc xây dựng thương hiệu cho nông sản đặc trưng, từ đó tăng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và nâng cao được thu nhập cho người dân.

Hiện nay, một số tỉnh thành ở Việt Nam cũng đang thực hiện hợp nhất, sáp nhập các HTX quy mô nhỏ để hình thành những HTX quy mô lớn hơn. Tuy nhiên, điều này còn hạn chế vì thực chất lãnh đạo ở nhiều địa phương vẫn chưa quan tâm đến mô hình HTX nên chưa tìm được hướng mở rộng và “giữ chân” thành viên phù hợp cho các HTX.

TS Ninh Đức Hùng, chuyên gia phát triển HTX cho rằng muốn thu hút và “giữ chân” các thành viên, HTX cần kết hợp giữa các yếu tố kinh doanh và xã hội. HTX phải biết chia sẻ giữa các lợi ích của thành viên với lợi nhuận của HTX.

Muốn vậy, HTX phải tạo ra được một môi trường làm việc tích cực, được tôn trọng, được cống hiến, ghi nhận. Điều này có thể thông qua việc HTX tổ chức các sự kiện, các buổi đào tạo phát triển năng lực, từ đó thế mạnh của mỗi thành viên được bộc lộ, tạo cho họ cơ hội để đóng góp, tham gia vào công việc tập thể của HTX.

Bên cạnh đó, HTX cần chia sẻ lợi ích một cách công bằng. Để làm được điều này, lãnh đạo HTX phải đảm bảo các thành viên được công bằng từ trong việc phân công công việc, chia sẻ lợi ích, lợi tức kinh doanh của HTX. Vấn đề này có thể đảm bảo được thông qua việc thiết lập cơ chế phân chia lợi nhuận và đưa ra các quyết định một cách công bằng, minh bạch. Nội dung này cũng được thể hiện trong điều lệ HTX.

Đặc biệt, vào HTX là để nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống nên HTX cần đảm bảo công bằng và minh bạch, công khai. Ở đây, lãnh đạo HTX cần bảo đảm mọi hoạt động của HTX được tiến hành một các minh bạch, cung cấp thông tin đầy đủ, chi tiết về quản lý tài chính, phân phối lợi nhuận cũng như tạo ra cơ hội cho thành viên đưa ra ý kiến của mình trong các cuộc họp, đại hội thành viên của HTX.

“Vào HTX, thành viên được tham gia các lớp đào tạo, phát triển kỹ năng, các buổi dã ngoại, tham quan… từ đó tạo cơ hội cho phát triển sự nghiệp và nâng cao năng lực cá nhân. Đó cũng là điều thúc đẩy người dân tham gia và gắn bó với HTX lâu dài”, TS Ninh Đức Hùng cho biết.

Đáng chú ý, những điểm mới trong Luật HTX 2023 được kỳ vọng sẽ mở ra cơ hội cho các HTX trong việc thu hút thành viên, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX mở rộng quy mô sản xuất.

PGS TS Chu Tiến Quang, nguyên Giám đốc Trung tâm tư vấn và quản lý đào tạo, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, cho biết điểm mới của Luật HTX 2023 là đã hình thành quỹ và tài sản không chia, tạo thuận lợi cho HTX trong thế chấp ngân hàng để vay vốn. Đây là khó khăn trong thời gian dài mà các HTX đang gặp phải.

Đi liền với đó, HTX cũng được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các hoạt động giao dịch nội bộ. Từ đây, hoạt động cung ứng sản phẩm cho thành viên HTX sẽ phát triển, tạo niềm tin cho thành viên và người dân.

Theo Huyền Trang – Vnbusiness.vn

Tăng cường nhận thức về thị trường các-bon

Từ ngày 26/2 đến ngày 1/3, Chương trình Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP), với sự hợp tác của Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức hai khóa đào tạo về Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải (ETS) và thị trường các-bon cho các cơ quan nhà nước liên quan, các tổ chức và các doanh nghiệp tại Hà Nội. Các khóa đào tạo này là một phần trong hoạt động hỗ trợ của ETP nhằm thúc đẩy triển khai thị trường các-bon tại Việt Nam.

Nhu cầu thực từ địa phương, doanh nghiệp

Hiện nay, Chính phủ đã có quy định thành lập thị trường các-bon tại Việt Nam và giai đoạn thí điểm sẽ bắt đầu từ năm 2025. Thời gian qua, nhiều hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức về các quy định pháp luật liên quan đã được triển khai, tuy nhiên, hiểu biết về thị trường các-bon, đặc biệt là hệ thống giao dịch hạn ngạch còn khá hạn chế.

tang-cuong-nhan-thuc-ve-thi-truong-cac-bon.png
Phân biệt loại hàng hóa trong thị trường các-bon. Nguồn: Roxanne Tan – Quản lý cấp cao về Chính sách khí hậu, tài chính và thị trường các-bon, Tập đoàn South Pole

Đơn cử tại tỉnh Tuyên Quang, địa phương có diện tích rừng lên tới hơn 400 nghìn ha, bao gồm 230 nghìn ha rừng tự nhiên và 200 nghìn ha rừng trồng nên có tiềm năng lớn về tín chỉ các-bon rừng. Theo ông Triệu Đăng Khoa – Phó Chi Cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Tuyên Quang, thời gian qua, tỉnh đã xây dựng thí điểm dự án tạo tín chỉ các-bon đối với rừng trồng và hiện đang chờ các cấp có thẩm quyền xem xét, triển khai thực hiện. Đối với rừng tự nhiên, tỉnh đã phối hợp với Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) để đánh giá trữ lượng tín chỉ các-bon.

Các cán bộ lâm nghiệp cùng với cơ quan tư vấn cũng tiến hành đánh giá sơ bộ khả năng cung cấp tín chỉ các-bon ra thị trường và sắp tới sẽ tham vấn các cơ quan liên quan về các hành động chuẩn bị cụ thể cho việc tham gia thị trường, ngay khi các quy định liên quan có hiệu lực. Tuy nhiên, thách thức hiện nay là thể chế, chính sách liên quan đến thị trường các-bon còn đang thiếu. Nghị định số 156/2018/NĐ-CP đã có dịch vụ môi trường rừng về hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng. Tuy nhiên, Nghị định lại chưa có hướng dẫn cách tính cũng như thu hoạch tín chỉ các-bon như thế nào. Mặt khác, thị trường các-bon là vấn đề hoàn toàn mới đối với địa phương, bởi vậy, rất cần có các hoạt động đào tạo tăng cường năng lực để các cán bộ quản lý có thể triển khai thực hiện một cách hiệu quả các quy định liên quan trong thời gian tới.

Theo một khảo sát mới đây, có tới hơn 60% doanh nghiệp không hiểu về cách hệ thống giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính (ETS) và thị trường các-bon hoạt động, hoặc có hiểu nhưng không biết về nguyên tắc hoạt động cơ bản. Chỉ có khoảng 5% doanh nghiệp nắm được sự khác nhau giữa hai hệ thống này và sự tương tác trên sàn giao dịch các-bon.

Công ty Cổ phần Tư vấn Năng lượng và Môi trường (VNEEC) cũng đã thực hiện khảo sát vào cuối tháng 12/2023 trên 237 doanh nghiệp phát thải lớn, có tên trong danh mục cơ sở phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính theo Quyết định 01/2022/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Kết quả cho thấy phần nào nhu cầu tăng cường nhận thức trong vấn đề này trong doanh nghiệp, và ngay cả đối với các cơ quan quản lý liên quan.

Thúc đẩy triển khai thị trường các-bon

Bà Mai Kim Liên – Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu cho biết: Trong khi thị trường các-bon mới trong giai đoạn xây dựng, trên thực tế, doanh nghiệp Việt Nam đã trao đổi tín chỉ các-bon từ Việt Nam trên thị trường các-bon tự nguyện thế giới từ giữa những năm 2000. Việt Nam hiện đã có 150 dự án được cấp 40,2 triệu tín chỉ các-bon và đã có trao đổi trên thị trường thế giới; là 1 trong 4 nước có nhiều dự án tín chỉ theo Cơ chế phát triển sạch đăng ký nhất.

Để thiết lập và vận hành thị trường các-bon trong nước, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định về tổ chức và phát triển thị trường các-bon tại Điều 139 và quy định các cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính, có quyền trao đổi, mua bán trên thị trường các-bon trong nước. Do vậy, việc hướng dẫn thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế rất quan trọng và cần thiết.

Đại diện Chương trình Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Châu Á (ETP), bà Fritzie Vergel bày tỏ, khóa đào tạo về Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải (ETS) và thị trường các-bon là hoạt động đào tạo năng lực đầu tiên ở Việt Nam với sự tham gia của các bên liên quan thuộc cả khu vực công và tư. Đây là một chương trình toàn diện có hệ thống về ETS và thị trường các-bon kết hợp sử dụng công cụ mô phỏng thị trường.

Đối với Việt Nam, việc xây dựng một hệ thống giao dịch hạn ngạch phát thải hiệu quả đóng một vai trò then chốt trong việc đạt được mục tiêu giảm phát thải quốc gia. Bằng cách đặt một hạn mức về tổng lượng phát thải và cho phép các doanh nghiệp mua bán hạn ngạch phát thải, hệ thống giao dịch hạn ngạch tạo ra các động lực kinh tế giúp các doanh nghiệp tìm giải pháp giảm lượng phát thải KNK phù hợp với điều kiện của mình. Ngoài ra, doanh thu từ việc đấu giá hạn ngạch có thể được tái đầu tư vào các dự án liên quan đến khí hậu, hỗ trợ thêm cho các nỗ lực của quốc gia trong thực hiện mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, đóng góp vào nỗ lực chung toàn cầu.

Theo bà Đặng Thị Hồng Hạnh – Giám đốc Điều hành Công ty Cổ phần Tư vấn Năng lượng và Môi trường (VNEEC), thông qua khóa đào tạo, các bên liên quan sẽ hiểu biết rõ ràng về hoạt động của Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải, đặc biệt là hai loại hàng hóa chính trên thị trường là hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon. Việc hiểu rõ vị trí, vai trò của mình trong việc phát triển thị trường các-bon ở Việt Nam sẽ giúp các bên chủ động chuẩn bị sẵn sàng tham gia khi thị trường các-bon Việt Nam thực hiện thí điểm năm 2025 và chính thức vận hành vào năm 2028 theo quy định pháp luật; cũng như thúc đẩy mối quan hệ hợp tác chặt chẽ để thiết lập và vận hành thành công thị trường.

Theo baotainguyenmoitruong.vn

Thương mại điện tử là hướng đi mới cho HTX, doanh nghiệp tại địa phương

Trong những năm gần đây, chính sách xây dựng sàn thương mại điện tử (TMĐT) cho từng địa phương đã được quan tâm và triển khai tích cực. Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành trên cả nước có sàn thương mại điện tử riêng và thu hút được nhiều doanh nghiệp, người dân, HTX trên địa bàn tham gia đăng ký tài khoản bán các đặc sản địa phương, sản phẩm OCOP.

Cùng với sự hỗ trợ của các ngành chức năng, hoạt động thương mại trên sàn TMĐT của các tỉnh thành diễn ra ngày càng sôi nổi và bắt đầu ghi nhận được những kết quả tích cực.

Những kết quả tích cực

Sở Công Thương tỉnh Đồng Nai vừa đưa thông tin, tính đến cuối năm 2023, Sàn giao dịch thương mại điện tử tỉnh Đồng Nai (ecdn.vn) đã có sự tham gia 40 gian hàng của các doanh nghiệp, HTX, cơ sở sản xuất kinh doanh với 300 sản phẩm, trong đó có 90 sản phẩm OCOP.

Được biết, đây là sàn thương mại điện tử đầu tiên ở các địa phương trên cả nước ứng dụng, tích hợp thanh toán trực tuyến, kết hợp với dịch vụ logistics… Từ khi đi vào hoạt động tháng 12/2021, sàn giao dịch thương mại điện tử tỉnh Đồng Nai đã hoạt động hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp mở rộng khả năng tiếp cận thị trường của người dân, HTX, doanh nghiệp tại địa phương.

Nhiều đơn vị tại Đồng Nai đã bày tỏ sự hưởng ứng, cũng như chia sẻ về việc bán sản phẩm trên sàn thương mại điện tử của tỉnh đã giúp đem về những tín hiệu tích cực.

thuong-mai-dien-tu-la-huong-di-moi-cho-htx-doanh-nghiep-tai-dia-phuong.jpg

Các trang TMĐT của địa phương đăng bán nhiều loại sản phẩm OCOP.

Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Trường Phát (Nhơn Trạch, Đồng Nai) Nguyễn Thị Bích Lệ cho biết, HTX đã được Sở Công thương hỗ trợ đưa sản phẩm lên sàn ecdn.vn. Sau một quá trình tích cực tham gia, thử nghiệm, hiện HTX đã đưa được khoảng 20 sản phẩm lên sàn này. Sàn đã góp phần kết nối quảng bá, giới thiệu sản phẩm OCOP của HTX.

Từ chỗ kinh doanh chậm, dựa chủ yếu vào bán hàng truyền thống và các đơn vị liên kết. Đến nay, hoạt động bán hàng trực tuyến qua trang TMĐT của tỉnh đã giúp việc bán sản phẩm của HTX phát triển đáng kể. Bà Lệ chia sẻ, doanh thu của HTX từ các giao dịch mua bán trên sàn này trung bình đạt khoảng 100 triệu đồng/tháng.

Tương tự tại tỉnh Gia Lai, đến cuối năm 2023, Sở Công Thương ghi nhận toàn tỉnh có 206 đơn vị sản xuất nông nghiệp tham gia sàn TMĐT tại địa chỉ http://thuongmaigialai.vn với 375 loại sản phẩm. Trong quá trình hoạt động sàn đã giúp nhiều đơn vị, đặc biệt là HTX có sự phát triển vượt trội về doanh thu và khả năng tiếp cận với người tiêu dùng.

Bà Trần Thị Hoàng Anh,Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Giám đốc HTX Mật ong Phương Di Ia Grai ( Ia Grai, Gia Lai) chia sẻ: Thông qua các sàn TMĐT, HTX tiếp cận nhiều khách hàng và ký kết được nhiều hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.

“Kênh bán hàng online giúp HTX nâng cao hiệu quả hoạt động, thúc đẩy phát triển sản xuất. Thời điểm hiện tại, kênh bán hàng truyền thống gặp khó khăn nhưng nhờ bán qua sàn TMĐT nên doanh thu của HTX vẫn tăng khoảng 20% so với trước”, bà Hoàng Anh bày tỏ.

Với nhiều lợi thế là không tốn chi phí cho khâu trung gian, có sức lan tỏa rộng đến nhiều đối tượng khách hàng ở khắp mọi nơi, các sàn TMĐT địa phương đang thể hiện được sự hữu dụng của mình trong việc giúp người dân, HTX, doanh nghiệp tại địa phương tăng cường khả năng tiêu thụ sản phẩm, mở rộng đầu ra.

Nhận thức được tiềm năng và tầm quan trọng của việc bán hàng qua TMĐT, khi được Sở Công thương hỗ trợ kiến thức liên quan đến việc mở gian hàng trên các sàn giao dịch TMĐT, người dân, doanh nghiệp HTX cũng đã nhiệt tình hưởng ứng.

Vẫn còn nhiều hạn chế

Dù đem lại những kết quả tích cực như trên, nhưng xét về thực tế cho thấy hoạt động của các sàn TMĐT của các tỉnh vẫn còn bộc lộ không ít yếu điểm, hạn chế.

Theo Sở Công Thương các địa phương, các nhóm sản phẩm được giới thiệu trên sàn gồm: nông sản, đặc sản địa phương, sản phẩm OCOP, sản phẩm công nghiệp nông thôn… đều có chất lượng rất tốt. Tuy nhiên, sức mua của các sàn vẫn chưa được như kỳ vọng.

Trang TMĐT của tỉnh đã góp phần quảng bá, giới thiệu được sản phẩm tới người tiêu dùng nhưng nhìn chung hoạt động vẫn còn nhỏ lẻ, chưa có phương án phát triển lâu dài, chưa theo kịp thị trường… Do đó, số lượt bán nhìn chung vẫn thấp, lượng giao dịch, tương tác, doanh thu nhìn chung vẫn còn khá khiêm tốn…

Bên cạnh đó, nhiều người tiêu dùng cũng phản ánh các sàn TMĐT của một số tỉnh, địa phương vẫn cần cải thiện nhiều yếu tố về mặt giao diện, tính năng, nâng cao tính nhận diện, hình ảnh thương hiệu hoạt động tuyên truyền để làm tăng sức mua, thu hút người tiêu dùng.

Chị Mỹ Thơm (Mang Yang, Gia Lai), một khách hàng của sàn TMĐT tỉnh nhận xét: “Dù đã có được những tính năng cơ bản của một sàn TMĐT nhưng thiết kế, giao diện của website vẫn khá đơn giản, chưa tối ưu và kém thu hút. Bên cạnh đó, các sản phẩm đăng lên cũng chưa đẹp, nhiều hình ảnh do người bán tự chụp chưa đầu tư vào hình thức, khó tạo được hứng thú cho người mua”.

Qua đó, các chuyên gia về truyền thông, thương mại nhận định, các địa phương cần cải tiến giao diện, nội dung và có kế hoạch lâu dài để hỗ trợ, thúc đẩy ứng dụng rộng rãi TMĐT trong cộng đồng để ngày càng tiệm cận với thị hiếu thị trường. Để người tiêu dùng biết đến nhiều hơn, địa phương cũng cần tăng cường công tác truyền thông, thông tin về sàn TMĐT, nhất là gắn với hoạt động tuyên truyền vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm OCOP.

Đối với các doanh nghiệp, HTX đã đưa sản phẩm lên sàn cần chú trọng tạo bộ nhận diện thương hiệu, hình ảnh sản phẩm đồng thời tạo nên một môi trường kết nối giao thương đa chiều, hiệu quả hơn. Ngoài ra, khi đã tham gia sàn cần tích cực tương tác, hỗ trợ và tiếp nhận thông tin phản hồi từ khách hàng.

Dù còn nhiều hạn chế nhưng nhìn chung các sàn TMĐT địa phương đã góp một bước phát triển tích cực, tạo “bệ phóng” cho sự mở rộng về kết nối giao thương cho người dân, doanh nghiệp, HTX địa phương kinh doanh các sản phẩm, nông đặc sản vốn còn thiếu, yếu về mặt đầu ra.

Ngoài trang TMĐT, hiện nhiều đơn vị doanh nghiệp, HTX cũng bày tỏ mong muốn các cơ quan chức năng, chính quyền tỉnh có thể mở thêm những kênh truyền thông trực tuyến khác, nhằm tăng cường sự liên kết, đẩy mạnh giới thiệu, quảng bá rộng rãi hơn nữa những sản phẩm của địa phương sản xuất tới thị trường cả nước.

Theo Bích Tâm – Vnbusiness.vn

Sức mạnh của việc lập kế hoạch sản xuất đối với HTX

Để HTX tồn tại và phát triển, mỗi HTX phải có kế hoạch, phương án sản xuất kinh doanh phù hợp. Vậy nhưng do cả lý do khách quan và chủ quan, nhiều HTX vẫn sản xuất nhưng chưa biết kết quả ra sao. Điều này khiến sản phẩm hàng hóa của HTX khó đứng vững trên thương trường, HTX cũng rơi vào tình trạng bị động, chịu nhiều rủi ro.

Là một trong những HTX sản xuất lúa và nuôi tôm quy mô lớn ở Bạc Liêu với 383ha, thu hút gần 170 thành viên nhưng HTX nông nghiệp tổng hợp Ba Đình cho biết vẫn gặp những khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Ông Nông Văn Thạch, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX, cho biết thiếu vốn sản xuất, đầu tư máy móc sơ chế, đóng gói gạo là một trong những trở ngại của HTX. Điều này một phần là do HTX còn gặp khó khăn trong xây dựng phương án sản xuất kinh doanh nên dẫn tới chưa tiếp cận được với những đơn vị cho vay vốn.

Nhiều HTX chưa có phương án hiệu quả

Thống kê cho thấy đến 2023, cả nước có hơn 31.700 HTX, 158 liên hiệp HTX và 73.000 tổ hợp tác. Từ những con số này Ts Nguyễn Bích Thủy (Trường Đại học Thương Mại) cho biết, khoảng 60-70% HTX hoạt động hiệu quả, không thể không nhắc đến vai trò của việc xây dựng kế hoạch, phương án sản xuất kinh doanh. Ngược lại, có những HTX hoạt động khó khăn, hòa vốn hoặc lỗ một phần cũng vì chưa có phương án sản xuất kinh doanh rõ ràng, dài hơi. Hoặc có những HTX có phương án sản xuất kinh doanh nhưng chưa hiệu quả, không đủ sức thuyết phục nên không hấp dẫn được nông dân, thành viên và cũng khó thuyết phục đơn vị vay vốn, các dự án, doanh nghiệp đầu tư, hỗ trợ vay vốn.

Ông Ma Ngọc Thành, Giám đốc HTX nông lâm nghiệp Thổ Bình (Tuyên Quang) cho biết, phương án sản xuất kinh doanh tưởng là không quan trọng nhưng thực chất lại rất quan trọng với HTX.

Ngay tại Thổ Bình, dù phát triển nhiều dịch vụ, trải qua dịch bệnh và gặp không ít khó khăn trong sản xuất nông nghiệp nhưng nhờ lên phương án sản xuất kinh doanh cụ thể, HTX đã củng cố được hoạt động, thực hiện vừa tái sản xuất nông nghiệp, vừa phát triển được chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa, hỗ trợ đắc lực cho người dân làm nông nghiệp thông qua bảo đảm đầu vào và đầu ra, kết hợp với đầu tư chế biến nông sản. Từ đó, doanh thu và lợi nhuận được bảo đảm theo đúng kế hoạch. Việc tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ cũng thuận lợi hơn.

suc-manh-cua-viec-lap-ke-hoach-san-xuat-doi-voi-htx.jpg

Lập kế hoạch sản xuất như một công cụ nâng cao hiệu quả sản xuất cho HTX.

“Phương án sản xuất kinh doanh giúp lãnh đạo HTX tổ chức, điều hành và cân đối sản xuất kinh doanh. Phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh còn giúp HTX kiểm soát vấn đề tài chính, tránh tình trạng doanh thu thì lớn nhưng lợi nhuận thì chẳng là bao”, ông Ma Ngọc Thành cho biết.

Khẳng định phương án sản xuất kinh doanh là cần thiết đối với một HTX nếu muốn hoạt động hiệu quả những ông Nguyễn Khải, Chủ tịch Liên minh HTX Đăk Nông, cho rằng việc này hiện đang được các HTX có nguồn nhân lực trẻ làm khá tốt. Còn những HTX có nhân lực lớn tuổi lại gặp nhiều khó khăn vì chưa biết lập kế hoạch sản xuất kinh doanh sao cho hiệu quả, phù hợp.

Do chưa có phương án sản xuất kinh doanh khả thi mà nhiều khi, HTX tham gia quá nhiều vào việc thực hiện sản xuất, kinh doanh. Cũng có khi HTX chỉ tập trung vào xử lý các vấn đề về tài chính trong ngắn hạn mà không có nhiều quỹ thời gian hoặc không phân bổ tài chính hợp lý để giúp các thành viên định hướng cho tương lai hoặc ngược lại.

Cần con số cụ thể cho từng giai đoạn

Tuy nhiên, nhiều HTX không lập được phương án sản xuất, kinh doanh có đủ sức thuyết phục cũng có lý do. Bởi hiểu một cách đơn giản, lập kế hoạch sản xuất kinh doanh chính là việc đánh giá nhu cầu và tiềm năng của thành viên, nông dân để họ có những kỳ vọng thực tế về những gì họ có thể cung cấp và những gì họ có thể có nhận lại.

Nhưng đối với các HTX, thành viên và ban giám đốc HTX điều này không dễ dàng vì họ rất khó lên kế hoạch sản xuất lúa hay rau màu trong một đợt hạn hán hoặc một đợt dịch hại sẽ xảy ra. Ngay như đợt dịch Covid-19 đã diễn ra, nhiều HTX cũng “trở tay không kịp” vì nhiều vấn đề xảy ra khá bất ngờ.

Dưới góc độ một doanh nghiệp đang liên kết với HTX và hỗ trợ HTX xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, bà Trung Thị Sơn, Giám đốc công ty cổ phần Đông Nam dược miền Trung, cho rằng thực tế nhiều điều khó có thể dự báo trước khiến HTX rơi vào tình trạng bị động. Nhưng xét về khía cạnh sản xuất kinh doanh thông thường, dường như ngành nông nghiệp không thay đổi nhiều về diện tích đất có sẵn, số lượng cây-con, hoặc vấn đề trả lãi suất cho một khoản vay là những con số HTX có thể dự kiến được một cách phù hợp. Việc tìm kiếm đầu ra, quảng bá nông sản cũng có thể dự trù hoặc có kế hoạch cụ thể nhờ chủ động hoặc tham khảo các dự báo về thị trường.

Một điều quan trọng hiện nay là với nhiều HTX có ban lãnh đạo lớn tuổi, việc làm một kế hoạch sản xuất hiệu qủa không hề dễ nên cần cung cấp, hỗ trợ cho nông dân, giám đốc HTX trong vấn đề này. Cụ thể là có thể tạo điều kiện cho HTX tham gia các khóa đào tạo về lập kế hoạch, phương án sản xuất kinh doanh.

Nhưng dù thể nào HTX cũng cần có mục tiêu sản xuất kinh doanh với những con số về chi phí, doanh thu, lợi nhuận, dự phòng, phát sinh cụ thể cho từng giai đoạn, từ đó làm nền tảng có những kế hoạch, mục tiêu về sau.

Ông Ưng Thế Lãm, chuyên gia tư vấn, giám đốc Công ty TNHH Tư vấn xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại Toàn Cầu, cho rằng có lập phương án sản xuất kinh doanh chi tiết, HTX mới biết mình thu lợi khoảng bao nhiêu sau quá trình đầu tư, tránh tình trạng mất tiền bạc, công sức sản xuất kinh doanh nhưng không biết mình có thu được lợi nhuận hay không hoặc không biết đầu ra tiêu thụ ở đâu.

Để giải quyết được điều này, một trong những việc HTX cần làm trong quá trình lập kế hoạch đó là lập bản đồ, bảng biểu chính xác của từng tài sản, kết hợp phân tích chi tiết nguồn nước và đất, hỗ trợ thành viên quyết định những loại cây-con thích hợp.

Chẳng hạn như một HTX chăn nuôi cần có kế hoạch cụ thể, một bảng ghi lại thời gian sinh và thời gian giao phối, theo dõi tốc độ tăng trưởng và lập kế hoạch thời gian tối ưu để bán vật nuôi ra thị trường. Việc thống kê, lưu dữ những thông tin trong sản xuất kinh doanh một cách đầy đủ có thể giúp HTX có những quyết định tốt hơn, từ đó có thể dẫn tới cải thiện đời sống cho nông dân. Chính vì vậy, cần ứng dụng công nghệ vào lưu trữ thông tin từ đó tạo thuận lợi cho lập kế hoạch cụ thể.

Theo Huyền Trang – Vnbusiness.vn

Phát huy bản chất mô hình HTX để mở rộng đa dạng dịch vụ

Nhu cầu của thành viên HTX rất đa dạng, trong khi thị trường lại phát triển liên tục. Việc mở rộng dịch vụ để vừa đáp ứng nhu cầu của các thành viên, đồng thời thích ứng với định hướng thị trường sẽ giúp HTX phát triển bền vững hơn.

Nhận thấy nhu cầu thị trường về các sản phẩm ăn chay, HTX Thương mại và Dịch vụ Phước Thiện (Bình Phước) đã liên kết với doanh nghiệp phát triển hệ sinh thái thịt thực vật, thịt làm từ mít. Với thế mạnh của HTX là sản xuất mít bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm trên quy mô lớn, sản phẩm pate mít, thịt thực vật từ mít, nước sốt thực vật… đã được khách hàng trong nước đón nhận.

Việc mở rộng sang chế biến thực phẩm ăn chay không chỉ giúp HTX giải quyết bài toán tiêu thụ mít mà còn đáp ứng nhu cầu thị trường, nâng cao thu nhập cho thành viên. Đặc thiệt, cơ hội còn rộng mở hơn vì thời gian tới, HTX sẽ đẩy mạnh xuất khẩu.

Tận dụng “mua chung, bán chung”

Một trong những HTX hàng đầu ở Đức là Landwege cũng đã hoạt động hiệu quả nhờ mô hình không chú trọng vào việc mở rộng về mặt địa lý mà thay vào đó là phát triển sâu chuỗi giá trị, mở rộng dịch vụ phục vụ thành viên. HTX cung cấp các dịch vụ từ đầu vào như hướng dẫn sử dụng phân thuốc, đào tạo, dự báo thời tiết, quản lý nước, kiểm tra phân tích đất-nước, cơ giới, thông tin thị trường, xây dựng thị trường, vận tải, ghi nhãn… đến các dịch vụ tài chính như tín dụng, bảo hiểm, cho thuê… Ngoài ra, HTX Landwege còn phát triển dịch vụ quản lý kinh doanh như lập kế hoạch sản xuất, kiểm toán, tín dụng, pháp lý,… Nhờ vậy mà HTX này là mô hình phát triển mạnh ở Đức về chuỗi nông nghiệp hữu cơ.

Những ví dụ của HTX Phước Thiện và Landwege cho thấy, mở rộng và đa dạng các dịch vụ sẽ giúp HTX thích ứng tốt hơn với thị trường và mang lại nhiều lợi ích cho thành viên.

Tại một số địa phương hiện nay, có những HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nhưng đã mở rộng sang dịch vụ thu gom rác thải, tái chế rác. Dịch vụ này đã phát huy tác dụng trong bối cảnh ô nhiễm môi trường ở nhiều địa phương đang diễn ra.

phat-huy-ban-chat-mo-hinh-htx-de-mo-rong-da-dang-dich-vu.jpg

Nông nghiệp công nghệ cao rất thích hợp để mở rộng dịch vụ trải nghiệm du lịch.

Cụ thể là HTX mở rộng sang hoạt động thu gom, tái chế rác thải đã đóng góp trực tiếp vào lợi ích cộng đồng, góp phần trực tiếp bảo vệ môi trường và sau cùng hoạt động này lại sinh lợi khi tạo việc làm và thêm nguồn thu cho chính các thành viên HTX.

Theo các chuyên gia, hiện nay, khoa học kỹ thuật và thị trường ngày càng phát triển thì đi đôi với đó là nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của nông dân ngày càng lớn. Việc HTX phát triển được đa dạng các dịch vụ sẽ phát huy được chức năng mua chung, bán chung của mô hình HTX.

TS Ninh Đức Hùng, chuyên gia phát triển HTX cho biết, nếu một HTX nông nghiệp chỉ cung cấp những dịch vụ đơn thuần nhưng sau khi nắm bắt được nhu cầu thị trường về máy bay không người lái phục vụ trong nông nghiệp (drone) đang phát triển cao, HTX đầu tư, mở rộng sang dịch vụ này cũng sẽ phát huy nhiều lợi ích.

Đó là thành viên, người dân được phun thuốc không tiếp xúc, năng suất cao, tiến độ phun nhanh, giá thành hạ… Đặc biệt, trong lúc kinh phí của nhiều HTX còn nhiều khó khăn, để giải quyết được vấn đề về vốn mua máy bay không người lái, các HTX cũng có thể áp dụng nguyên tắc “mua chung, bán chung” của mô hình kinh tế tập thể. Tức là nhiều HTX cùng góp vốn để đầu tư một máy, cùng thực hiện dịch vụ cho thành viên nông dân, từ đó vừa nâng cao hiệu quả về kinh tế vừa tiết kiệm chi phí đầu tư.

Điều này còn đúng với bản chất của mô hình HTX. Nghĩa là HTX đầu tư drone phun thuốc với giá trung bình là 15 nghìn đồng/sào, nếu vì lợi nhuận, HTX phải thu của những người ngoài thành viên là 16-17 nghìn đồng/sào. Nhưng khi nông dân là thành viên, HTX chỉ thu phí dịch vụ là 15 nghìn đồng/sào. Mức giá này đang hỗ trợ trực tiếp cho thành viên, đề cao lợi ích của thành viên một cách tối đa.

Như vậy, thành viên chính là người hưởng lợi ích vì giá rẻ, đây cũng chính là bản chất của HTX. Vì nếu HTX làm dịch vụ đắt hơn thị trường thì không thể thu hút thành viên. Còn nếu HTX thu hút được nhiều thành viên cùng sử dụng dịch vụ này thì mức chiết khấu sẽ càng tăng.

Mở rộng dịch vụ cần tối đa lợi ích thành viên

Tuy nhiên, việc mở rộng dịch vụ với mỗi HTX không thể mang lại hiệu quả nếu không có những phân tích, tính toán lỹ lưỡng. Với một số HTX, việc mở rộng dịch vụ có thể để thích ứng với những cơ hội mới từ thị trường có thể chớp thời cơ nhanh chóng. Chẳng hạn như một số HTX đang mở rộng sang dịch vụ dưỡng sinh, du lịch trải nghiệm kết hợp nông nghiệp… là do nhu cầu thị trường về những dịch vụ này đang cao.

Trong khi đó, phần lớn HTX hiện nay gặp khó khăn về nguồn vốn, nên việc tính toán kỹ về chi phí, lợi nhuận cũng cần được quan tâm. Bởi, theo PGS.TS Mai Quang Vinh, Tổng Giám đốc Liên hiệp HTX Kinh tế số Việt Nam (VDECA), có thể một dịch vụ đáp ứng được phần đông nhu cầu của thành viên nhưng chưa chắc đã mang lại hiệu quả bền vững. Nhưng có khi có những dịch vụ mà nhiều HTX mong muốn nhưng chưa chắc nhiều HTX ở Việt Nam có thể làm được, đó là dịch vụ tín dụng.

Chính vì vậy cần sự tính toán cụ thể trước khi đầu tư một dịch vụ mới. Chẳng hạn như HTX vốn là mô hình phát triển vì lợi ích của thành viên nên luôn luôn có mức chiết khấu thấp hơn, không giống như mô hình cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp. Đi liền với đó, sau khi trừ thuế, trừ chi phí, nguồn thu của HTX có đảm bảo được hoạt động không? Các lợi ích mang lại có nhiều không? Nếu lợi nhuận, lợi ích luôn nhỏ hơn chi phí đầu tư thì chắc chắn việc mở rộng dịch vụ là không hiệu quả.

Hơn nữa, sự lựa chọn dịch vụ cũng cần phải phù hợp với mục đích phát triển của HTX, phải hỗ trợ chiến lược của HTX. Chẳng hạn nếu HTX đang chuyên trong mảng cung cấp các dịch vụ số hóa trong nông nghiệp thì không nên mở rộng dịch vụ về nghiên cứu đất đai (hoặc chỉ khi dịch vụ này rất quan trọng để cải thiện dịch vụ số hóa nông nghiệp).

Hay như, nếu HTX đang phục vụ nông dân trồng mít thì không nên cung cấp các dịch vụ thú y vì không ăn khớp và không phục vụ được tối đa lợi ích của thành viên. Ngược lại, nếu HTX làm nông nghiệp bền vững, nông nghiệp công nghệ cao thì lại rất thích hợp để phát triển thêm dịch vụ về trải nghiệm, du lịch kết hợp nông nghiệp…

Theo Huyền Trang – Vnbusiness.vn