Cần cơ chế đặc thù cho phát triển kinh tế tập thể toàn diện

Ứng dụng công nghệ số trong sản xuất, tiêu thụ đã giúp các HTX nâng cao giá trị kinh tế tập thể, tạo chiến lược kinh doanh phù hợp với xu thế thị trường hiện nay. Trong thời gian tới, Hà Nội cần có những cơ chế đặc thù cho HTX phát triển toàn diện, bền vững.
Cần hệ thống ngân hàng hỗ trợ cho phát triển kinh tế tập thể toàn diện
Cần hệ thống ngân hàng hỗ trợ cho phát triển kinh tế tập thể toàn diện

Chủ động đổi mới, ứng dụng công nghệ

Theo Liên minh HTX Việt Nam, hiện cả nước có khoảng 30.000 HTX, 125 liên hiệp HTX và 71.000 tổ hợp tác. Các loại hình kinh tế tập thể đã và đang sản xuất khối lượng sản phẩm hàng hóa rất lớn, không chỉ tạo ra giá trị về kinh tế, mà còn bảo đảm đời sống, là chỗ dựa, đòn bẩy phát triển kinh tế hộ gia đình cho hàng triệu nông dân.

Tuy nhiên việc chuyển đổi số vẫn còn chậm và nhỏ lẻ. Đến nay, trong số 1.718 HTX ứng dụng công nghệ cao, chỉ có 240 HTX sử dụng phần mềm quản lý và sản xuất thông minh, chiếm 1,5%. Các HTX này cũng chỉ tập trung vào ứng dụng công nghệ tưới tiêu, hệ thống nhà lưới, dán tem truy xuất nguồn gốc. Còn ứng dụng chuyển đổi số vào khâu chế biến, quản lý HTX, kinh doanh sản phẩm chưa thực sự được chú trọng.

Hà Nội những năm gần đây chính quyền đang rất chú trọng việc chuyển đổi số cho các chủ DN, các HTX vừa và nhỏ. Tạo dựng được thương hiệu tốt tìm được hướng đi ổn định cho sản phẩm trên thị trường trong nước và xuất khẩu, hoặc tổ chức tốt nhiều loại hình dịch vụ công ích phục vụ thành viên. Nhưng cũng chỉ được một số địa phương chủ động thực hiện như: Xã Đại Áng (huyện Thanh Trì).

Chủ tịch UBND xã Đại Áng (huyện Thanh Trì) Nguyễn Thanh Toàn cho biết, trước tình hình một số diện tích ao đầm, ruộng đồng của địa phương bỏ không. Từ năm 2018, chính quyền xã Đại Áng đã làm đầu mối trung gian, vận động các hộ dân ký kết hợp đồng cho thuê hơn 10ha đất. Sau đó, diện tích này được giao lại cho HTX Thủy sản công nghệ cao Đại Áng phát triển mô hình nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ “sông trong ao”.

GĐ HTX Thủy sản công nghệ cao Đại Áng Cao Đình Thanh Hải cho rằng, có được kết quả như hôm nay là nhờ việc đồng hành, tạo điều kiện về chính sách đất đai của chính quyền địa phương. Sau hơn 5 năm, HTX đã đầu tư thêm cả khu sơ chế, bảo quản gồm hai dây chuyền, có thể giải quyết được 10 tấn nguyên liệu mỗi ngày và trung bình mỗi năm HTX cung ứng cho thị trường khoảng 250 tấn thủy sản các loại.

HTX Rau quả sạch Chúc Sơn (huyện Chương Mỹ) là đơn vị đi đầu của TP Hà Nội trong đổi mới sản xuất, kinh doanh thông qua ứng dụng công nghệ số. GĐ HTX Rau quả sạch Chúc Sơn Hoàng Văn Thám thông tin, từ năm 2016, HTX đã thực hiện chuyển đổi số trong sản xuất và tiêu thụ. Trong sản xuất, HTX ứng dụng công nghệ cảnh báo thời tiết iMetos, giúp nông dân quản lý, giám sát sản xuất, điều chỉnh kế hoạch xuống giống, quy trình chăm sóc rau kịp thời khi thời tiết biến động. HTX cũng đã quản lý điện tử trong thực hiện truy xuất nguồn gốc đối với từng hộ trồng rau, từng thửa ruộng. Năm 2021, HTX tiếp tục thí điểm hoàn thiện quy trình chuyển đổi số đồng bộ trong sản xuất và phát triển chuỗi cung ứng ra thị trường, với 15 sản phẩm rau được số hóa, kết nối tiêu thụ trên các sàn thương mại điện tử.

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo khẳng định, chuyển đổi số là yếu tố then chốt để các HTX phát triển theo kịp xu hướng của xã hội, bắt nhịp thị trường. Đây cũng là đòn bẩy để các HTX phát huy nguồn lực kinh tế tập thể, xây dựng nông dân công nghệ số, tạo nguồn lực kinh tế khu vực nông thôn, chủ động thích ứng với những biến động về thị trường, dịch bệnh…

Tuy nhiên việc chuyển đổi số ở các HTX này cũng chỉ tập trung vào ứng dụng công nghệ tưới tiêu, hệ thống nhà lưới, dán tem truy xuất nguồn gốc. Còn ứng dụng chuyển đổi số vào khâu chế biến, quản lý HTX, kinh doanh sản phẩm chưa thực sự được chú trọng…

Để tháo gỡ khó khăn cho HTX phát triển, điều quan trọng là bản thân các HTX phải chủ động, tích cực tham gia công tác chuyển đổi, ứng dụng công nghệ số, giúp tự động hóa quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý, giám sát nguồn gốc, chuỗi cung ứng sản phẩm nhanh chóng, minh bạch, chính xác, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm.

Tạo lập môi trường phát triển bền vững

Kinh tế tập thể của nước ta đến nay chưa phát triển như mục tiêu, yêu cầu. Năng lực nội tại của HTX còn yếu, hiệu quả hoạt động chưa cao; mô hình tổ chức lỏng lẻo, chưa phù hợp với xu thế phát triển; nguồn lực tài chính và trình độ cán bộ quản lý HTX còn hạn chế. Một trong những nguyên nhân của các hạn chế nêu trên là chuyển đổi số còn chậm, thiếu tính chiến lược, hành động cụ thể. Do đó, khu vực kinh tế hợp tác, HTX phải chủ động thực hiện chuyển đổi số, để đổi mới phương thức sản xuất kinh doanh, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh, thích nghi với tình hình phát triển mới.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, GĐ Trung tâm VESS, để thúc đẩy HTX phát triển, cần có hệ thống ngân hàng cho riêng HTX. Hệ thống ngân hàng có thể cho HTX, thành viên HTX vay những khoản nhỏ, để có điều kiện đầu tư phát triển kinh tế. Một đặc thù cần lưu ý nữa là vấn đề kiểm toán trong nội bộ các HTX hiện nay đang dần giúp các HTX minh bạch về tài chính. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, kiểm toán HTX khác với kiểm toán trong DN, do đó phải có kiểm toán viên riêng cho HTX. Đặc biệt, đối với Hà Nội, cần tận dụng lợi thế là Thủ đô, có thị trường tiêu thụ tốt, nơi tập hợp được nhiều nhân lực chất lượng cao.

Phó Chủ tịch Liên minh HTX TP Hà Nội Nguyễn Tiến Phong cho biết, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm, chỉ đạo nhằm thúc đẩy kinh tế tập thể, HTX phát triển. Do đó, Hà Nội sẽ tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng nông nghiệp để cơ cấu, củng cố, xây dựng HTX cho phù hợp với vùng sinh thái nông nghiệp; đẩy mạnh thu hút đầu tư cho nông nghiệp, góp phần cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh. TP cũng tiếp tục có chính sách giải quyết khó khăn về đất đai, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, phục vụ sản xuất cho các tổ chức kinh tế tập thể; đồng thời, cụ thể hóa các chính sách hỗ trợ để tạo lập môi trường cho HTX phát triển bền vững.

Nguồn: phapluatxahoi.vn

Sáng nay Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ trả lời chất vấn

Từ 9h sáng 7/6, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt sẽ đăng đàn trả lời chất vấn trước Quốc hội về nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ.

Sau khi Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh kết thúc trả lời chất vấn, từ 9h đến 11h30 và 14h đến 14h50, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt sẽ trả lời câu hỏi chất vấn của đại biểu. Thời gian còn lại của phiên làm việc chiều, Bộ trưởng Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thắng sẽ đăng đàn.

Các vấn đề mà Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ sẽ làm rõ gồm chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia; giải pháp ứng dụng sản phẩm khoa học, công nghệ tiên tiến, phát triển kinh tế – xã hội, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp; việc quản lý, sử dụng ngân sách cho nghiên cứu khoa học; chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học của đơn vị nghiên cứu, viện, trường; cơ chế, chính sách khuyến khích tư nhân đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ.

Tham gia trả lời chất vấn nhóm vấn đề này còn có Phó thủ tướng Trần Hồng Hà, Bộ trưởng các Bộ Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giáo dục và Đào tạo, Thông tin và Truyền thông, giải trình các vấn đề liên quan.

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt giải trình tại Quốc hội, chiều 31/10. Ảnh: Hoàng Phong

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt giải trình tại Quốc hội, chiều 31/10/2022. Ảnh: Hoàng Phong

Kết quả chuyển giao công nghệ có chuyển biến tích cực

Trong báo cáo gửi đại biểu Quốc hội trước phiên chất vấn, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết kết quả nghiên cứu từ khu vực viện, trường đang có nhiều chuyển biến tích cực. Nhiều kết quả nghiên cứu đã được chuyển giao cho doanh nghiệp với doanh thu lên tới hàng trăm tỷ đồng.

Giai đoạn 2009-2019, Đại học Bách khoa TP HCM thu khoảng 1.300 tỷ đồng, tương đương 55 triệu USD nhờ chuyển giao công nghệ. Trong đó năm 2018, 2019 lần lượt 182 và 198 tỷ đồng. Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn 2010-2020 cũng thực hiện chuyển giao công nghệ với doanh số́ trung bình khoảng 25 tỷ đồng một năm. Trường thành lập hệ thống doanh nghiệp (BK Holding) hỗ trợ nhà khoa học trong trường bắt tay với doanh nghiệp bên ngoài, rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và ứng dụng vào thực tiễn.

Theo Bộ trưởng, công tác thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ được đẩy mạnh với sự hưởng ứng và vào cuộc của doanh nghiệp, chuyên gia từ viện nghiên cứu, trường đại học tại địa phương.

Khuôn viên Đại học Bách khoa TP HCM. Ảnh: hcmut.edu.vn

Khuôn viên Đại học Bách khoa TP HCM. Ảnh: hcmut.edu.vn

Về cách thức chuyển giao, chủ sở hữu kết quả nghiên cứu/tác giả tự đầu tư khai thác, chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng sáng chế, hợp tác với các bên để khai thác, chuyển giao. Ngoài ra, họ thành lập mô hình doanh nghiệp khởi nguồn từ trường đại học, viện nghiên cứu. Trong số này phải kể đến Trung tâm đổi sáng tạo nông nghiệp thuộc Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Trung tâm đổi mới sáng tạo của Đại học Bách Khoa Hà Nội, Trung tâm đổi mới sáng tạo thuộc Đại học Kinh tế Hồ Chí Minh.

Một số viện, trường đã thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với cộng đồng doanh nghiệp và bước đầu cho thấy thành công mang lại lợi ích thiết thực cho cả các bên liên quan trong thương mại hóa công nghệ, kết quả nghiên cứu.

Thương mại hóa kết quả nghiên cứu còn gặp khó

Theo đánh giá của Bộ Khoa học và Công nghệ, việc nghiên cứu khoa học, chuyển giao kết quả nghiên cứu là những vấn đề được rất nhiều nhà nghiên cứu, cơ quan quản lý trong nước và quốc tế quan tâm. Chuyển giao và thương mại hóa kết quả nghiên cứu thúc đẩy thị trường khoa học; đẩy nhanh ứng dụng kết quả nghiên cứu vào cuộc sống.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc quản lý kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ, viện, trường đã ban hành nhiều quy chế, văn bản liên quan đến chuyển giao, thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ.

Tuy nhiên, Bộ cũng cho rằng viện, trường công lập chưa thực sự chú trọng vào việc thực hiện quy định để quản lý và khai thác tài sản trí tuệ; nhiều kết quả, sản phẩm sáng tạo chưa được quan tâm đăng ký, bảo hộ để để trở thành hàng hóa có thể mua bán được.

Việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu còn gặp nhiều khó khăn do hệ thống trung tâm chuyển giao chưa phát huy được vai trò hỗ trợ, kết nối; viện, trường còn tâm lý phụ thuộc vào đơn vị và Nhà nước, chưa thực sự chủ động kết doanh nghiệp để nắm bắt nhu cầu, định hướng thị trường.

Thủ tục triển khai nhiệm vụ khoa học sử dụng ngân sách nhà nước còn rườm rà, cơ chế đặt hàng chưa thực sự gắn với nhu cầu của doanh nghiệp, thị trường và chưa có sự kết hợp thực sự giữa các bên tham gia trong quá trình triển khai đề tài, dự án nghiên cứu theo chuỗi giá trị, lấy doanh nghiệp làm trung tâm.

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ cho biết sẽ hoàn thiện hành lang pháp lý, xây dựng cơ chế phù hợp để tăng cường gắn kết giữa viện – trường – doanh nghiệp để hình thành và phát triển lực lượng doanh nghiệp khoa học.

Bộ cũng thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp ứng dụng, thương mại hóa kết quả nghiên cứu, đồng thời nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong xã hội, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động; đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ đối với tổ chức khoa học công nghệ, tăng cường trách nhiệm, nâng cao tính chủ động, sáng tạo.

Bộ cũng sẽ tìm giải pháp để xử lý tài sản hình thành từ nhiệm vụ khoa học sử dụng ngân sách Nhà nước, đặc biệt là tài sản là kết quả của nhiệm vụ nghiên cứu; sửa đổi quy định về quản lý tài sản công. Bộ mong muốn cho phép giao tài sản là kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học cho cá nhân, tổ chức không phân biệt công lập hay tư nhân có khả năng triển khai thương mại hóa kết quả nghiên cứu; Nhà nước thay vì cơ chế phân chia lợi nhuận trực tiếp chuyển sang cơ chế thu lại phần Nhà nước đầu tư ban đầu qua việc thu thuế.

Nguồn: VnExpress.net

Tập trung xây dựng “dữ liệu số”, hoàn thành Đề án Tăng cường chuyển đổi số trong hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc theo tiến độ

Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Nông Quốc Tuấn, Phó trưởng Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số UBDT phát biểu chỉ đạo tại phiên họp

Triển khai các nhiệm vụ được giao, Trung tâm Chuyển đổi số đã tổng hợp ý kiến của các vụ, đơn vị trong xây dựng dự thảo Quyết định ban hành danh mục cơ sở dữ liệu của UBDT và Quyết định ban hành danh mục dữ liệu mở của UBDT; xây dựng đề cương Đề án tăng cường chuyển đổi số trong hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc.

Báo cáo tại phiên họp, ông Nguyễn Ngọc Hà, Giám đốc Trung tâm Chuyển đổi số, Ủy viên thường trực Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số cho biết: Theo ý kiến của các vụ, đơn vị, Trung tâm đã tổng hợp danh mục cơ sở dữ liệu của UBDT dự kiến gồm 33 hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu và 02 nội dung thuộc dữ liệu mở là Hệ thống thông tin dịch vụ công trực tuyến và Cơ sở dữ liệu về thống kê thực trạng kinh tế-xã hội 53 dân tộc thiểu số. Đồng thời, Trung tâm Chuyển đổi số đã dự thảo khung đề cương Đề án tăng cường chuyển đổi số trong hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc để các vụ, đơn vị tập trung góp ý, thảo luận nhằm hoàn thiện đề cương Đề án.

Ông Nguyễn Ngọc Hà, Giám đốc Trung tâm Chuyển đổi số, Ủy viên thường trực Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số báo cáo tại phiên họp.

Thảo luận tại phiên họp, các đại biểu tham dự đề nghị cần chỉ rõ chế độ thu thập, nguồn dữ liệu, cơ chế, chu kỳ cập nhật để đảm bảo tính khả thi trong xây dựng danh mục cơ sở dữ liệu của UBDT; nhóm lại các hệ thống dữ liệu có liên quan, tránh chồng chéo, trùng lặp, đảm bảo tính liên thông, đồng bộ; xác định mức độ ưu tiên khi có nguồn lực triển khai. Về dự thảo đề cương Đề án, cần đánh giá kỹ thực trạng, tăng cường sự tham gia của các địa phương; cụ thể hơn mục tiêu, phân kỳ thành các giai đoạn phù hợp; các nội dung của Đề án phải có sự kết nối, cụ thể hóa của danh mục cơ sở dữ liệu, bám sát các chương trình, đề án của Chính phủ, các kế hoạch chuyển đổi số của UBDT đã ban hành…

Phát biểu ý kiến chỉ đạo tại phiên họp, Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Nông Quốc Tuấn giao Trung tâm Chuyển đổi số tổng hợp, tiếp thu các ý kiến thảo luận, góp ý của các vụ, đơn vị tại phiên họp để hoàn thiện dự thảo Quyết định ban hành danh mục cơ sở dữ liệu của UBDT và Quyết định ban hành danh mục dữ liệu mở của UBDT, trên tinh thần xây dựng khung, theo từng nhóm ngành, phân kỳ theo từng giai đoạn, cần thiết chỉ rõ nguồn dữ liệu, cơ chế thu thập và chu kỳ cập nhật, tạo tính linh hoạt để thuận tiện trong triển khai, đảm bảo tính khả thi của từng nội dung, nhiệm vụ. Sau đó, tiếp tục xin ý kiến của các vụ, đơn vị để chuẩn bị báo cáo tại phiên họp của Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số.

Các đại biểu tham dự phiên họp.

Về xây dựng dự thảo Đề án Tăng cường Chuyển đổi số trong hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc, Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm đề nghị cần rà soát, bổ sung các căn cứ pháp lý; các nội dung theo chương trình, đề án của Chính phủ, các kế hoạch chuyển đổi số của UBDT đã ban hành. Lưu ý tham khảo Đề án của các bộ, ngành có liên quan; Bổ sung nội dung các đánh giá, phân tích ưu nhược điểm và đề xuất các kiến nghị, giải pháp về: Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin của UBDT; Công tác chuyển đổi số của UBDT; Tình hình triển khai Đề án 414. Ngoài ra, cần phân kỳ triển khai, điều chỉnh các chỉ tiêu phù hợp theo từng giai đoạn; Bổ sung khái toán kinh phí cho từng nội dung triển khai; Dự thảo văn bản thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập; dự thảo phân công nhiệm vụ cho từng thành viên. Tập trung xây dựng Đề án theo tiến độ đã nêu trong Quyết định số 381/QĐ-UBDT ngày 24/5/2023. Phấn đấu hoàn thành Đề án, trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 10/2023.

Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm giao Trung tâm Chuyển đổi số xây dựng báo cáo tình hình, tiến độ thực hiện nhiệm vụ được giao theo các Thông báo kết luận của Lãnh đạo Ủy ban từ đầu năm 2023 đến nay. Phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Ủy ban đề hỗ trợ các vụ, đơn vị trong khai thác, sử dụng hệ thống phòng họp số, đảm bảo phục vụ hiệu quả, thuận tiện cho các phiên họp, tiết kiệm chi phí hành chính.

Nguồn: Uỷ Ban Dân Tộc

Tổng thuật trực tiếp sáng 22/5: Khai mạc kỳ họp Quốc hội thứ 5, Quốc hội khoá XV

Thực hiện quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, 9h00 ngày 22/05, dưới sự chủ trì của Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Kỳ họp thứ 5, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV sẽ khai mạc trọng thể tại Nhà Quốc hội, Thủ đô Hà Nội.

Khai mạc kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XV

Thời gian qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan đã khẩn trương chuẩn bị các nội dung trình Quốc hội xem xét, quyết định tại Kỳ họp thứ 5.

Trước giờ khai mạc kỳ họp, vào 07 giờ 15 phút, Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đại biểu Quốc hội đặt vòng hoa và vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vào 08 giờ 00 phút, Quốc hội tiến hành họp phiên trù bị. Tại phiên họp, các vị đại biểu Quốc hội nghe Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu; nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự kiến Chương trình Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV. Sau đó, Quốc hội tiến hành thảo luận và biểu quyết thông qua Chương trình Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV.

Tiếp đó, 9h00 Quốc hội sẽ họp Phiên khai mạc Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV tại Hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc hội. Phiên khai mạc được Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV1), Đài Truyền hình Việt Nam (VTV1) và Truyền hình Quốc hội Việt Nam phát thanh, truyền hình trực tiếp. Đồng thời, Cổng Thông tin điện tử Quốc hội cũng sẽ Tổng thuật toàn nội dung Phiên khai mạc trên https://quochoi.vn.

Cổng Thông tin điện tử Quốc hội  liên tục cập nhật nội dung Phiên khai mạc…

Khai mạc kỳ họp Quốc hội thứ 5, Quốc hội khoá XV

9h07: Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu khai mạc Kỳ họp

Phát biểu khai mạc kỳ họp, Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV diễn ra ngay sau thành công tốt đẹp của Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, là kỳ họp có ý nghĩa quan trọng cả về công tác lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

Chủ tịch Quốc hội cho biết, tại phiên họp trù bị, các đại biểu Quốc hội đã nhất trí rất cao thông qua nội dung, thời gian, chương trình và phương thức tiến hành. Theo đó, Kỳ họp thứ 5 được chia làm 02 đợt, họp tập trung tại Nhà Quốc hội: đợt 1 từ ngày 22/5 đến ngày 10/6; đợt 2 từ ngày 19/6 đến ngày 24/6. Dự kiến trong 23 ngày làm việc, Quốc hội sẽ xem xét, quyết định những nội dung quan trọng.

Về công tác lập pháp, Chủ tịch Quốc hội cho biết, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua 08 dự án luật, trong đó có 06 dự án luật đã được cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4; 02 dự án luật (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam) được Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 5 theo quy trình tại một kỳ họp. Quốc hội cũng xem xét, ban hành 03 nghị quyết quy phạm pháp luật.

Tại Kỳ họp này, Quốc hội xem xét, cho ý kiến lần thứ hai đối với dự án Luật Đất đai (sửa đổi); cho ý kiến lần đầu đối với 08 dự án luật khác. Đối với các dự án luật, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội thông qua, việc tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện các dự án, dự thảo đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo sát sao. Các dự thảo luật được hoàn thiện để trình Quốc hội xem xét, thông qua cơ bản đã có sự thống nhất cao giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội nêu rõ.

Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, việc xem xét, ban hành các dự án luật này có ý nghĩa quan trọng nhằm tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn, tạo sự đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật, nhất là với Luật Đất đai (sửa đổi) cũng như đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải cách thủ tục hành chính, tăng cường chất lượng quản trị, điều hành các tổ chức tín dụng và hoàn thiện hành lang pháp lý trong hoạt động xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.

Chủ tịch Quốc hội đề nghị các vị đại biểu Quốc hội dành thời gian nghiên cứu, tập trung thảo luận kỹ lưỡng, đánh giá tính đồng bộ và sự phù hợp của các dự án, dự thảo với Hiến pháp và đường lối, chủ trương của Đảng, cân nhắc thận trọng về tính hợp lý, khả thi, tác động của các chính sách mới được đề xuất; đặc biệt lưu ý bảo đảm tính công khai, minh bạch, chặt chẽ, không tạo kẽ hở cho các hành vi tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ; bảo đảm sự ổn định, thống nhất trong các quy định của từng dự án, dự thảo và sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, góp phần hoàn thiện thể chế phát triển, thúc đẩy, tạo động lực mới, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững.

Về kinh tế – xã hội, ngân sách nhà nước và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Chủ tịch Quốc hội cho biết, Quốc hội xem xét báo cáo của Chính phủ về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và ngân sách nhà nước năm 2022, tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2023; phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2021; đồng thời, xem xét, quyết định các nội dung quan trọng về: Giao danh mục và mức vốn cho các nhiệm vụ, dự án còn lại thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội; giao, điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021-2025 và phân bổ kế hoạch đầu tư vốn ngân sách trung ương năm 2023 của chương trình mục tiêu quốc gia; Chủ trương đầu tư bổ sung vốn điều lệ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam; Việc tiếp tục thực hiện chính sách giảm thuế giá trị gia tăng 2% theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội; Chủ trương đầu tư Dự án đường giao thông từ Quốc lộ 27C đến đường tỉnh ĐT.656 tỉnh Khánh Hòa – kết nối với Lâm Đồng và Ninh Thuận; Điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án Hồ chứa nước Ka Pét, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận.

Khái quát tình hình kinh tế – xã hội những tháng đầu năm 2023, bối cảnh trong nước và quốc tế, Chủ tịch Quốc hội đề nghị các vị đại biểu Quốc hội tập trung phân tích cụ thể, đánh giá khách quan, sát thực, toàn diện, thẳng thắn về kết quả đạt được, hạn chế, khó khăn; làm rõ trách nhiệm, nguyên nhân khách quan, chủ quan cả trong công tác tổ chức thực hiện và những vấn đề liên quan đến chính sách, thể chế, pháp luật; những khó khăn hạn chế của nội tại nền kinh tế; dự báo sát với tình hình thời gian tới, từ đó, đề xuất giải pháp thiết thực, kịp thời, góp phần hoàn thành các mục tiêu năm 2023, tạo tiền đề thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội cho cả giai đoạn 2021-2025.

Đối với việc phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2021, Chủ tịch Quốc hội đề nghị các vị đại biểu Quốc hội thảo luận, đánh giá kỹ tình hình dự toán, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước, phân tích rõ nguyên nhân của những bất cập, hạn chế, nhất là những bất cập, hạn chế chưa được khắc phục hậu quả qua nhiều năm. Từ đó, đóng góp giải pháp, đề xuất cách làm để đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, siết chặt kỷ luật, kỷ cương công chức, công vụ, tăng cường trách nhiệm giải trình và xử lý vi phạm, góp phần nâng cao chất lượng công tác xem xét, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước của Quốc hội.

Về hoạt động giám sát tối cao, Chủ tịch Quốc hội cho biết, Quốc hội sẽ nghe Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân gửi đến Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV; xem xét báo cáo về công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2022; tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn. Tại kỳ họp này, lần đầu tiên, Quốc hội sẽ thảo luận tại Hội trường về báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV.
Quốc hội sẽ tiến hành giám sát tối cao “Việc huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19; việc thực hiện chính sách, pháp luật về y tế cơ sở, y tế dự phòng”. Tại Kỳ họp này, Quốc hội cũng sẽ xem xét, thông qua các nghị quyết về Chương trình giám sát và thành lập Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội năm 2024.

Bên cạnh đó, Quốc hội cũng sẽ xem xét một số báo cáo của các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước…

Về công tác nhân sự, Chủ tịch Quốc hội cho biết  Quốc hội sẽ xem xét, quyết định công tác nhân sự ngay tại đầu kỳ họp, cụ thể là: Xem xét, cho thôi làm nhiệm vụ đại biểu Quốc hội khóa XV, miễn nhiệm và bầu chức vụ Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội và xem xét, phê chuẩn việc miễn nhiệm và bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường nhiệm kỳ 2021-2026.

Thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội đề nghị các vị đại biểu Quốc hội phát huy dân chủ, nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu kỹ lưỡng, thảo luận sôi nổi, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc, chất lượng để các quyết sách của Quốc hội thực sự đồng hành, hỗ trợ, tạo thuận lợi tối đa cho người dân và doanh nghiệp.

Chủ tịch Quốc hội bày tỏ tin tưởng với sự chuẩn bị chu đáo và kỹ lưỡng, Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV sẽ hoàn thành toàn bộ chương trình, mục tiêu đã đề ra, tiếp tục thu được kết quả toàn diện và tốt đẹp.

9h06: Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn điều hành phiên khai mạc.

Điều hành nội dung phiên họp, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn cho biết, Phiên khai mạc Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV được phát thanh, truyền hình trực tiếp trên sóng phát thanh, truyền hình quốc gia và Truyền hình Quốc hội. Theo chương trình, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu khai mạc Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV.

9h01: Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu tham dự Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV

Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường cho biết, căn cứ trên quy định của pháp luật, sau quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng về nội dung và điều kiện đảm bảo, Quốc hội khóa XV khai mạc trọng thể Kỳ họp thứ 5 để xem xét, quyết định nhiều nội dung quan trọng trong công tác xây dựng pháp luật, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

Dự phiên khai mạc Kỳ họp có Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An; nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai, nguyên Chủ tịch UBTW MTTQ Việt Nam Phạm Thế Duyệt, nguyên Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến.

Cùng dự còn có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, các đồng chí Phó Thủ tướng, nguyên Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch nước, nguyên Phó Chủ tịch nước, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo các ban, bộ, ngành, đoàn thể trung ương và lãnh đạo các địa phương, trưởng đại diện các tổ chức quốc tế tại Hà Nội.

Về phía Quốc hội có Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương; các đồng chí Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Trưởng đoàn, Phó Trưởng đoàn, các đại biểu Quốc hội thuộc 63 đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

9h00: Quốc hội thực hiện nghi thức Lễ chào cờ

Ngành nông nghiệp đẩy mạnh chuyển đổi số thực chất, hiệu quả

Sơ chế sản phẩm nho tươi để đưa đi tiêu thụ từ liên kết sản xuất với người dân tại Trang trại nho Ba Mọi, xã Phước Thuận, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. (Ảnh: Nguyễn Thành/TTXVN)

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thúc đẩy, khuyến khích người dân và doanh nghiệp tham gia vào chuyển đổi số; ứng dụng công nghệ số trong quy trình sản xuất, cung cấp dịch vụ nông nghiệp.

Với chủ đề năm 2023 là dữ liệu số, các đơn vị của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tập trung đột phá việc rà soát, sắp xếp, số hóa hồ sơ quy trình chuyên môn nghiệp vụ, phát triển cơ sở dữ liệu chuyên ngành, phục vụ tích hợp dữ liệu lớn thuộc phạm vi chức năng nhiệm vụ ngành, lĩnh vực đơn vị quản lý, tham mưu. Đồng thời, lựa chọn ít nhất từ 1-2 nội dung trọng điểm, hoạt động chuyển đổi số thiết thực, khả thi trong từng chuyên ngành để triển khai có kết quả trong năm 2023.

Trong Kế hoạch chuyển đổi số năm 2023, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đặt mục tiêu sẽ đẩy mạnh chuyển đổi số thực chất, hiệu quả, tiết kiệm, gắn với kêu gọi sự hỗ trợ, tư vấn, đồng hành của các doanh nghiệp, hiệp hội công nghệ thông tin chuyên nghiệp, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức đến hành động về chuyển đổi số của cơ quan, đơn vị thuộc Bộ và các tổ chức, cá nhân tham gia chuỗi giá trị nông nghiệp từ trung ương đến địa phương.

Chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn góp phần xây dựng giá trị văn hóa làm việc chuyên nghiệp, sáng tạo dựa trên tinh thần hợp tác, chia sẻ, tôn trọng, cộng đồng trách nhiệm trong một đơn vị và giữa các đơn vị với nhau.

Năm 2023, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ hoàn thành ban hành danh mục cơ sở dữ liệu thuộc phạm vi quản lý và kế hoạch, lộ trình cụ thể để xây dựng, triển khai các cơ sở dữ liệu trong danh mục.

Có 30% đơn vị thuộc Bộ triển khai nền tảng phân tích, xử lý dữ liệu tổng hợp chuyên ngành. Có 80% đơn vị chuyên ngành triển khai chức năng kho dữ liệu điện tử của tổ chức phục vụ lưu trữ và quản lý.

Thực hiện Chính phủ số, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phấn đấu có 70% dịch vụ công trực tuyến toàn trình và một phần triển khai trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia quy định tại Nghị định số 42/2022/NĐ-CP ngày 24/6/2022 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng.

Đồng thời, nâng cao chất lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công trực tuyến nhằm đảm bảo tính minh bạch và sự hài lòng của doanh nghiệp, người dân. Bộ thực hiện thanh toán trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia đối với một số dịch vụ công theo đúng quy định.

100% chế độ báo cáo, chỉ tiêu tổng hợp báo cáo định kỳ thuộc phạm vi quản lý của Bộ (không bao gồm nội dung mật) được ký số, gửi qua Hệ thống thông tin báo cáo của Bộ, chia sẻ với Hệ thống thông tin báo cáo Quốc gia.

Các mục tiêu trên nhằm cải thiện vị trí xếp hạng chuyển đổi số theo Bộ Chỉ số chuyển đổi số cấp Bộ ngành (DTI) năm 2023.

Phát triển kinh tế số trong nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thúc đẩy các doanh nghiệp, người dân tham gia các hoạt động trong nông nghiệp tăng cường ứng dụng công nghệ số vào quy trình sản xuất, cung cấp dịch vụ nông nghiệp; quản lý, giám sát nguồn gốc; hình thành hệ sinh thái nông nghiệp số nhằm khuyến khích người dân và doanh nghiệp tham gia vào chuyển đổi số; ứng dụng công nghệ số trong quy trình sản xuất, cung cấp dịch vụ nông nghiệp.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông cung cấp dữ liệu mở có thể truy cập, sử dụng dễ dàng; hoàn thiện kho dữ liệu số đáp ứng các yêu cầu về kết nối; chia sẻ tài nguyên thông tin, dữ liệu trong bộ.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khuyến khích các hoạt động ứng dụng các công nghệ số như cảm biến, IoT, trí tuệ nhân tạo và khai thác dữ liệu để theo dõi các thông số đất đai, thời tiết… nhằm tăng năng suất và cải thiện chất lượng sản phẩm nông nghiệp./.

Bích Hồng (TTXVN/Vietnam+)
Nguồn: vietnamplus.vn

Chuyển đổi số trong đồng bào dân tộc thiểu số

Trong những năm gần đây, chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin là xu hướng chung của toàn xã hội. Tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, việc chuyển đổi số đang được đẩy mạnh, thông qua các lớp tập huấn, hướng dẫn, để đồng bào không đứng ngoài xu thế này.

Vừa qua, chị Triệu Thị Khé, dân tộc Tày, Chủ tịch Hội LHPN xã Sơn Phú (Na Hang), cùng với trên 250 cán bộ, công chức cấp huyện, cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) trên địa bàn tỉnh được tham gia Hội nghị đào tạo, tập huấn nâng cao ứng dụng công nghệ thông tin, nhận thức và kỹ năng chuyển đổi số do Ban Dân tộc tỉnh chủ trì tổ chức. Tại đây, chị và các học viên đã được tiếp cận thông tin về khoa học công nghệ và quảng bá các sản phẩm của địa phương đến người tiêu dùng trong nước và thế giới. Nâng cao khả năng ứng dụng và sử dụng công nghệ thông tin hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia. Chị Khé cho hay: mặc dù đã biết qua về những ứng dụng trên điện thoại thông minh, máy vi tính nhưng khi tham gia lớp tập huấn, chị hiểu sâu hơn, cũng như được thực hành trực tiếp trên máy. Sau khi học xong, chị đã tích cực truyền đạt lại những nội dung đó đến hội viên, nhân dân trên địa bàn.

Cán bộ nông dân vùng đồng bào DTTS & MN của huyện Yên Sơn được hướng dẫn tạo tài khoản, khởi tạo gian hàng, cách đưa sản phẩm lên gian hàng, theo dõi đơn hàng trên sàn thương mại điện tử Postmart.vn.

Anh Nguyễn Quang Thắng, Bí thư Đoàn xã Tứ Quận (Yên Sơn) cho biết, tại lớp tập huấn, anh được bồi dưỡng kỹ năng tạo lập, biên tập thông tin, nội dung số, phương pháp truyền thông quảng bá hình ảnh và sản phẩm của địa phương. Qua đó, anh nắm được những kỹ năng chụp ảnh sản phẩm sao cho đẹp, viết bài về sản phẩm sao cho thu hút tương tác và cách quảng bá sản phẩm trên các nền tảng mạng xã hội: Facebook, Zalo. Anh sẽ nỗ lực tham gia chuyển đổi số, quảng bá, sản phẩm nông sản địa phương, sản phẩm OCOP trên địa bàn. Đồng thời, anh sẽ tìm hiểu thêm về các sàn thương mại điện tử như Postmart, Voso… để hướng dẫn đoàn viên, thanh niên, nhân dân mở gian hàng online trên nền tảng số. Đây là giải pháp thiết thực để góp phần nâng cao thu nhập cho người dân ở vùng đồng bào DTTS, nâng cao hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS và MN tại địa phương.

Đồng chí Ma Quang Hiếu, Trưởng Ban Dân tộc tỉnh nhấn mạnh, chuyển đổi số là một nhiệm vụ trọng yếu, góp phần triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS & MN giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I: Từ năm 2021 đến năm 2025; cụ thể là triển khai thực hiện Tiểu dự án 2 thuộc dự án 10: Ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo an ninh trật tự vùng đồng bào DTTS & MN. Lớp đào tạo, tập huấn nâng cao ứng dụng công nghệ thông tin, nhận thức và kỹ năng chuyển đổi số là một trong những giải pháp thực hiện hiệu quả Kế hoạch Chuyển đổi số của Ban Dân tộc tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Phụ nữ dân tộc Dao, xã Hồng Thái (Na Hang) tìm hiểu về chuyển đổi số qua điện thoại thông minh.

Trong thời gian tới, Ban Dân tộc tỉnh tập trung lãnh đạo đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và khai thác hiệu quả ứng dụng chuyển đổi số phục vụ tốt công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc; tuyên truyền, hỗ trợ đồng bào DTTS phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo an ninh trật tự. Đến năm 2025, 100% cán bộ, công chức, viên chức được tập huấn, bồi dưỡng, phổ cập kỹ năng số cơ bản; 50% cán bộ, công chức, viên chức được tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng phân tích, khai thác dữ liệu và công nghệ số. Đối với phát triển kinh tế số, toàn tỉnh phấn đấu 80% doanh nghiệp, hộ kinh doanh sản phẩm đặc sản lên sàn trực tuyến. Để phát triển xã hội số, toàn tỉnh phấn đấu 100% hộ gia đình dân tộc thiểu số có địa chỉ số và có ít nhất 1 điện thoại thông minh; 100% người dân tộc thiểu số có danh tính số kèm theo mã QR code, có hồ sơ số về sức khỏe cá nhân; 100% học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số có hồ sơ số về việc học tập cá nhân; 80% các hộ dân tộc thiểu số và vùng núi trên địa bàn sử dụng Internet băng thông rộng. Đồng thời tiếp tục phổ cập dịch vụ mạng di động 4G và điện thoại di động thông minh, từng bước phát triển mạng 5G. 100% đồng bào dân tộc được kết nối, đối thoại với người làm công tác dân tộc nhằm tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức cho đồng bào dân tộc thiểu số về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

Để việc chuyển đổi số trong vùng đồng bào DTTS đạt hiệu quả, hệ thống chính trị các cấp tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của bà con về các vấn đề liên quan đến công nghệ thông tin, ứng dụng công nghệ thông tin, mạng internet trong đời sống và sản xuất. Bên cạnh đó, công nghệ số cần bám sát vào đời sống bà con thông qua các hoạt động thiết thực như: chính quyền có thể giao tiếp với người dân qua Zalo, cung cấp dịch vụ trực tuyến; cài đặt các hệ thống cảm biến, camera theo dõi các chỉ số phát triển kinh tế – xã hội… để có thông tin trực tuyến…

Nguồn Báo Tuyên Quang Online

Thủ tướng Phạm Minh Chính gửi thông điệp của Chính phủ về đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia

(Chinhphu.vn) – Sáng ngày 10/10, tại Hà Nội, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, dự chương trình Ngày Chuyển đổi số quốc gia.

Ngày 22/4/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 505/QĐ-TTg về Ngày Chuyển đổi số quốc gia, lấy ngày 10 tháng 10 hằng năm là Ngày Chuyển đổi số quốc gia. Năm 2022 là năm đầu tiên Ngày Chuyển đổi số quốc gia được tổ chức.

Cổng Thông tin điện tử Chính phủ trân trọng giới thiệu phát biểu của Thủ tướng Phạm Minh Chính – thông điệp của Chính phủ nhân Ngày Chuyển đổi số quốc gia năm 2022.

Thủ tướng Phạm Minh Chính gửi thông điệp của Chính phủ về đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia - Ảnh 1.

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Chúng ta tin tưởng rằng, công cuộc chuyển đổi số quốc gia sẽ có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất và hiệu quả, vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, người dân được ấm no, hạnh phúc! – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thưa các vị đại biểu, khách quý!

Hôm nay, hưởng ứng Ngày Chuyển đổi số quốc gia, tôi rất vui mừng tham dự “Chương trình chào mừng Ngày Chuyển đổi số quốc gia năm 2022″. Đây là sự kiện quan trọng, được tổ chức lần đầu tiên, thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển nền kinh tế số, xã hội số và công dân số.

Trước hết, thay mặt Chính phủ, tôi xin gửi tới quý vị đại biểu, khách quý lời chào trân trọng, lời thăm hỏi ân cần và lời chúc mừng tốt đẹp nhất.

Thưa các vị đại biểu, khách quý!

Cùng với xu thế chuyển đổi xanh, chuyển đổi số là xu thế tất yếu, khách quan đang diễn ra rất mạnh mẽ, sâu rộng và hằng ngày. Chuyển đổi số góp phần phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại, nguồn lực bên trong và bên ngoài, giúp giải quyết hiệu quả các mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; thực hiện 3 đột phá chiến lược về thể chế, hạ tầng và nguồn nhân lực; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh; hạ giá thành sản phẩm; giảm thủ tục hành chính, phiền hà, thời gian, chi phí cho người dân, doanh nghiệp; giúp chính quyền các cấp nâng cao năng lực quản lý, điều hành hiệu quả.

Đảng, Nhà nước ta rất coi trọng và xem chuyển đổi số là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu: Coi chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề cập tới việc chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số trong các mục tiêu, quan điểm phát triển và đột phá chiến lược. Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh yêu cầu cấp bách đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 của Chính phủ triển khai theo hướng chuyển đổi số một cách toàn diện với sự tham gia của người dân, cộng đồng doanh nghiệp và cơ quan hành chính nhà nước.

Thưa các vị đại biểu, khách quý!

Thời gian qua, việc chuyển đổi số quốc gia của Việt Nam đã đạt được các kết quả tích cực: (1) Nhận thức và hành động về chuyển đổi số có nhiều chuyển biến; (2) Xây dựng chiến lược,  hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách được quan tâm chỉ đạo; (3) Hạ tầng số được tăng cường đầu tư, nhiều nền tảng số tiếp tục được phát triển; (4) Cơ sở dữ liệu tạo nền tảng cho Chính phủ số, công tác truyền thông được thúc đẩy; (5) Dịch vụ công trực tuyến triển khai ngày càng hiệu quả, sâu rộng; (6) An ninh, an toàn thông tin tiếp tục được chú trọng; (7) Nguồn lực về tài chính và nhân lực dành cho chuyển đổi số được tăng cường; (8) Tỉ trọng đóng góp của kinh tế số vào GDP ngày càng tăng.

Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tôi ghi nhận, biểu dương và đánh giá cao những nỗ lực, quyết tâm và những kết quả đạt được của các cấp, các ngành, các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và người dân, góp phần quan trọng vào công cuộc chuyển đổi số quốc gia của chúng ta.

Thưa các vị đại biểu, khách quý!

Kết quả ngày hôm nay mới chỉ là bước đầu, chúng ta vẫn còn nhiều việc phải làm phía trước. Để thực hiện được chuyển đổi số quốc gia một cách hiệu quả, thực chất đòi hỏi chúng ta phải có chiến lược bài bản, thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, tạo sự thay đổi phương thức quản lý, vận hành, quản trị xã hội.

Quan điểm xuyên suốt của Chính phủ là lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là động lực, nguồn lực của chuyển đổi số. Chuyển đổi số phải để người dân, doanh nghiệp hưởng lợi từ dịch vụ công, tiện ích xã hội thuận tiện hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn và chính họ sẽ tạo ra nguồn lực cho sự phát triển. Nhân Ngày Chuyển đổi số quốc gia, tôi xin gửi tới các quý vị đại biểu, các vị khách quý, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và người dân THÔNG ĐIỆP CỦA CHÍNH PHỦ về đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia trong thời gian tới:

Thứ nhất: Tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách, triển khai hiệu quả Chiến lược chuyển đổi số quốc gia. Phát triển đồng bộ cả về thể chế, hạ tầng số, nền tảng số và nguồn nhân lực số. Triển khai các giải pháp nhằm nâng cao xếp hạng của Việt Nam về Chính phủ điện tử, Đổi mới sáng tạo và Năng lực cạnh tranh toàn cầu theo tiêu chí của các tổ chức quốc tế.

Thứ hai: Nâng cao tỉ lệ thủ tục hành chính xử lý trực tuyến. Tăng cường chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến, nâng cao mức độ hài lòng của người dân. Tập trung triển khai Đề án Phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030 mang lại lợi ích thiết thực cho người dân. Tránh mọi tư duy cát cứ thông tin, số liệu, dữ liệu, cục bộ, sợ mất lợi ích và va chạm.

Thứ ba: Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực số gắn với đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ. Chú trọng đào tạo kỹ năng số gắn với thị trường và đáp ứng yêu cầu của chuyển đổi số quốc gia.

Thứ tư: Các doanh nghiệp cần đẩy nhanh việc đưa hoạt động sản xuất, kinh doanh lên môi trường số, thiết lập các kênh cung cấp dịch vụ số hiệu quả, nhất là thương mại điện tử, thanh toán trực tuyến… Đẩy mạnh đầu tư phát triển hạ tầng số, nhất là hạ tầng số dùng chung; chú trọng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển; tăng cường hợp tác quốc tế trong chuyển đổi số. Đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người dân và doanh nghiệp.

Thứ năm: Tăng cường truyền thông về lợi ích của chuyển đổi số để các cơ quan quản lý nhà nước, người dân, doanh nghiệp hiểu rõ về lợi ích và hiệu quả của chuyển đổi số, tích cực tham gia và thụ hưởng các lợi ích mà chuyển đổi số mang lại. Đẩy mạnh hướng dẫn, hỗ trợ người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến, các tiện ích, dịch vụ số an toàn, hiệu quả.

Thưa các vị đại biểu, khách quý!

Với quyết tâm và sự chủ động, sáng tạo của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân thời gian qua, chúng ta tin tưởng rằng, công cuộc chuyển đổi số quốc gia sẽ có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng, hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế – xã hội năm 2022 và Kế hoạch 05 năm 2021-2025, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất và hiệu quả, vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, người dân được ấm no, hạnh phúc!

Chúc các quý vị đại biểu, các vị khách quý sức khỏe, hạnh phúc và thành công!

Xin trân trọng cảm ơn!

Nguồn: baochinhphu.vn

Đẩy mạnh hoạt động dịch vụ khoa học dịch vụ dựa trên nhu cầu của khu vực kinh tế tập thể

Viện Khoa học công nghệ và môi trường tổng kết công tác năm 2022, phương hướng nhiệm vụ năm 2023:

Ngày 16/1, Viện Khoa học Công nghệ và Môi trường, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã tổ chức tổng kết công tác năm 2022 và triển khai nhiệm vụ năm 2023. Tới dự Hội nghị có Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Lê Văn Nghị, đại diện lãnh đạo các Ban, đơn vị của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.

Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Lê Văn Nghị phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị

Trong năm 2022, các mặt hoạt động của Viện Khoa học công nghệ và môi trường (Liên minh Hợp tác xã Việt Nam) được triển khai đều trên các nội dung về khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường, sự nghiệp kinh tế của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam giao, kết quả được xác nhận cụ thể trên khối lượng, chất lượng công việc của các đề tài, dự án các cấp theo đúng tiến độ. Công tác thi đua khen thưởng hàng năm được thực hiện đúng theo quy định của Nhà nước và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.

Toàn cảnh Hội nghị

Cụ thể, về công tác tham mưu xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường khu vực kinh tế tập thể (KTTT), hợp tác xã (HTX), trong năm 2022, Viện Khoa học công nghệ và môi trường đã tích cực phối hợp với Ban Kế hoạch hỗ trợ và các ban tham mưu, các đơn vị của Liên minh  Hợp tác xã Việt nam xây dựng kế hoạch phát triển khoa học công nghệ, nhiệm vụ bảo vệ môi trường cho khu vực KTTT, HTX giai đoạn 2021-2025. Đồng thời, tập trung đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ cho khu vực KTTT, HTX theo hướng phát triển xanh, tuần hoàn và ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số, phát triển sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị, gắn liền với công tác quản lý, bảo vệ môi trường sinh thái.

Về chức năng nhiệm vụ được giao, Viện Khoa học công nghệ và môi trường hoàn thành tốt các nhiệm vụ trọng tâm như: Hoàn thiện các đề tài, nhiệm vụ chuyển tiếp; xây dựng Đề xuất, thuyết minh nhiệm vụ cấp ngành, cấp nhà nước; Tư vấn, hỗ trợ KHCN và BVMT cho khu vực KTTT, HTX; Phối hợp với Liên minh HTX tỉnh, thành phố; Phát triển mở rộng lĩnh vực hoạt động. Cũng như hoàn thành tốt Công tác tổ chức cán bộ; Công tác đoàn thể, chính trị; Công tác công đoàn và đoàn thanh niên; Công tác thi đua khen thưởng;….

Trên cơ sở các nhiệm vụ trọng tâm của BCH Liên minh HTX Việt Nam nhiệm kỳ 2020-2025, các Chương trình, nhiệm vụ, đề án, kế hoạch của Thường trực Liên minh HTX Việt Nam, năm 2023, Viện Khoa học công nghệ và môi trường tập trung thực hiện các công tác trọng tâm như: Bám sát điều lệ của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và hệ thống các văn bản của chính phủ hướng dẫn thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường, định hướng mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và thực trạng hoạt động của khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã… để thực hiện công tác tham mưu xây dựng kế hoạch, triển khai nhiệm vụ theo theo yêu cầu của Thường trực; Kiện toàn bộ máy tổ chức, thực hiện nhiệm vụ theo chức năng; Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động dịch vụ khoa học dịch vụ dựa trên nhu cầu của khu vực kinh tế tập thể và phù hợp với năng lực của Viện; Đẩy mạnh hợp tác trong nước và quốc tế; Tăng cường công tác thông tin truyền thông về kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ;….

Tin: Lê Huy 

Ảnh: Viện KHCN & MT

Kinh tế tập thể với mô hình hợp tác xã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân

Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, khu vực kinh tế tập thể nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Nhận thức về phát triển kinh tế tập thể, mà trọng tâm là hợp tác xã trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân được nâng lên. Chính sách, pháp luật về kinh tế tập thể được quan tâm xây dựng, hoàn thiện phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Hợp tác xã đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi sang mô hình kiểu mới theo quy định của pháp luật. Số lượng hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập mới tăng đáng kể, phát triển đa dạng hơn về ngành nghề, quy mô và trình độ, hỗ trợ tốt hơn cho các thành viên, tạo việc làm và nâng cao thu nhập thường xuyên cho người lao động. Tổ hợp tác với cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, nội dung hoạt động đơn giản nhưng thiết thực, đáp ứng tốt hơn nhu cầu liên kết linh hoạt và mang tính ngắn hạn của người dân. Liên kết giữa các hợp tác xã với nhau, với doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác bước đầu phát triển. Khu vực kinh tế tập thể cơ bản đã khắc phục được tình trạng yếu kém kéo dài, góp phần xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, từng bước khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.

LịỊch sử hình thành

Ngày 11/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư­ gửi điền chủ nông gia Việt Nam kêu gọi tham gia hợp tác xã nông nghiệp. Sau lời kêu gọi của Ngư­ời, hàng loạt cơ sở kinh tế hợp tác đ­ược thành lập và các hợp tác xã phát triển mạnh mẽ vào những năm 50-60 của thế kỷ XX. Cùng với quá trình phát triển của phong trào hợp tác xã ở Việt Nam, các cơ quan quản lý, tổ chức đại diện và hỗ trợ cho các hợp tác xã cũng từng bước được  thành và phát triển.

Năm 1955, Ban quản lý hợp tác xã mua bán Việt Nam được thành lập. Đến năm 1961 thành lập Liên hiệp xã tiểu thủ công nghiệp Việt Nam. Đây là hai tổ chức cấp quốc gia quản lý, đại diện, hỗ trợ các hợp tác xã mua bán và tiểu thủ công nghiệp trên quy mô cả nước.

Ngày 18/12/1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ra Quyết định số 409/CT thành lập Hội đồng Trung ương lâm thời các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam trên cơ sở hợp nhất Liên hiệp Hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp Trung ương và Ban quản lý hợp tác xã mua bán Việt Nam.

Ngày 30/10/1993, Đại hội đại biểu toàn quốc các hợp tác xã Việt Nam lần thứ nhất được tiến hành. Đại hội đã thông qua Điều lệ Hội đồng Trung ương Liên minh các hợp tác xã Việt Nam là tổ chức hỗ trợ, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích cho các hợp tác xã thuộc các lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, thương mại dịch vụ, xây dựng và các ngành nghề phi nông nghiệp khác. Điều lệ của Hội đồng Liên minh hợp hợp tác xã Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ chuẩn y tại Quyết định số 582-TTg/QĐ ngày 01/12/1993. Đến nay, Điều lệ của Liên minh hợp tác xã Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ chuẩn y tại Quyết định số 105/QĐ-TTg ngày 24/01/2017.

Kinh tế tập thể, HTX phát triển ngày càng mạnh mẽ

Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác thành lập mới tăng ở tất cả các tỉnh, thành phố và một số nơi vượt chỉ tiêu đề ra; một số sáng lập viên trẻ khởi nghiệp qua mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

9 tháng đầu năm 2022, cả nước thành lập mới 1.396 HTX, cao hơn 89 HTX so với cùng kỳ năm 2021, đạt 93,1% chỉ tiêu kế hoạch năm 2022 (1.091 HTX nông nghiệp (78,2%); 305 HTX phi nông nghiệp (21,8%)). Phân theo vùng kinh tế, Đông Bắc, 321 HTX (23%); Tây Bắc, 254 HTX (18,2%); Đồng bằng sông Cửu Long, 180 HTX (12,9%); Đồng bằng sông Hồng, 171 HTX (12,25%); Bắc Trung Bộ, 152 HTX (10,89%); Tây Nguyên, 150 HTX (10,74%); Đông Nam Bộ, 105 HTX (7,52%); Duyên hải miền Trung, 63 HTX (4,5%). Tại một số địa phương, tỷ lệ cao các sáng lập viên trẻ, nhiệt huyết, có kiến thức, trình độ về các lĩnh vực khởi nghiệp qua mô hình THT, HTX, LHHTX. Số lượng HTX, LHHTX, THT thành lập mới và hộ cá thể, cá nhân tham gia thành viên tăng khá ở hầu hết các tỉnh, thành phố, nhất là lĩnh vực nông nghiệp và địa bàn nông thôn, cho thấy mô hình kinh tế tập thể phù hợp với nhu cầu tổ chức sản xuất của người dân.

Cả nước giải thể 269 HTX[1] (210 HTX nông nghiệp và 59 HTX phi nông nghiệp), tăng 61 HTX so với cùng kỳ năm 2021; trong đó Đông Bắc (86 HTX), Đồng bằng sông Cửu Long (50 HTX), Bắc Trung Bộ (30 HTX), Tây Bắc (31 HTX), Tây Nguyên (28 HTX), Đông Nam Bộ (16 HTX), Duyên hải miền Trung (16 HTX), Đồng bằng sông Hồng (12 HTX).

Hiện cả nước có 28.452 HTX, tăng 1.127 HTX so với cuối năm 2021 (18.974 HTX nông nghiệp (66,7%); 8.297 HTX phi nông nghiệp (29,2%); 1.181 Quỹ tín dụng nhân dân (4,1%)). Trong đó, Đồng bằng sông Hồng 7.109 HTX (24,98%), Đông Bắc có 5.087 HTX (17,88%), Bắc Trung bộ 4.216 HTX (14,82%), Đồng bằng sông Cửu Long 3.320 HTX (11,67%), Tây Bắc 3.005 HTX (10,56%), Đông Nam Bộ 2.230 HTX (7,84%), Tây Nguyên 1.909 HTX (6,71%), Duyên hải miền Trung 1.576 HTX (5,54%).

Khu vực HTX thu hút trên 6,92 triệu thành viên (tăng 90.929 thành viên so với cuối năm 2021) và 2,56 triệu lao động (tăng 59.993 lao động so với cuối năm 2021). Tổng vốn điều lệ đạt trên 53,8 nghìn tỷ đồng, trung bình gần 1,9 tỷ đồng/HTX. Tổng giá trị tài sản đạt trên 187,1 nghìn tỷ đồng (tăng khoảng 2% so với cuối năm 2021).

Các loại hình hợp tác xã phục hồi sản xuất kinh doanh sau thời kỳ dài dịch bệnh Covid-19 diễn ra phức tạp, kéo dài, hoàn thiện các chuỗi giá trị sản phẩm địa phương, vùng, quốc gia; góp phần ổn định giá cả, thị trường cung ứng sản phẩm, tạo việc làm, ổn định kinh tế xã hội khu vực nông thôn và đô thị

9 tháng đầu năm, dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát; tỷ lệ cao các loại hình hợp tác xã phục hồi sản xuất kinh doanh sau thời kỳ dài dịch bệnh Covid-19 diễn ra phức tạp; phục hồi dần trong đầu quý II, phục hồi nhanh, mạnh trong cuối quý II tới đầu quý III, hiện duy trì tính ổn định và phát triển bền vững. Tuy doanh thu và lợi nhuận chưa thực cao và ổn định bền vững nhưng tỷ lệ cao các HTX đã chú trọng thực hiện tốt các khâu dịch vụ cơ bản hỗ trợ các thành viên, hướng dẫn thành viên sản xuất theo đúng kế hoạch, mở rộng các khâu dịch vụ và nâng cao chất lượng hoạt động của HTX, tạo việc làm, nâng cao thu nhập thành viên.

Nhiều HTX nông nghiệp ở các tỉnh, thành phố phục hồi nhờ mạnh dạn đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi (lúa kết hợp hoặc chuyển sang trồng rau, củ quả, cây ăn quả, nuôi thủy sản; áp dụng sáng tạo các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, công nghệ cao để tăng năng suất và nâng cao chất lượng sản phẩm đạt các tiêu chuẩn chất lượng (VietGap, hữu cơ, GlobalGap, JAS,…); chủ động, tích cực trong nâng cao năng lực, khả năng cạnh tranh thông qua đổi mới hệ thống quản trị gắn với ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng các phần mềm quản lý, chuyển đổi số trong quản lý tổ chức sản xuất từ đầu vào tới sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong nước và xuất khẩu qua các kênh bán hàng; để thích ứng với thị trường nhằm vượt qua những tác động mạnh sau dịch Covid-19; hoàn thiện các chuỗi giá trị sản phẩm địa phương, vùng, quốc gia; phát triển mở rộng gắn với quy hoạch vùng sản xuất; nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ thành viên; đẩy mạnh liên kết các thành viên và các HTX, doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế. Một số HTX nông nghiệp có sản phẩm xuất khẩu; một số HTX có doanh thu tăng 6,7-19,2% so với cùng kỳ năm 2021; thu nhập bình quân tăng, đạt 350-450 triệu đồng/ha; như HTX nông nghiệp & phát triển nông thôn Hưng Thành ở xã Hưng Khánh, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái đã liên kết thành công với HTX Măng tre Bát Độ (Hưng Khánh, tỉnh Yên Bái) và Công ty TNHH YAMAZAKY trong việc trồng, chăm sóc, thu mua, chế biến và xuất khẩu ổn định sang thị trường Nhật Bản, HTX nông sản hữu cơ Trúc Phương (Thanh Hóa), HTX công nghệ cao Kim Long (Bình Dương), HTX Sunfood (Đà Lạt),… Xuất hiện nhiều mô hình hiệu quả trong trồng cây dược liệu, mô hình du lịch sinh thái cộng đồng (sản xuất nông nghiệp kết hợp bảo vệ thiên nhiên, đa dạng sinh học, cung ứng dịch vụ nhà hàng, du lịch trải nghiệm,…), phát triển mô hình cánh đồng mẫu lớn gắn với sản xuất hàng hóa chất lượng cao, như HTX nông nghiệp và du lịch bền vững Hội An (Quảng Nam), HTX du lịch sinh thái cộng đồng Hướng Hóa (Quảng Trị). Số lượng sản phẩm của HTX được chứng nhận OCOP tăng, chiếm tỷ trọng cao so với tổng sản phẩm OCOP của địa phương, Đắk Nông có 16 HTX và 19 sản phẩm (cà phê, hồ tiêu, chanh dây,…); Hà Tĩnh có 62 HTX và 82 sản phẩm (nước mắm, rượu nhung hươu, hương trầm, bưởi phúc trạch, cam Khe mây,..),…; HTX Đông Xuyên tại Tiền Hải (Thái Bình) có sản phẩm trứng và thịt vịt đạt OCOP 4 sao.

Các HTX phi nông nghiệp phục hồi mạnh mẽ sản xuất kinh doanh. HTX thương mại, dịch vụ đổi mới phương thức kinh doanh, nâng cao chất lượng dịch vụ, bám sát nhu cầu thị trường, đa dạng hóa sản phẩm hàng hóa; tổ chức các loại hình dịch vụ, liên kết duy trì ổn định đảm bảo nguồn hàng trong cung ứng nguyên liệu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đầu ra đối với các HTX, nhất là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. HTX vận tải đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ thành viên trong tư vấn, một số mở rộng lĩnh vực hoạt động xe buýt, vệ sinh môi trường; phục hồi đăng ký lưu hành, bến bãi, luồng tuyến; đầu t­­ư đổi mới, nâng cấp phương tiện hiện đại; lắp đặt hệ thống định vị GPS; đáp ứng quy định, yêu cầu, nhu cầu vận chuyển hành khách và hàng hóa; tuyên truyền, cung cấp các văn bản pháp luật an toàn giao thông để thành viên áp dụng thực hiện; đổi mới phương thức quản lý và phong cách phục vụ hành khách. HTX xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng đã tập trung huy động vốn, đầu tư phương tiện vận tải, máy móc, thiết bị thi công, nâng cao công tác quản lý đầu tư để mở rộng khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng và thi công các công trình xây dựng; năng động trên thị trường để tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập cho thành viên. HTX vệ sinh môi trường đã làm tốt thu gom, vận chuyển rác thải trên địa bàn; mô hình HTX chợ hoạt động ổn định[3], tạo việc làm cho thành viên và người lao động. Quỹ tín dụng nhân dân phát triển thành viên mới, tăng dư nợ và hiệu quả cho vay; HTX và LHHTX thương mại tăng doanh thu hơn 25% so với cùng kỳ năm 2021. Tiêu biểu, HTX sản xuất TM&DV nông nghiệp Phì Điền (Lục Ngạn, Bắc Giang) ngoài việc thu mua, tiêu thụ 500 tấn vải tươi qua hệ thống siêu thị: Winmart, LotteVina, T-Mart và sàn TMĐT Postmart.vn, hợp đồng với Công ty TNHH Tiến Dung (Đồng Nai), cung ứng vải khô vào các tỉnh phía Nam với sản lượng khoảng 100 tấn, liên kết với Công ty cổ phần nông nghiệp hữu cơ FUSA (Hải Dương) xuất khẩu sản phẩm tươi sang thị trường Trung Đông, Nhật Bản và xuất vải thiều khô sang Đài Loan.

Các LHHTX tạo việc làm ổn định cho thành viên và người lao động, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ theo nhu cầu của thành viên và thị trường; liên kết giữa các HTX thành viên với các doanh nghiệp, tập đoàn lớn; thực hiện tốt khâu tổ chức sản xuất, tìm thị trường tiêu thụ cho các HTX thành viên như: LHHTX thương mại TP. Hồ Chí Minh (Saigon Coop), SATRA, HTX liên kết chuỗi CocoFood (Hải Dương).

Nhiều chủ trương của Đảng, nhà nước, các Bộ, ban ngành địa phương đã tạo điều kiện quan trọng, hỗ trợ khu vực KTTT tiếp tục phát triển và đột phá hơn trong thời gian tới; một số cơ chế, chính sách có quy định đối tượng HTX nhằm hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh, sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm trong điều kiện phòng, chống dịch và phục hồi, phát triển kinh tế xã hội

Ở Trung ương, nhiều chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, Bộ, ngành về phát triển KTTT, HTX, thể hiện quan điểm nhất quán trong phát triển, tạo điều kiện quan trọng, hỗ trợ khu vực KTTT tiếp tục phát triển và đột phá hơn trong thời gian tới như Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT trong giai đoạn mới. Bên cạnh đó, các chính sách phục hồi kinh tế trong đó có đối tượng thụ hưởng là HTX được ban hành; Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội; Nghị định số 15/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ.

Một số văn bản, chính sách hỗ trợ của Chính phủ, tháo gỡ khó khăn để phục hồi sản xuất, kinh doanh, trong đó có đối tượng thụ hưởng là HTX, chế độ hỗ trợ, ưu đãi như: lĩnh vực tín dụng (Nghị định số 31/2022/NĐ-CP, Nghị định số 28/2022/NĐ-CP, Thông tư số 03/2022/TT-NHNN); thuế (Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15, Nghị định số 34/2022/NĐ-CP); chế độ tiền lương (Nghị định số 38/2022/NĐ-CP ngày 12/6/2022); tiền thuê nhà (Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg); nông nghiệp, nông thôn, bảo hiểm nông nghiệp (Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/01/2022, Quyết định số 13/2022/QĐ-TTg); vận tải (Nghị định số 47/2022/NĐ-CP); chương trình quốc gia (Quyết định số 919/QĐ-TTg ngày 01/8/2022, Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày 02/8/2022, Quyết định số 924/QĐ-TTg ngày 02/8/2022); chương trình mục tiêu quốc gia (Nghị định số 28/2022/NĐ-CP ngày 26/4/2022, Quyết định số 277/QĐ-TTg ngày 25/2/2022);…

Một số Bộ, ngành ban hành văn bản như: Quyết định số 4292/QĐ-TLĐ ngày 01/3/2022 của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam về việc dừng thực hiện Quyết định số 3749/QĐ-TLĐ ngày 15/12/2021 về chi hỗ trợ cho đoàn viên, người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19; Thông tư số 15/2022/TT-BTC ngày 04/3/2022 của Bộ Tài chính về quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025; Thông tư 27/2022/TT-BTC ngày 11/05/2022 của Bộ trưởng Bộ Tài chính bãi bỏ quyết định số 59/2007/QĐ-BTC ngày 11/7/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX; Thông tư 03/2022/TT-NHNN ngày 20/5/2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành hướng dẫn Nghị định 31/2022/NĐ-CP hỗ trợ lãi suất với khoản vay của doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh; Thông tư số 52/2022/TT-BTC ngày 12/8/2022 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều của Nghị định số 45/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 03 năm 2021 của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã;…

Khu vực KTTT, HTX tích cực trong tuyên truyền, thực hiện nghiêm túc các biện pháp phòng chống dịch bệnh Covid-19; phố biến những văn bản, quy định về phát triển kinh tế tập thể, phục hồi kinh tế có đối tượng thụ hưởng HTX. Đến nay, 92,7% thành viên, người lao động của THT, HTX, LHHTX được tiêm ít nhất 02 mũi vắc xin, 42,3% được tiêm trên 03 mũi vắc xin, 21,2% đã được tiêm 04 mũi vắc xin. Theo khảo sát; 81% tổng số HTX nông nghiệp, thủy sản nuôi trồng bị ảnh hưởng bởi Covid-19 được giảm 30% tiền thuê đất, thuê mặt nước; hơn 100.000 lao động trong khu vực HTX được hỗ trợ 72 tỷ đồng tiền thuê nhà; 78,2% tổng số HTX và người lao động trong HTX được gia hạn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân,…; 11,4% tổng số HTX được giảm thuế giá trị gia tăng; 71,6% tổng số HTX, trong đó 100% HTX vận tải được giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu; các HTX vay vốn tại ngân hàng thương mại được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ; một số HTX nông nghiệp, vận tải, du lịch vay vốn tại ngân hàng thương mại được giảm lãi suất 2%; 220 HTX, LHHTX vay vốn ưu đãi của Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX Việt Nam và các Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX tỉnh, thành phố để phục hồi, mở rộng sản xuất, kinh doanh[4]; 400.000 lao động trong các HTX, LHHTX (có hợp đồng lao động và đóng bảo hiểm) bị ảnh hưởng bởi Covid-19 được hỗ trợ từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp 204 tỷ đồng.

Các HTX, LHHTX chủ động nắm bắt các chủ trương, định hướng, tập trung sản xuất, liên kết và đẩy nhanh các điều kiện trong chuyển đổi số, sản xuất hữu cơ, phát triển mô hình gắn với kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, kinh tế chia sẻ; phù hợp nội dung Nghị quyết 20-NQ/TW; xu hướng và chiến lược phát triển bền vững của nền kinh tế; phối hợp các Bộ, Sở, ngành tham gia đề xuất, kiến nghị sửa đổi Luật HTX năm 2012

Theo khảo sát, 65% HTX, LHHTX sử dụng các nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin, phần mềm quản trị dữ liệu trong hoạt động đầu vào, đầu ra,…; truy xuất thông tin, nguồn gốc sản phẩm; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, quỹ tín dụng nhân dân ứng dụng công nghệ số mang lại hiệu quả, liên kết chuỗi giá trị và được Nhà nước, các tổ chức trong, ngoài nước hỗ trợ, tiêu thụ sản phẩm thông qua thương mại điện tử, sàn bán hàng điện tử của Liên minh HTX Việt Nam. HTX vận tải đầu tư thiết bị, phần mềm để quản trị hành trình, khách hàng và vận chuyển hàng hóa, tích hợp thanh toán tự động không dừng; HTX thương mại đầu tư mở rộng kho và cửa hàng, thiết bị ứng dụng phần mềm bán hàng, quản lý nhập, xuất hàng hóa. Các HTX có website riêng để giới thiệu sản phẩm (38,9%); bán hàng trên các sàn thương mại điện tử như Tiki, Lazada, Shopee,… (20,8%); quảng cáo sản phẩm trên các trang mạng xã hội, trang quảng cáo (50,5%); bán hàng theo hình thức trực tuyến livetream trên các nền tảng số như Facebook, Tiktok… (28,3%).

Nhiều loại hình hợp tác xã phát triển mạnh mẽ từ nhận thức tới hành động, triển khai ở nhiều địa phương, vùng miền, hướng sản xuất những sản phẩm đi từ nhu cầu thực tiễn của người tiêu dùng, hầu hết hướng sản xuất theo các chuỗi giá trị sản phẩm; tham gia các hội thảo, tọa đàm từ các Bộ, Sở, ngành, góp ý xây dựng dự thảo Luật HTX sửa đổi năm 2012. Xu hướng chuyển đổi số, sản xuất hữu cơ, phát triển các mô hình gắn với kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, kinh tế chia sẻ. Một số mô hình HTX nông nghiệp, HTX du lịch gắn kết sản xuất nông nghiệp đã thực hiện kinh tế tuần hoàn trong quá trình sản xuất, thu gom, phân loại các chất thải, phế phụ phẩm; tái sử dụng chất thải, làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất thông qua việc áp dụng công nghệ sinh học, công nghệ hóa lý, các tiến bộ khoa học kỹ thuật; thực hiện quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường cho phát triển bền vững trong bối cảnh của thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu, phù hợp định hướng của quốc gia trong phát triển bền vững. Mô hình phổ biến vườn – ao – chuồng (VAC) tại HTX nông nghiệp Mai Pha Land (Mai Pha, Lạng Sơn), HTX Hoằng Đạo (Thanh Hóa); mô hình lúa – tôm, lúa – cá; HTX nông nghiệp và du lịch bền vững Hội An (Heal Organic Farm) phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp xanh.

Cổng Thông tin VCA