Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình quan trọng của cơ quan Liên minh Hợp tác xã Việt Nam

Chiều ngày 5/01, cơ quan Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tổ chức “Hội nghị đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Thường trực tháng 12/2021 và triển khai nhiệm vụ tháng 01/2022”. Hội nghị được tổ chức dưới hình thức trực tiếp và trực tuyến. Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chủ trì Hội nghị.

Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tại Hội nghị

Phát biểu khai mạc Hội nghị, ông Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam thông tin, trong tháng cuối năm 2021, thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Liên minh HTX Việt Nam, Thông báo kết luận số 896/TB-LMHTXVN ngày 8/12/2021; Thường trực Liên minh HTX Việt Nam đã tập trung chỉ đạo hệ thống Liên minh HTX Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị toàn quốc Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 và Tổng kết 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012 trong lĩnh vực phi nông nghiệp; tiếp tục triển khai các hoạt động hỗ trợ thành viên khôi phục sản xuất kinh doanh; các Cụm, khối thi đua của hệ thống triển khai tổng kết công tác năm 2021. Song song với đó là thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ ban hành quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19″.

Bên cạnh việc tổ chức thành công Hội nghị toàn quốc Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 và Tổng kết 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012 trong lĩnh vực phi nông nghiệp theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến tại 64 điểm cầu trên toàn quốc, công tác chỉ đạo, điều hành của Thường trực Liên minh Hợp tác xã Việt Nam vẫn được duy trì, diễn ra nhanh chóng, hiệu quả. Phối hợp Ủy ban Dân tộc tổ chức thành công Lễ Ký kết Chương trình phối hợp với Ủy ban Dân tộc giai đoạn 2021-2025 và chuyển tiếp giai đoạn 2026-2030; Thực hiện tốt và tham gia các hoạt động về phòng, chống dịch Covid-19; tiếp tục triển khai có hiệu quả Chương trình số 503/CTr-LMHTXVN và các công việc khác theo Công văn số 630/LMHTXVN-CSPT ngày 15/9/2021 về triển khai thực hiện Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 9/9/2021 của Chính phủ…

Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, cơ quan Liên minh Hợp tác xã Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì và thực hiện tốt các công tác như tích cực phối hợp với các bộ, ngành cơ quan, tổ chức tham gia xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược, kế hoạch, dự án, đề án liên quan đến phát triển KTTT, HTX; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thông tin gắn với phong trào thi đua đẩy mạnh phát triển KTTT, HTX; Tư vấn hỗ trợ, cung ứng dịch vụ nhất là tiêu thụ sản phẩm cho thành viên. Bên cạnh đó, tiếp tục cơ cấu tổ chức bộ máy, hoàn thiện quy định nội bộ của cơ quan Liên minh HTX Việt Nam; thực hiện Công tác kế hoạch, nghiên cứu khoa học; Hoạt động của Ủy ban kiểm tra và công tác kiểm tra…

Trong tháng 12 vừa qua, với hoạt động của Ủy ban kiểm tra và công tác kiểm tra, cơ quan Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã tổ chức các đoàn kiểm tra, giám sát tại 08 Liên minh HTX tỉnh, thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Bình Định, Phú Yên, Nghệ An, Thanh Hóa, Lào Cai, Yên Bái. Song song với đó tiếp tục hoàn thiện nội dung mẫu phiếu khảo sát đánh giá mức độ hài lòng của HTX đối với cấp uỷ, chính quyền địa phương; Tiếp tục kiểm tra Công ty TNHH Nhà nước MTV Đầu tư, Thương mại và Du lịch Thắng Lợi; Triển khai Kế hoạch số 758/KH-LMHTX ngày 26/10/2021 của Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam về việc thực hiện giám sát, báo cáo Đoàn giám sát Quốc hội việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016 – 2021…

Trong công tác hợp tác quốc tế, cơ quan Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã tổng hợp, hoàn thiện các Biên bản ghi nhớ giữa VCA và Satake Nhật Bản, Thỏa thuận hợp tác giữa Liên minh HTX Việt Nam và Công ty cổ phần Sorimachi Nhật Bản, tiếp tục làm việc với một số tổ chức như làm việc về phương án hợp tác với Satake và đề xuất hợp tác của PGS Trần Đăng Xuân; tiếp và chia tay TGĐ Ngân hàng Nonghuyp Bank tại Hà Nội nhân dịp kết thúc nhiệm kỳ, đại diện Ban Hợp tác quốc tế báo cáo.

Theo đánh giá của ông Phạm Ngọc Toại, Chánh Văn Phòng Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trên cơ sở các nhiệm vụ theo các Nghị quyết của Ban Chấp hành, Thường trực Liên minh HTX Việt Nam; Thông báo số 896/TB-LMHTXVN ngày 8/12/2021; tháng 12/2021, Thường trực Liên minh HTX Việt Nam đã chỉ đạo các ban, đơn vị trực thuộc triển khai hoàn thành các công việc quan trọng, trọng điểm trong tháng.

Một số các công việc trọng tâm được Chủ tịch Nguyễn Ngọc Bảo nhấn mạnh tại phần kết luận Hội nghị, cần thực hiện trong thời gian tới như: Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW và Tổng kết 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012, dự kiến trung tuần tháng 01/2022 với các điểm cầu tại trụ sở Văn phòng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương; Chuẩn bị nội dung và điều kiện làm việc với Ban Dân vận Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương; chuẩn bị tổ chức Lễ ký kết chương trình phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương theo các kế hoạch đã được ban hành; Tổ chức Hội nghị Ban Thường vụ lần thứ 4, Ban Chấp hành Liên minh HTX Việt Nam lần thứ 4; chuẩn bị điều kiện tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác Đảng, cơ quan Liên minh HTX Việt Nam vào ngày 21/01/2022; Tiếp tục triển khai có hiệu quả các kế hoạch, chương trình của Ban Chấp hành Liên minh HTX Việt Nam về Điều lệ, Chương trình 503…; hoàn thành bổ sung vốn điều lệ cho Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX và  ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai Nghị định số 45/NĐ-CP về Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX…

Nguồn: VCA

‘Siêu Hiệp định’ RCEP sẽ mở cuộc chơi mới cho doanh nghiệp Việt

Trong bối cảnh COVID-19, việc có thêm một công cụ là Hiệp định RCEP để thâm nhập thị trường, tức là thêm một cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam sớm vượt qua được những khó khăn của dịch bệnh, tiếp tục phát triển vững mạnh trong tương lai.

Hiệp định RCEP gồm 10 quốc gia thành viên ASEAN cùng 5 quốc gia khác là Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand. Từ này 01/01/2021, RCEP chính thức có hiệu lực – hiệp định thương mại tự do lớn nhất thế giới, tạo ra thị trường chiếm gần 30% dân số thế giới (khoảng 2,2 tỷ người) và chiếm gần 30% GDP toàn cầu.

Những ngành nào sẽ hưởng lợi?

Theo Bộ Công Thương, Hiệp định RCEP sẽ mở thêm cơ hội cho doanh nghiệp (DN) Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu (XK), tham gia vào các chuỗi giá trị mới trong khu vực và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ mở ra cơ hội mới cho các sản phẩm từ các lĩnh vực nổi bật như viễn thông, công nghệ thông tin, dệt may, giày dép và nông nghiệp.

xuat-khau-nong-san-4791-1641200014.png

Hiệp định RCEP được kỳ vọng sẽ chấm dứt tình trạng xuất khẩu nông sản tiểu ngạch sang thị trường Trung Quốc. 

Nhờ vào việc hài hòa quy tắc xuất xứ trong Hiệp định RCEP, hàng hóa XK của Việt Nam có thể tăng khả năng đáp ứng điều kiện để hưởng ưu đãi thuế quan do nguồn cung nguyên liệu đầu vào chủ yếu đều nằm trong RCEP nhằm gia tăng khả năng XK trong khu vực này, đặc biệt ở các thị trường lớn như Nhật Bản, Úc, New Zealand, Hàn Quốc và Trung Quốc.

Phân tích rõ hơn, ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), cho biết khi có RCEP – Hiệp định mang tính đa phương với những quy tắc rõ ràng và có sự tham gia của nhiều nước, chúng ta hy vọng sẽ tạo được môi trường ổn định hơn để phát triển. Đơn cử vừa qua, chúng ta nhìn thấy rõ ràng những quan hệ thương mại với một đối tác láng giềng, nếu như không dựa trên những nguyên tắc mang tính ổn định, lâu dài và thương mại mang tính chính thức thì sẽ có nhiều rủi ro cho chuỗi cung ứng.

Hay quy định về kiểm dịch động thực vật, nếu như không có một quy tắc của nó thì một nước có thể đơn phương áp dụng quy tắc đó, điều này sẽ ảnh hưởng đến hàng nông sản của đối tác XK. Tuy nhiên, với quy tắc chung của Hiệp định RCEP được thừa nhận từ 15 nước thì những tiêu chuẩn đó mang tính ổn định hơn nhiều.

Vì vậy, ông Thái hy vọng lợi ích từ RCEP không phải chỉ là trực tiếp từ mở cửa thị trường mà cao hơn là thị trường ổn định, dễ dự báo hơn và DN có thể chuyển dần hướng từ XK không chính thức trước đây sang hệ thống chính thức cao hơn. Đây chính là mục tiêu lâu dài mà các nước tham gia hiệp định hướng tới.

Đơn cử, nếu biết tận dụng tốt RCEP, việc chuyển từ XK tiểu ngạch sang chính ngạch sẽ được đẩy mạnh hơn đối với hoạt động thương mại của Việt Nam – Trung Quốc, chấm dứt tình cảnh hàng nghìn container hàng hóa ùn ứ ở cửa khẩu Lạng Sơn, Quảng Ninh như thời gian gần đây.

Ở góc độ DN, Công ty CP thủy sản và thương mại Thuận Phước (Đà Nẵng) đặt mục tiêu đạt doanh thu năm 2022 là 150 triệu USD, theo đó Nhật Bản, Trung Quốc – là những thị trường thuộc khối RCEP được DN này kỳ vọng.

Ông Trần Văn Lĩnh, Chủ tịch Thuận Phước chia sẻ, DN tiếp tục hướng tới Nhật Bản vì đây là thị trường ổn định, an toàn về thanh toán tài chính. Song bất an lớn nhất là thị trường này đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm. Còn với Trung Quốc – đây là thị trường rất tiềm năng. Nhu cầu tiêu thụ lớn, thu nhập của người tiêu dùng Trung Quốc cao trong khi họ có xu hướng giảm diện tích nuôi trồng. Đây là cơ hội cho thủy sản Việt Nam.

Vì vậy, ông Lĩnh kỳ vọng, việc thực thi RCEP sẽ giúp ngành thủy sản tận dụng được cơ hội nhiều hơn từ thị trường này, xây dựng nền nông nghiệp có trách nhiệm, có kiểm soát, sản xuất hàng theo theo quy mô lớn.

“RCEP sẽ giúp thị trường này thay đổi trong phương thức nhập khẩu theo thông lệ quốc tế. Nếu theo luật chơi mới của quốc tế, DN Việt Nam sẽ có nhiều lợi thế”, ông Lĩnh cho hay.

Áp lực cạnh tranh sân nhà với ngành nông nghiệp

Viện Kinh tế quốc tế Peterson (Mỹ) ước tính, khi RCEP có hiệu lực có thể làm tăng thu nhập toàn cầu lên 186 tỷ USD mỗi năm đến năm 2030 và thêm 0,2% vào nền kinh tế của các quốc gia thành viên. Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam sẽ là những nước hưởng lợi chính của RCEP. 

Chỉ ra cơ hội từ RCEP, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Kinh tế tổng hợp (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương- CIEM, dẫn lại câu chuyện vừa qua hàng chục DN thủy sản Ấn Độ bị cấm XK sang Trung Quốc vì Hải quan nước này phát hiện virus SARS – CoV- 2 trên bao bì. “Chúng ta cũng thấy rằng Ấn Độ nằm ngoài RCEP, do vậy đây vừa thách thức nhưng cũng sẽ là cơ hội cho thủy sản Việt Nam mở rộng thị phần. Để tận dụng được điều này, DN Việt cần phải rút ra bài học từ các vụ việc, tránh vi phạm lại lỗi mà đối thủ gặp phải.

“Cơ hội không ung dung mà hưởng, chúng ta cần rút ra từ sự cố của đối tác để hoàn thiện bản thân. Kiểm soát bao gói của mình làm thế nào để tránh câu chuyện tương tự và tận dụng RCEP”, ông Dương nhìn nhận cuộc chơi hợp tác về thương mại, đầu tư trong RCEP gắn với cơ hội thách thức, chúng ta phải “gạn đục khơi trong” tìm kiếm từng cơ hội, xử lý từng thách thức một.

Hơn nữa, Bộ Công Thương cho biết, Hiệp định RCEP cũng mang lại sức ép cạnh tranh hàng hóa cho Việt Nam do nhiều đối tác trong RCEP có cơ cấu sản phẩm tương tự Việt Nam nhưng năng lực cạnh tranh, hàm lượng giá trị gia tăng cũng cao hơn so với khả năng hiện tại của Việt Nam.

Đặc biệt, Trung Quốc với lợi thế hàng hóa phong phú, giá rẻ cũng sẽ đặt ra những thách thức lớn đối với các mặt hàng nông, thủy sản của Việt Nam. Vì vậy, ngay cả khi mặt hàng nông, thủy sản là thế mạnh của ta nhưng cũng chính là thách thức cạnh tranh trong khu vực RCEP này.

Hay với thị trường Hàn Quốc, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên cho biết do có quan hệ đầu tư rất lớn nên phần nhiều là nhập nguyên vật liệu, máy móc, vì vậy nhập siêu có đóng góp cho quá trình phát triển của Việt Nam. Nhưng nếu lượng nhập siêu quá lớn và mang tính lâu dài thì cũng có thể có rủi ro nhất định.

Trước thách thức trên, ông Thái cho rằng không có một phương án chung dành cho tất cả DN trong tận dụng cơ hội hay vượt qua thách thức, thay vào đó DN cần phải chuẩn bị một cách chủ động.

“Tính chủ động đây không phải là chỉ từ cộng đồng DN mà cả cơ quan nhà nước phải hướng dẫn DN tận dụng cơ hội. Chỉ có sự tích cực và chủ động hơn, thì chúng ta mới có thể khai thác hiệu quả được những thị trường tiềm năng của RCEP”, ông Thái nhấn mạnh.

Theo bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập VCCI, trong bối cảnh COVID-19, việc có thêm hiệp định RCEP sẽ không tạo thêm thách thức, bởi không có hiệp định này thì DN Việt Nam cũng phải đối mặt với khó khăn, đó là những vấn đề luôn xảy ra thường trực. Trong khi có RCEP, chúng ta có thêm cơ hội, lợi thế để cạnh tranh tốt hơn. Thêm RCEP chính là thêm một cơ hội để doanh nghiệp Việt phục hồi và lớn mạnh sau đại dịch.

Anh-chup-Man-hinh-2022-01-03-l-7320-6402

Ông Trần Quốc Khánh

Thứ trưởng Bộ Công Thương

RCEP đi vào thực thi từ đầu năm 2022 sẽ tạo ra một khu vực thương mại tự do lớn, tạo ra chuỗi cung ứng mới trong khu vực và đây sẽ là nguồn cầu mới, động lực mới cho ngành dịch vụ logistics Việt Nam phát triển. Chưa kể, trong trung và dài hạn, Hiệp định này có thể tạo ra một chuỗi cung ứng mới trong khu vực. Khi xuất khẩu theo chuỗi cung ứng tăng, nguy cơ bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại sẽ thấp hơn. Để hỗ trợ các doanh nghiệp tận dụng cơ hội trong bối cảnh COVID-19, ngành Công Thương đã và đang triển khai nhiều phương thức xúc tiến thương mại mới, tận dụng nền tảng số, hỗ trợ doanh nghiệp khai thác được đơn hàng xuất khẩu.

Anh-chup-Man-hinh-2022-01-03-l-8423-2856

Ông Phạm Đình Đoàn

Chủ tịch Tập đoàn Phú Thái

Việt Nam liệu có trở thành hạt nhân mới của chuỗi cung ứng toàn cầu hay không, doanh nghiệp Việt Nam làm thế nào để vượt qua thách thức, nắm bắt được cơ hội phát triển từ các Hiệp định thương mại tự do, trong đó có RCEP là điều không hề đơn giản. Để gặt hái được thành công từ hội nhập cần có sự chung tay của cả Chính phủ và doanh nghiệp bởi không phải cứ ký được hiệp định là xong mà phải thay đổi tư duy, cải cách thể chế…

Anh-chup-Man-hinh-2022-01-03-l-3946-6411

TS. Lê Quốc Phương

Nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại (Bộ Công Thương)

Để hạn chế rủi ro, lo ngại nhập siêu từ RCEP, rõ ràng Việt Nam phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ trong nước. Thời gian qua, không ít chính sách đã được ban hành nhằm thúc đẩy lĩnh vực này nhưng trên thực tế chưa làm được gì nhiều. Ví dụ ngành dệt may, yêu cầu đặt ra là chủ động nguồn nguyên liệu nhưng chính các địa phương lại từ chối dự án dệt nhuộm vì lo ngại ô nhiễm môi trường. Trong khi, chính chúng ta chưa tập trung giải quyết bài toán công nghệ để có thể phát triển song song cả đầu vào và đầu ra.

Thy Lê

Nguồn vnbusiness.vn

Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam vì mục tiêu “Doanh nghiệp vững mạnh – Quốc gia hùng cường, thịnh vượng”

Đại hội đại biểu toàn quốc VCCI lần thứ VII, nhiệm kỳ 2021 – 2026 được tổ chức long trọng trong hai ngày 30 – 31/12 theo hình thức trực tiếp tại Hà Nội kết hợp trực tuyến.

Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Phạm Minh Chính.

Đặc biệt, Đại hội vinh dự chào đón Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Phạm Minh Chính tới tham dự và chỉ đạo.

Đại hội là sự kiện đặc biệt quan trọng đối với VCCI và cộng đồng doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những yêu cầu phát triển của giai đoạn mới, những vận hội và thách thức chưa từng có, đặc biệt là tác động của đại dịch Covid-19.

Đại hội có sự hiện diện của các lãnh đạo Đảng, nhà nước, lãnh đạo các Ban/Bộ/Ngành, cơ quan trung ương và các địa phương: Ông Nguyễn Quang Dương, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương; Ông Nguyễn Đình Khang, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Ông Nguyễn Long Hải, Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Đảng uỷ khối Doanh nghiệp TƯ; Ông Nguyễn Xuân Thành, Phó chủ nhiệm VPCP; Ông Nguyễn Tường Văn, Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh; Ông Ngô Trung Thành, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật; Ông Đoàn Văn Việt, Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch; Ông Phạm Đức Long, Thứ trưởng Bộ TTTT; Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam; Ông Ngô Văn Cương, Bí thư BCH Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; Ông Phan Anh Sơn, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Liên hiệp các tổ chức hữu nghị VN; Ông Đỗ Thắng Hải, Thứ trưởng Bộ Công Thương; Ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế Quốc hội; Ông Lại Xuân Lâm, Phó Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương; Bà Thang Thị Hạnh, Vụ trưởng Vụ Tổ chức phi chính phủ, Bộ Nội vụ; Đại tá Đỗ Quang Phương, Phó Cục trưởng Cục An ninh Kinh tế, Bộ Công an; Ông Hà Minh Mạnh, Vụ trưởng Vụ Đổi mới doanh nghiệp, VPCP; Ông Bùi Lê Thái, Chánh Văn phòng Ban Ban Đối ngoại TW.

Các đại biểu thực hiện nghi lễ chào cờ.

Có 434 đại biểu chính thức tham dự Đại hội, trong đó 256 đại biểu tham dự trực tiếp tại Hà Nội, các đại biểu còn lại tham dự trực tuyến tại các Chi nhánh, Văn phòng Đại diện VCCI ở Đà Nẵng, Khánh Hòa, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Vũng Tàu; 73 đại biểu tham dự trực tuyến tại đơn vị.

Thủ tướng Phạm Minh Chính tham gia Đoàn Chủ tịch Đại hội. 

Cơ cấu đại biểu theo thành phần gồm: 30 đại biểu là đại diện Tập đoàn, Tổng Cty, Doanh nghiệp Nhà nước, 183 đại biểu là các hiệp hội ngành nghề trung ương và địa phương, 216 đại biểu là các doanh nghiệp cổ phần, tư nhân, 2 đại biểu là đại diện các Hợp tác xã. Trong số 218 đại biểu doanh nghiệp, đơn vị có số lao động thấp nhất là 100 và đơn vị có số lao động cao nhất là trên 104.000 lao động. 100% hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, đóng góp ngân sách nhà nước thấp nhất 0,4 tỷ, nhiều nhất trên 100.000 tỷ trong năm 2020.

Ban chấp hành VCCI khóa VII đã có sự đổi mới nhân sự với 28 ủy viên tham gia lần đầu, chiếm 31% trên tổng số (93) ủy viên. Ban chấp hành VCCI khóa VII hầu hết là những doanh nhân tiêu biểu, trong đó có nhiều doanh nghiệp lớn, đầu ngành có đóng góp quan trọng đối với kinh tế xã hội của Đất nước.

Thực hiện các chỉ đạo của Ban Bí thư, trên cơ sở rà soát các quy định pháp luật liên quan, đặc biệt là các văn bản pháp luật mới và đánh giá thực tiễn thực hiện Điều lệ 2016, VCCI nhận thấy cần thiết phải sửa đổi Điều lệ này ở 03 khía cạnh với phương án sửa đổi cụ thể như sau: sửa đổi Tên tiếng Việt của VCCI từ “Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam” thành “Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam”.

Đại hội cũng sẽ xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm bao gồm: Chủ động, tích cực tham gia xây dựng pháp luật, chính sách, thúc đẩy thuận lợi hóa môi trường kinh doanh; Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động hỗ trợ phát triển doanh nghiệp.Tăng cường hoạt động kết nối, hỗ trợ phát triển hiệp hội doanh nghiệp và hội viên; Phát triển đội ngũ doanh nhân, tiên phong thúc đẩy xây dựng hoá kinh doanh Việt Nam;Tăng cường kết nối và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế và Đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của VCCI.

Thủ tướng Phạm Minh Chính tặng Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ cho Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Khối trưởng Khối Thi đua các Bộ ngành kinh tế năm 2020 đã hoàn thành xuất sắc, toàn diện nhiệm vụ công tác, dẫn đầu phong trào thi đua yêu nước toàn quốc.

Đồng thời, ba đột phá chiến lược cũng được đưa ra trong Đại hội gồm Thúc đẩy xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi;Tiên phong xây dựng văn hóa kinh doanh Việt Nam và Đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số trong doanh nghiệp.

Với quan điểm định hướng hoạt động của VCCI phải đồng bộ với định hướng phát triển của đất nước, Đại hội sẽ đưa ra Tầm nhìn của VCCI là: Doanh nghiệp vững mạnh – Quốc gia thịnh vượng; Sứ mệnh của VCCI là liên kết, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp bền vững, văn minh, hội nhập và ngang tầm thế giới, cùng phấn đấu xây dựng Việt Nam đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển, phồn vinh, hạnh phúc.

Trong nhiệm kỳ 2015 – 2020, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, VCCI đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ công tác chủ yếu Đại hội VCCI lần thứ VI đề ra và những nhiệm vụ khác được Đảng, Nhà nước giao. Các hoạt động chính của VCCI như xây dựng pháp luật, chính sách, cải thiện môi trường kinh doanh, xúc tiến thương mại – đầu tư, đào tạo, tư vấn, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp,… đã được đẩy mạnh, tăng 20% so với nhiệm kỳ trước, đạt mức độ tăng trưởng bình quân 7,5%/năm. Các mặt công tác được triển khai toàn diện và chất lượng được nâng cao theo hướng chuyên nghiệp hóa.

Trao tặng Huân chương và Bằng khen của Chủ tịch nước cho các cá nhân: Ông Vũ Tiến Lộc – nguyên Bí thư Đảng đoàn, nguyên Chủ tịch VCCI; Ông Phạm Tấn Công- Chủ tịch VCCI; và trao Bằng khen của Thủ tướng cho ông Nguyễn Quang Vinh- Ủy viên Đảng đoàn, Phó Chủ tịch VCCI.

Cùng với đó, hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp thông qua thúc đẩy liên kết và nâng cao năng lực các hiệp hội doanh nghiệp được xác định là hoạt động chủ đạo, trọng tâm. Hội đồng Trung ương các Hiệp hội doanh nghiệp được VCCI thành lập đã phối hợp, liên kết và hỗ trợ cho trên 400 hiệp hội, hội, câu lạc bộ doanh nghiệp trong toàn quốc; hướng dẫn thành lập và hỗ trợ hoạt động của 53/63 hiệp hội doanh nghiệp đa ngành cấp tỉnh, thành phố.

VCCI đã tiên phong trong công tác hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững, nâng cao trách nhiệm xã hội với các hoạt động tiêu biểu như đề xuất và thực hiện “Diễn đàn Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững” thường niên; xây dựng Bộ chỉ số Doanh nghiệp bền vững (CSI) và tổ chức đánh giá, trao giải thưởng “Doanh nghiệp bền vững tại Việt Nam”; triển khai các chương trình, dự án thúc đẩy liêm chính trong kinh doanh, nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.

Vai trò của VCCI trong tham gia xây dựng thể chế, chính sách pháp luật, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính ngày càng được khẳng định và đề cao. VCCI đã chú trọng tăng cường tính liên kết và nâng cao năng lực của các hiệp hội, cơ bản hoàn thành việc thành lập và triển khai hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp cấp tỉnh; phát huy chức năng đại diện cho người sử dụng lao động… Vị thế, uy tín của VCCI được nâng cao ở trong nước và quốc tế.

Nguồn: DDDN

Lễ ký kết chương trình phối hợp công tác giữa Uỷ ban dân tộc và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam giai đoạn 2021-2030

Sáng ngày 30/12, Lễ ký kết chương trình phối hợp công tác giữa Uỷ ban dân tộc và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam giai đoạn 2021-2030 được diễn ra, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh và Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo đồng chủ trì Lễ ký kết.

Quang cảnh buổi Lễ ký kết

Lễ ký kết diễn ra nhằm định hướng các nội dung phối hợp công tác giữa hai cơ quan nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã (HTX), từng bước hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo và làm giàu chính đáng. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, giảm nghèo nhanh, bền vững.

Trong thời gian tới, Uỷ ban dân tộc và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam sẽ phối hợp trong thực hiện các hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ. Bên cạnh đó, hai cơ quan sẽ phối hợp triển khai, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030..

Đồng chí Hầu A Lềnh, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc phát biểu tại Lễ ký kết

Phát biểu tại Lễ ký phối hợp công tác, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Hầu A Lềnh cho biết, trong giai đoạn này, Ủy ban Dân tộc được giao nhiệm vụ chủ trì triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030. Để nguồn lực thực hiện Chương trình phát huy hiệu qủa, đạt được mục tiêu của Quốc hội, đáp ứng tâm tư nguyện vọng của đồng bào DTTS, cần sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương, trong đó có Liên minh HTX Việt Nam.

Việc hai cơ quan ký kết Chương trình phối hợp công tác là rất quan trọng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan và điều kiện đặc thù ở vùng DTTS và miền núi. Chia sẻ về đặc điểm tình hình vùng đồng bào DTTS và miền núi, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Hầu A Lềnh khẳng định, phát triển mô hình kinh tế tập thể, HTX sẽ tạo cơ hội về công ăn việc làm, tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, hướng đến thị trường lớn cho vùng đồng bào DTTS; góp phần khai thác tiềm tăng, thế mạnh, tri thức vùng DTTS, đồng chí Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban dân tộc nhấn mạnh.

Nhân đây, đồng chí Hầu A Lềnh đề nghị các đơn vị liên quan thuộc hai cơ quan cần cụ thể hóa Chương trình phối hợp thành những nhiệm vụ hằng năm với mục tiêu cụ thể. Liên minh HTX Việt Nam có báo cáo đánh giá rà soát lại toàn bộ tình hình hoạt động của các mô hình HTX, tổ hợp tác vùng DTTS và miền núi để làm căn cứ, triển khai hiệu quả các mô hình trong giai đoạn tới.

Đồng chí Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phát biểu tại Lễ ký kết

Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo khẳng định, trong hai năm gần đây, hoạt động của Liên minh HTX tập trung phần lớn vào địa bàn vùng DTTS và miền núi vì đây là địa bàn tiềm năng để phát triển chuỗi giá trị. Tỷ lệ hoạt động hiệu quả trên địa bàn DTTS và miền núi rất cao.

Trong giai đoạn tới, Liên minh HTX Việt Nam xác định, vùng đồng bào DTTS và miền núi tiếp tục là địa bàn trọng điểm để triển khai thực hiện các mô hình hỗ trợ. Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam thể hiện quyết tâm và tin tưởng, Chương trình phối hợp công tác giữa hai cơ quan sẽ được triển khai có hiệu quả, đúng đối tượng, địa bàn, phát huy nguồn lực, tạo giá trị gia tăng, tăng thu nhập cho đồng bào vùng DTTS.

Trong công tác phối hợp triển khai, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030. Với giai đoạn 2021-2025, hai bên sẽ cùng nhau phối hợp triển khai thực hiện Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình MTQG phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 – 2025.

Thay mặt lãnh đạo hai cơ quan, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh và Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo đã ký kết Chương trình phối hợp công tác giai đoạn 2021-2030

Trên cơ sở các nội dung, tiểu dự án, dự án Ủy ban Dân tộc được giao chủ trì, Ủy ban Dân tộc giao các Vụ, đơn vị tham mưu hoạt động phối hợp với Liên minh HTX Việt Nam thực hiện một số nội dung tiểu dự án, dự án về hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, vùng trồng dược liệu quý, thúc đẩy khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp và thu hút đầu tư vùng DTTS và miền núi; đào tạo nâng cao năng lực cho cộng đồng và cán bộ triển khai Chương trình ở các cấp; biểu dương, tôn vinh điển hình tiến, phát huy vai trò của Người có uy tín; phổ biến, giáo dục pháp luật  cho đồng bào…

Thay mặt lãnh đạo hai cơ quan, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh và Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo đã ký kết Chương trình phối hợp công tác giai đoạn 2021-2030.

Một số hình ảnh tại Lễ ký kết:

Đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Bí thư Đảng ủy, Phó chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đọc Báo cáo tóm tắt Chương trình phối hợp

Đồng chí Phạm Minh Điển, Trưởng Ban Kế hoạch – Hỗ trợ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu tham dự Lễ ký kết

Quang cảnh Lễ ký kết tại trụ sở Liên minh Hợp tác xã Việt Nam

Lãnh đạo hai cơ quan trao quà Kỷ niệm và chụp hình tại Lễ ký kết

Quỳnh Trang – Lê Huy

Nguồn VCA

Mô hình điểm về ứng dụng công nghệ cho môi trường xanh

Để giải quyết bài toán môi trường nông thôn, mô hình HTX dịch vụ môi trường (DVMT) đang nổi lên như là một trong những giải pháp góp phần thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt và sản xuất bảo vệ môi trường tại khu vực nông thôn. HTX Nông nghiệp và Môi trường Xanh Trường Phát là một trong những mô hình điển hình trong hoạt động thu gom, phân loại và xử lý hiệu quả rác thải nhựa vùng nông thôn.

Việt Nam đang quan tâm, định hướng phát triển kinh tế – xã hội gắn với hoạt động bảo vệ môi trường. Bên cạnh các mô hình kinh tế tuần hoàn bước đầu hình thành đã đáp ứng yêu cầu giải quyết bài toán ô nhiễm môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu, thì việc giải quyết bài toán môi trường nông thôn vẫn còn là vấn đề nan giải.

Theo báo cáo tại hội thảo góp ý dự thảo “Đề án Tăng cường bảo vệ môi trường và cung cấp nước sạch trong xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025” thì lượng rác thải sinh hoạt ở khu vực nông thôn nước ta trung bình mỗi năm khoảng 11 triệu tấn; chất thải chăn nuôi khoảng 127 triệu tấn; chất thải trồng trọt 80 triệu tấn chất thải rắn và hàng triệu khối nước thải.

Hiện, tới 80% khối lượng rác thải rắn từ trồng trọt (rơm, rạ) được xử lý bằng cách đốt hoặc vứt tại ruộng. Ngoài ra, trung bình mỗi năm lượng rác thải từ bao bì thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) khoảng 19.000 tấn…

Mô hình HTX dịch vụ môi trường

Trong những năm vừa qua, để giải quyết bài toán môi trường nông thôn, mô hình HTX dịch vụ môi trường (DVMT) đang nổi lên như là một trong những giải pháp góp phần thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt và sản xuất bảo vệ môi trường tại khu vực nông thôn.

Tuy nhiên, qua khảo sát, đánh giá chung cho thấy, thực trạng hoạt động của đa số các HTX DVMT còn chưa hiệu quả, mang tính hình thức. Các HTX DVMT hầu hết chỉ tổ chức được hoạt động thu gom rác thải sinh hoạt rồi vận chuyển đến nơi chôn lấp hoặc lò đốt tập trung của địa phương, một số nơi còn có các bãi rác lộ thiên tập trung sát khu dân cư gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến đời sống, sinh hoạt của cư dân.

Hầu hết các HTX DVMT chưa tổ chức được hoạt động phân loại đầu nguồn, công nghệ tái chế, kỹ thuật chôn lấp rất thô sơ, không đảm bảo tiêu chuẩn, lò đốt quy mô nhỏ có nguy cơ gây ô nhiễm thứ cấp cao… Bên cạnh rác thải hữu cơ thì rác thải sinh hoạt và sản xuất ở khu vực nông thôn hầu hết là túi nylon, chai nhựa, kim loại khó phân hủy.

Bên cạnh nguyên nhân do nội lực của các HTX DVMT còn yếu về tài chính, sản phẩm dịch vụ đơn lẻ do thiếu kiến thức về kỹ thuật, công nghệ xử lý môi trường, thì vấn đề chính sách hỗ trợ cho các hoạt động xử lý chất thải quy mô nhỏ và mức thu phí của người dân trả cho các DVMT tại nông thôn còn thấp (từ 3.000 đồng – 7.000 đồng/người/tháng) chỉ đủ cho các hoạt động thu gom, trong khi các HTX DVMT cũng chưa có nguồn lực để đầu tư cho các hoạt động vận chuyển và xử lý rác thải.

Với mức phí này, không những không hạn chế được mức độ xả thải của người dân, mà còn không tạo được động lực để xã hội hóa các hoạt động dịch vụ bảo vệ môi trường. Nhận thấy những vấn đề tồn tại trong các mô hình HTX DVMT, Liên minh HTX Việt Nam đã chỉ đạo các đơn vị chức năng trực thuộc, bên cạnh công tác tuyên truyền vận động thành viên HTX tham gia bảo vệ môi trường, hỗ trợ thanh niên được đào tạo, có trình độ khởi nghiệp xây dựng HTX thì đồng thời cũng khuyến khích các loại hình HTX nông nghiệp tổ chức thêm các hoạt động DVMT để đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, nâng cao thu nhập cho thành viên, đồng thời giải quyết vấn đề tồn tại trong ngắn hạn của các HTX DVMT về thu nhập và nguồn lực đầu tư.

Một điển hình về khởi nghiệp và phát triển mô hình HTX trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường là HTX Nông nghiệp và Môi trường Xanh Trường Phát tại xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Chủ tịch HĐTV kiêm Giám đốc HTX là anh Trần Văn Trường sinh năm 1987, người con quê hương, sau thời gian học tập tại Thành phố, đem kiến thức trở về góp phần xây dựng kinh tế quê hương.

Được sự ủng hộ của gia đình có truyền thống về cơ khí chế tạo máy nông nghiệp và đặc biệt được sự ủng hộ của chính quyền địa phương, anh Trường đã vận động thành lập HTX Nông nghiệp và Môi trường Xanh Trường Phát vào năm 2020. Với nhiệt huyết, trí tuệ và tinh thần dám nghĩ dám làm của tuổi trẻ, HTX đã tận dụng những lợi thế của địa phương để phát triển và thu được những kết quả bước đầu đáng khích lệ.

trung-tam-khcn-1640854863-4462-164085525

Anh Trần Văn Trường cùng cán bộ Trung tâm KHCN&MT đánh giá hiệu quả của thiết bị phân loại rác thải.

Ban lãnh đạo HTX bên cạnh sản xuất nông nghiệp, nhận thấy những vấn đề về ô nhiễm môi trường ở địa phương, đã đề xuất và được sự ủng hộ của chính quyền để đầu tư, tổ chức dịch vụ thu gom, xử lý rác thải.

Ban đầu, HTX Nông nghiệp và Môi trường Xanh Trường Phát cũng chỉ tổ chức hoạt động đơn giản về thu gom và chôn lấp rác thải sinh hoạt, đồng thời huy động nguồn lực từ thành viên, đầu tư xây dựng khu giải trí thể thao trên nền bãi rác của địa phương để giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Nhưng với những kiến thức tham khảo từ tài liệu và thực tiễn tại nhiều cơ sở xử lý rác thải, ban lãnh đạo HTX đã quyết tâm tổ chức hoạt động DVMT theo hướng chuyên nghiệp, bền vững.

HTX đã mạnh dạn đầu tư hệ thống phân loại và xử lý rác thải sinh hoạt với đầy đủ dây chuyền thiết bị gồm thiết bị phân loại rác hữu cơ, rác vô cơ, nylon…, thiết bị làm sạch và sấy khô rác nylon, lò đốt, khu xử lý rác hữu cơ… Mặc dù công suất còn khá nhỏ so với các xí nghiệp xử lý rác thải chuyên nghiệp, nhưng các khâu quan trọng, HTX đều có thể đảm nhiệm.

Rác thải sinh hoạt từ các hộ gia đình được thu gom tập kết về xưởng sản xuất đã được phân loại thành các phần riêng biệt, rác thải hữu cơ được tái chế thành phân hữu cơ thông qua chế phẩm sinh học, rác thải nhựa cứng được phân loại, rác thải nylon mỏng được làm sạch, khô để bán cho đơn vị tái chế nylon. Phần còn lại rất nhỏ là các sành sứ, gạch đá, vải được đốt hoặc chôn lấp.

trung-tam-khcn1-1640854944-2581-16408552

Ban lãnh đạo HTX đã quyết tâm tổ chức hoạt động dịch vụ môi trường theo hướng chuyên nghiệp, bền vững.

Mạnh dạn đầu tư công nghệ

Được sự giới thiệu của Liên minh HTX tỉnh Nam Định, Trung tâm Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường (KHCN&MT) – Liên minh HTX Việt Nam đã khảo sát và nhận thấy HTX Nông nghiệp và Môi trường Xanh Trường Phát là một điểm sáng, đầy tiềm năng trở thành một mô hình điển hình trong tổ chức dịch vụ bảo vệ môi trường tại khu vực nông thôn. Nhận thấy những khó khăn trong việc tiếp nhận các công nghệ, kỹ thuật mới về xử lý rác thải và sản xuất các sản phẩm tái chế, Trung tâm đã tập trung xây dựng phương án hỗ trợ và chuyển giao công nghệ phù hợp với điều kiện của HTX như hoàn thiện hệ thống thu gom, tái chế rác thải hữu cơ chôn lấp sau xử lý thì sử dụng chế phẩm sinh học phối trộn với các phụ gia có sẵn tại địa phương để sản xuất phân hữu cơ vi sinh.

Trung tâm cũng đã hỗ trợ thêm các xe đẩy tay, thùng rác cùng quần áo bảo hộ lao động và chuyển giao công nghệ sản xuất hạt nhựa tái chế từ rác thải nhựa (nylon, vỏ chai, thùng nhựa) đã phân loại cho HTX. Bên cạnh đó, Trung tâm cũng đã tư vấn cung cấp cho HTX hệ thống quản lý môi trường ISO 14000:2015, đây là chứng chỉ cần thiết khẳng định trình độ quản lý của HTX đối với hoạt động kinh doanh cũng như quảng bá hình ảnh, khẳng định thương hiệu cho HTX trên thị trường.

trung-tam-khcn2-1640855045-3229-16408552

Trung tâm đã tổ chức lớp tập huấn với mục đích nâng cao nhận thức về giảm thiểu rác thải nhựa, chuyển giao công nghệ thu gom, phân loại, xử lý hiệu quả rác thải nhựa cho thành viên của HTX Môi trường Xanh và các HTX trong khu vực.

Song song với việc tư vấn và triển khai hỗ trợ, Trung tâm đã tổ chức lớp tập huấn với mục đích nâng cao nhận thức về giảm thiểu rác thải nhựa, chuyển giao công nghệ thu gom, phân loại, xử lý hiệu quả rác thải nhựa cho thành viên của HTX Nông nghiệp và Môi trường Xanh Trường Phát và các HTX trong khu vực. Lớp tập huấn diễn ra thành công với sự có mặt của 30 đại biểu đại diện cho các HTX trong tỉnh. Qua lớp tập huấn, Trung tâm cũng nhận thấy hầu hết các HTX DVMT chỉ đang dừng lại ở công đoạn thu gom rác mà chưa có kiến thức nhất định trong việc áp dụng các công nghệ xử lý và tái chế rác thải vào hoạt động sản xuất kinh doanh.

Ngày 17/12/2021, tại huyện Xuân Trường, Trung tâm KHCN&MT đã phối hợp với Liên minh HTX tỉnh Nam Định tổ chức nghiệm thu và bàn giao các nội dung hỗ trợ xây dựng mô hình HTX thu gom, phân loại và xử lý hiệu quả rác thải nhựa cho HTX Nông nghiệp và Môi trường Xanh Trường Phát (xã Thọ Nghiệp).

Tham dự buổi lễ bàn giao nghiệm thu có ông Trần Văn Phiệt – Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Nam Định, ông Lê Tuấn An – Tổng giám đốc Trung tâm KHCN&MT, ông Lê Thanh Huy – Chủ tịch UBND xã Thọ Nghiệp, cùng toàn thể Hội đồng quản trị của HTX Nông nghiệp và Môi trường Xanh Trường Phát.

Đại diện Liên minh HTX tỉnh Nam Định, ông Trần Văn Phiệt cho biết: Tuy HTX mới thành lập nhưng hoạt động rất tích cực và hiệu quả. Chính vì thế, sự hỗ trợ của Trung tâm KHCN&MT, Liên minh HTX Việt Nam rất kịp thời, phù hợp với tình hình và mục tiêu phát triển của HTX.

trung-tam-khcn3-1640855119-5733-16408552

Trung tâm KHCN&MT – Liên minh HTX Việt Nam đã phối hợp với Liên minh HTX tỉnh Nam Định tổ chức nghiệm thu và bàn giao các nội dung hỗ trợ xây dựng mô hình HTX thu gom, phân loại và xử ý hiệu quả rác thải nhựa.

Đây không chỉ là hoạt động hỗ trợ cho HTX mà còn là hoạt động hỗ trợ cho phong trào bảo vệ môi trường tại địa phương nói riêng và khu vực nông thôn nói chung. Ông Phiệt đề nghị Trung tâm tiếp tục hỗ trợ HTX về công nghệ kỹ thuật để HTX phát triển bền vững, tài sản hỗ trợ được sử dụng đúng mục đích và phát huy hiệu quả cao.

Ông Lê Thanh Huy – Chủ tịch UBND xã Thọ Nghiệp cho biết tình hình phân bổ dân cư trên địa bàn xã Thọ Nghiệp ngày càng cao dẫn đến mức độ phát sinh rác thải từ hộ gia đình, trường học, cơ sở… ngày càng nhiều. HTX đã đảm trách nhiệm vụ thu gom và xử lý rác thải giúp địa phương là một điều rất đáng khích lệ.

Trước kia, khi chưa được thu gom xử lý, trên địa bàn xã phát sinh rất nhiều các bãi rác tự phát gây mất mỹ quan. Nhưng đến nay, môi trường, cảnh quan của địa phương đã đi vào quy củ, xanh – sạch – đẹp. Bên cạnh đó, HTX đã tạo ra công ăn, việc làm cho hàng chục lao động địa phương. Qua các hoạt động hỗ trợ của hệ thống Liên minh HTX Việt Nam, chính quyền địa phương thấy rất hiệu quả và đây là nguồn động viên to lớn từ Trung ương đối với địa phương trong công tác bảo vệ môi trường.

T.A

Nguồn Vnbusiness.vn

Cùng với thành viên Hợp tác xã xây dựng kỹ thuật Sản xuất rau an toàn

Vấn đề về sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thưc vật trong sản xuất nông nghiệp nói chung và tại các HTX nông nghiệp nói riêng đang là một vấn đề rất được các cấp, các ngành quan tâm. Hiện nay, do ý thức của người dân, thành viên HTX vẫn còn tư tưởng chạy theo lợi nhuận, vì vậy việc lạm dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp còn khá phổ biến.

Thực tế này đang khiến cho môi trường ở khu vực nông thôn ngày càng xuống cấp. Không những thế, việc sử dụng tràn lan các loại thuốc trừ sâu, phân bón còn tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn đối với sức khỏe con người cũng như tàn phá nghiêm trọng đất đai, đồng ruộng, làm giảm độ màu mỡ của đất, làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp.

Để góp phần nâng cao trách nhiệm sử dụng an toàn thuốc BVTV, phân bón hóa học và đẩy mạnh sản xuất rau an toàn theo quy trình thực hành nông nghiệp tốt cũng như công tác bảo vệ môi trường cho khu vực kinh tế hợp tác, HTX, năm 2021, Liên minh HTX Việt Nam đã giao Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ BVMT “Phân tích, đánh giá tác động tổng hợp của thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học đến hệ sinh thái nông nghiệp tại các vùng sản xuất chuyên canh rau an toàn khu vực kinh tế hợp tác hợp tác xã”. Kết quả phân tích thuộc nội dung nhiệm vụ tại một số vùng chuyên canh rau ở Hà nội và Hòa Bình cho thấy: hầu hết các mẫu đất, sản phẩm rau đều bị ô nhiễm kim loại nặng và dư lượng thuốc BVTV từ 2-4 lần so với quy chuẩn cho phép, các chỉ tiêu sinh – hóa cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tuy nhiên, việc sử dụng các sản phẩm hữu cơ sạch bao gồm phân bón hữu cơ, chế phẩm vi sinh kết hợp với quy trình sản xuất rau an toàn sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc cải tạo đất trồng, tăng chất lượng sản phẩm rau sạch và góp phần bảo vệ môi trường.

Bên cạnh các hoạt động khảo sát, nghiên cứu đánh giá, Trung tâm cũng đã phối hợp với Liên minh HTX thành phố Hà Nội và Liên minh HTX tỉnh Hoà Bình tiến hành khảo sát và lựa chọn được 02 HTX là HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Môi trường Ba VIFA, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội và HTX Dịch vụ du lịch và Nông nghiệp Thạch Yên, huyện Cao Phong, tỉnh Hoà Bình để ứng dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ vào thực tiễn sản xuất. Trung tâm đã tiến hành tổ chức khảo sát, thu thập số liệu về tình hình sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cũng như quy trình canh tác hiện có của 02 HTX, đồng thời cũng tiến hành lấy mẫu, phân tích chất lượng môi trường đất, nước tại khu vực canh tác để đánh giá tình hình sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cũng như hiện trạng môi trường tại 02 HTX. Trên cơ sở kết quả khảo sát, phân tích thu được, Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường đã nghiên cứu, đánh giá và xây dựng kế hoạch hỗ trợ phù hợp cho từng HTX, các nội dung hỗ trợ bao gồm: Chuyển giao công nghệ sản xuất và sơ chế an toàn vệ sinh thực phẩm, hướng dẫn xây dựng hồ sở kỹ thuật, hoàn thiện quy trình sản xuất rau an toàn theo VietGap; Hỗ trợ máy cầy, thiết bị phun thuốc trừ sâu ..; chuyển giao công nghệ sản xuất phân bón hữu cơ từ chế phẩm sinh học do Trung tâm nghiên cứu để phục vụ sản xuất rau an toàn cho HTX.

Ngày 08-09/12/2021, Trung tâm đã tiến hành công tác bàn giao kết quả hỗ trợ từ thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường, tham dự buổi lễ tại HTX Dịch vụ du lịch và nông nghiệp Thạch Yên, huyện Cao Phong, tỉnh Hoà Bình. Ông Trần An Định, chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Hoà Bình chia sẻ: từ năm 2019 đến nay, hệ thống Liên minh HTX Việt Nam, Liên minh HTX tỉnh Hòa Bình và các cấp Chính quyền địa phương đã tích cực phối hợp hỗ trợ cơ sở hạ tầng, tái cơ cấu nông nghiệp, hỗ trợ phát triển sản xuất cho bà con đồng bào và thành viên HTX tại xã Yên Thượng nay là xã Thạch Yên, các hoạt đông hỗ trợ đã bước đầu có kết quả, tạo động lực thi đua sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển kinh tế tại địa phương. Mặc dù, bước đầu đã có sự chuyển biến về kết quả sản xuất kinh doanh những cũng còn rất nhiều khó khăn cần sự hỗ trợ, giúp đỡ.  Do đó, Liên minh HTX tỉnh Hòa Bình phối hợp với Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường tiếp tục nghiên cứu hỗ trợ để xây dựng HTX thành mô hình điểm tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế thành viên, góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương. Thay mặt Uỷ ban nhân dân xã Thạch Yên, Ông Bùi Đức Chung Chủ tịch UBND xã đã đề nghị Trung tâm KHCN&MT, Liên minh HTX tỉnh Hoà Bình tiếp tục quan tâm hỗ trợ cho HTX về khoa học Công nghệ, nhất là công nghệ chế biến sản phẩm mía và bảo quản, chế biến nông sản để HTX có điều kiện phát triển ổn định và bền vững.

Cũng tại buổi lễ bàn giao tại HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Môi trường BAVIFA, Ông Nguyễn Hữu Thuận – Giám đốc HTX cho biết: Tại địa phương có truyền thống chăn nuôi bò, chất thải chăn nuôi là nguyên nhân gây ô nhiệm môi trường sinh hoạt của người dân rất lớn. Chính vì vậy, các nội dung hỗ trợ thiết bị sản xuất và chuyển giao công nghệ chế phẩm xử lý mùi hôi sản xuất phân bón hữu cơ từ phân bò là rất thiết thực, hữu ích giúp cho HTX tận dụng nguyên liệu sẳn có ở địa phương sản xuất thêm sản phẩm dịch vụ mới, tạo nguồn thu, nâng cao thu nhập cho thành viên và giúp HTX phát triển bền vững.

Một số hình ảnh hoạt động nghiệm thu tại 02 HTX Hợp tác xã.

 

Hình 1: Một số hình ảnh tại lễ bàn giao – nghiệm thu các nội dung hỗ trợ tại HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Môi trường BAVIFA tại Xã Vân Hòa, huyện Ba Vì, TP. Hà Nội


Hình 2: Một số hình ảnh tại lễ bàn giao – nghiệm thu các nội dung hỗ trợ tại HTX Dịch vụ du lịch và nông nghiệp Thạch Yên 
tại xã Thạch Yên- Huyện Cao Phong – Tỉnh Hòa Bình.

Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường

Nguồn VCA

Hỗ trợ hợp tác xã xây dựng mô hình nuôi tôm, cua quảng canh cải tiến

Bằng việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng môi trường theo ISO 14001, HTX Thủy sản nông dân Núi Mây tỉnh Kiên Giang đang xây dựng mô hình nuôi tôm, cua quảng canh cải tiến.

Ngày 21/12, Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường thuộc Liên minh HTX Việt Nam phối hợp với Liên minh HTX tỉnh Kiên Giang tổ chức lễ nghiệm thu và bàn giao các vật tư, thiết bị hỗ trợ HTX Thủy sản nông dân Núi Mây, tỉnh Kiên Giang.

HTX Thủy sản nông dân Núi Mây thành lập vào ngày 25/11/2014 với 11 thành viên, hoạt động theo Luật HTX năm 2012. Sau 6 năm hoạt động, đến nay HTX đã kết nạp thêm 4 thành viên với diện tích canh tác là 69 ha chủ yếu là nuôi tôm thẻ chân trắng, cua theo phương thức nuôi quảng canh cải tiến kết hợp tôm – cua, mật độ tôm trung bình 2 con/m2, mật độ cua 0,1 con/m2.

Nuôi tôm quảng canh là mô hình nuôi tôm sử dụng hoàn toàn thức ăn tự nhiên có trong ao tôm. Vì không sử dụng thức ăn ngoài để đảm bảo tôm có thể phát triển bình thường, mật độ nuôi tôm thường thấp, tôm giống cũng là tôm có nguồn gốc tự nhiên.

Ngày nay, để nâng cao hiệu quả canh tác, mô hình nuôi tôm quảng canh đã được cải tiến. Theo đó, người chăn nuôi bổ sung thêm một phần thức ăn, con giống để đạt được mật độ mong muốn, từ đó năng suất thu hoạch tăng lên đáng kể đồng thời vẫn giữ được chất lượng tương đương với đánh bắt tự nhiên.

Cùng với quá trình chăn nuôi, lượng chất thải tích tụ trong diện tích nuôi trồng ngày càng lớn ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng môi trường, nhiều ao nuôi có màu nước đen, hôi thối có sự phát triển quá phát của một số loài tảo độc… Do đó, tỷ lệ tôm, cua chết trong ao tăng làm ảnh hưởng đến năng suất nuôi trồng.

Nuoi-tom-quang-canh1-9638-1640572258.jpg

Nuôi tôm quảng canh là mô hình nuôi tôm sử dụng hoàn toàn thức ăn tự nhiên có trong ao tôm.

Được sự giới thiệu của Liên minh HTX tỉnh Kiên Giang, Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường đã tiến hành khảo sát và lập phương án hỗ trợ HTX Thuỷ sản nông dân Núi Mây trong công tác bảo vệ môi trường cho hoạt động sản xuất của HTX từ nguồn kinh phí của nhiệm vụ bảo vệ môi trường: “Đánh giá hiện trạng và dự báo ô nhiễm môi trường tại các HTX nuôi trồng thủy sản ven biển khu vực Tây Nam Bộ và Duyên hải Miền Trung”.

Sau khi khảo sát, Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường đã lập phương án hỗ trợ HTX Thủy sản nông dân Núi Mây thực hiện các biện pháp nhằm cải thiện chất lượng môi trường cho diện tích ao nuôi. Trung tâm đã tập trung hỗ trợ HTX cho 3 hạng mục: Chế phẩm vi sinh, Thiết bị đo nhanh cầm tay; Tư vấn xây dựng hồ sơ. Theo đó, HTX Thủy sản nông dân Núi Mây đã nhận 250 kg vi sinh để xử lý các yếu tố gây ô nhiễm trong nước ao nuôi; 03 máy đo chất lượng nước đa chỉ tiêu để đánh giá chất lượng nước ao trong quá trình nuôi; và tư vấn xây dựng hồ sơ hoạt động cho HTX theo ISO 14001 – Hệ thống hệ thống quản lý chất lượng môi trường.

Ngày 21/12/2021, tại trụ sở của HTX Thủy sản nông dân Núi Mây, tổ 9, ấp Tà Xăng, xã Dương Hòa, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường phối hợp với Liên minh HTX tỉnh Kiên Giang đã tổ chức lễ bàn giao nghiệm thu các hạng mục thực hiện tại HTX Thủy sản nông dân Núi Mây.

Tham dự buổi lễ nghiệm thu có đại diện lãnh đạo Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường; ông Phạm Thành Trăm – Phó Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Kiên Giang, ông Thạch Lene – Giám đốc HTX Thủy sản nông dân Núi Mây cùng toàn thể các thành viên.

Nuoi-tom-quang-canh-7568-1640572258.jpg

Liên minh HTX tỉnh Kiên Giang tổ chức lễ nghiệm thu và bàn giao các vật tư, thiết bị hỗ trợ HTX Thủy sản nông dân Núi Mây.

Tại buổi lễ, ông Phạm Thành Trăm – Phó Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Kiên Giang cho biết: HTX Thủy sản nông dân Núi Mây là một trong những HTX đi đầu trong công tác nuôi trồng thủy hải sản theo hình thức nuôi quảng canh cải tiến lâu năm của tỉnh Kiên Giang.

Mặc dù ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh diễn biến rất phức tạp, nhưng công tác nuôi trồng thủy sản của HTX không bị ảnh hưởng nhiều do HTX thực hiện rất nghiêm túc các biển pháp cách ly và kiểm soát người ra vào khu vực nuôi trồng thuỷ sản. Toàn bộ tôm, cua của HTX đều được các thương lái trong vùng bao tiêu ngay khi thu hoạch.

Tuy nhiên, HTX còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, công nghệ, thiết bị cũng như việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về hoạt động bảo vệ môi trường.

Đồng thời, ông Phạm Thành Trăm gửi lời cảm ơn sự giúp đỡ, hỗ trợ từ Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường đối với Liên minh HTX tỉnh Kiên Giang và HTX Thủy sản nông dân Núi Mây.

htx-kien-giang1-1640576326-4941-16405764

N.A

Nguồn: vnbusiness.vn

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Không để ‘trụ đỡ’ đất nước thụt lùi trong năm 2022

Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh khi kết luận Hội nghị Tổng kết Ngành Nông nghiệp năm 2021, và cho rằng ngành nông nghiệp cần đặt mục tiêu cao hơn nữa trong năm 2022.

Thủ tướng Phạm Minh Chính tới dự và chỉ đạo Hội nghị Tổng kết Ngành Nông nghiệp năm 2021 và Triển khai Kế hoạch năm 2022.

Ngày 29/12, Bộ NN-PTNT tổ chức Hội nghị Tổng kết Ngành Nông nghiệp năm 2021 và Triển khai Kế hoạch năm 2022. Hội nghị được tổ chức bằng hình thức trực tiếp tại điểm cầu chính Hà Nội và trực tuyến tới nhiều đơn vị trực thuộc Bộ NN-PTNT. Thủ tướng Phạm Minh Chính tới dự và chỉ đạo Hội nghị.

Nội dung dự kiến của hội nghị sáng 29/12 xoay quanh tình hình thực hiện nhiệm vụ của ngành, một số nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách trong thời gian tới và giải quyết các kiến nghị, đề xuất của ngành trong thời gian tới.

Năm 2021, ngành nông nghiệp đạt nhiều thành tựu quan trọng. Nổi bật là: giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản ước đạt khoảng 48,6 tỷ USD, vượt xa mục tiêu 42 tỷ USD mà Chính phủ đưa ra; tổng sản lượng lương thực đạt gần 44 triệu tấn.

Hình ảnh các đầu cầu tham gia hội nghị.

Giá trị gia tăng toàn ngành nông nghiệp năm 2021 ước tăng khoảng 2,85 – 2,9%, trong đó nông nghiệp tăng trên 3,18%, lâm nghiệp tăng trên 3,85%, thủy sản tăng trên 1,85%; tỷ lệ che phủ rừng 42,02%; tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới 68,2%.

Trong giai đoạn tới, định hướng ngành nông nghiệp có nhiều điều mới, chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, tích hợp đa giá trị và phát triển xanh.

Không để ‘trụ đỡ’ đất nước thụt lùi trong năm 2022

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu kết luận hội nghị.

Đồng ý với những báo cáo, đánh giá của các bộ ngành, địa phương và các hiệp hội ngành hàng tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhận định, trong điều kiện một năm 2021 nhiều khó khăn, với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, cùng với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ cả các doanh nghiệp, người dân, Việt Nam vẫn đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ…

“Những điểm sáng kinh tế đã được thể hiện qua các số liệu. Với mức tăng trưởng dương, vượt 6,6 tỷ USD so với kế hoạch, thu đủ chi, xuất đủ nhập, trong một năm khó khăn, ngành nông nghiệp tiếp tục là trụ đỡ và có đóng góp quan trọng cho nền kinh tế”, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhận định.

Theo đó, Thủ tướng cho rằng với phương châm “Nông dân là trung tâm, nông thôn là nền tảng, nông nghiệp là động lực”, những chuyển biến, vai trò, nhận thức về tầm quan trọng của nông nghiệp đã được nâng cao. Người nông dân Việt Nam đã biết làm giàu từ bàn tay, khối óc, qua đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.

Tại Hội nghị, Thủ tướng đã nêu ra những tồn tại, hạn chế của ngành nông nghiệp trong thời gian qua. Đó là ngành nông nghiệp vẫn chưa được phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế vốn có. Ngành nông nghiệp chưa thực sự chủ động phát triển theo định hướng, vẫn còn thụ động, phụ thuộc thị trường, thời tiết và nhiều yếu tố khác. Công tác dự báo thị trường, biến đổi khí hậu… còn hạn chế, chưa chủ động.

Ngành nông nghiệp phát triển chưa bền vững, ứng dụng khoa học công nghệ hay chuyển đổi số chưa đi vào chiều sâu; chưa chủ động thích ứng linh hoạt với diễn biến mới, tình hình mới. Đặc biệt chưa coi trọng phát triển đi kèm khắc phục biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí metan. Công nghệ sau thu hoạch chưa thực sự được chú trọng. Thị trường xuất khẩu chưa đa dạng, còn phụ thuộc một số thị trường. Một số sản phẩm chưa xây dựng được thương hiệu mang tính quốc tế. Việc chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc còn khó khăn, xuất khẩu còn mất cân đối.

Từ những tồn tại, hạn chế đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị ngành nông nghiệp “mổ xẻ”, đánh giá kĩ lưỡng nguyên nhân để khắc phục trong năm 2022 và những năm tiếp theo.

“Cái gì thuộc thẩm quyền Chính phủ thì Chính phủ phải làm, cái gì thuộc thẩm quyền Bộ NN-PTNT thì cần nhìn thẳng sự thật, không né tránh và phải giải quyết rốt ráo”, người đứng đầu Chính phủ nhấn mạnh.

Theo Thủ tướng, năm 2022 được dự báo vừa có thuận lợi, thời cơ, vừa có khó khăn, thách thức. Năm 2022 được cho rằng có nhiều khó khăn hơn năm 2021. Do đó ngành nông nghiệp cần nỗ lực, sáng tạo đổi mới và tập trung chọn vấn đề, cân đối nguồn lực, thời gian để tổ chức, thực hiện một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp cần đổi mới tư duy mạnh mẽ hơn, nâng cao tầm dự báo chiến lược một cách kịp thời để tổ chức thực hiện thiết thực hiệu quả, mang lại giá trị gia tăng cao hơn.

“Muốn thực hiện được như vậy, ngành nông nghiệp cần đặt mục tiêu cao hơn, tăng trưởng cao hơn, xuất khẩu cao hơn. Đã có nền tảng thì cần kế thừa, cần quyết tâm đặt ra xuất khẩu năm 2022 trên 50 tỷ USD. Trụ đỡ mà thụt lùi thì đất nước thụt lùi”, Thủ tướng nhấn mạnh.

Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định: “Nâng cao đời sống tinh thần vật chất cho người nông dân là mục tiêu cao nhất của Đảng, Nhà nước…”

Ngoài ra, Thủ tướng đề nghị ngành nông nghiệp bám sát tình tình thực thế để cụ thể hóa những đường lối, chính sách, chủ trương về nông nghiệp, sau đó xác định trọng tâm trọng điểm cụ thể và có lộ trình thực hiện. Ngành nông nghiệp cũng cần đa dạng hóa thị trường, xây dựng thương hiệu, thúc đẩy cạnh tranh sản phẩm bằng cách đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm quốc gia, sản phẩm vùng, không nên chỉ phụ thuộc vào 1 – 2 thị trường nhất định.

Thủ tướng cũng cho rằng cần nâng cao năng lực chế biến vì muốn sản xuất lớn rất cần quy hoạch vùng nguyên liệu, quy hoạch sản phẩm, ứng dụng khoa học công nghệ, hỗ trợ về thị trường, vốn cho người nông dân. Đó là chuỗi công việc để xây dựng thương hiệu sản phẩm.

Thủ tướng đề nghị đẩy mạnh sản xuất sản phẩm nông sản xuất khẩu chính ngạch có giá trị cao, đạt an toàn vệ sinh thực phẩm, có truy xuất nguồn gốc, chỉ dẫn địa lý. Theo đó, ngành nông nghiệp cần có lộ trình giải quyết những vấn đề này.

“Một mặt sản xuất xuất khẩu nông sản chính ngạch, một mặt cần phải cải thiện quan hệ thương mại với các thị trường quốc tế. Vấn đề là phải có sản phẩm nông sản đủ tiêu chuẩn xuất khẩu”, Thủ tướng nhận định.

Về vấn đề phát triển kinh tế biển, Thủ tướng yêu cầu định hướng phát triển kinh tế biển bền vững, sớm gỡ “thẻ vàng” của EC, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên biển. Thủ tướng cho rằng tái cơ cấu ngành nông nghiệp cần gắn với dự báo thị trường cũng như tình hình liên quan để phát triển, xây dựng chiến lược, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải metan theo cam kết của COP26, trong đó tập trung vào các lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt, trồng rừng Ngành nông nghiệp cần phát triển kinh tế vùng, phát triển chuỗi sản phẩm, liên kết quốc tế; đầu tư công nghệ, thu hút, đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư trong nông nghiệp.

Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định: “Nâng cao đời sống tinh thần vật chất cho người nông dân là mục tiêu cao nhất của Đảng, Nhà nước, nhất là khu vực vùng sâu vùng xa, hải đảo và các đối tượng yếu thế. Theo đó, các đơn vị cần triển khai nhanh việc phân bổ nguồn vốn để thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM”.

Thủ tướng cũng yêu cầu cần phát triển văn hóa, cơ sở hạ tầng nông thôn, phát huy bản sắc văn hóa vùng miền nông thôn, đồng thời phát triển du lịch nông thôn. Cùng với đó đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao thu nhập, đảm bảo thị trường lao động khu vực nông thôn.

Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan tiếp nhận những chỉ đạo của Thủ tướng, và cam kết đưa vào những chủ trương, hành động trong thời gian tới của ngành nông nghiệp.

Thay mặt cán bộ, công nhân, viên chức của ngành Nông nghiệp trên toàn quốc, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan tiếp nhận những chỉ đạo của Thủ tướng, và cam kết đưa vào những chủ trương, hành động trong thời gian tới của ngành nông nghiệp.

Trên quan điểm lấy người dân làm trung tâm, nâng cao cuộc sống của người dân cả về kinh tế lẫn đời sống tinh thần, Bộ trưởng Lê Minh Hoan hứa sẽ tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được trong năm 2021. Trong đó, tăng hàm lượng công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi số, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, chuyển đổi từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp… sẽ là những định hướng chính của ngành nông nghiệp.

“Chúng ta có thể khẳng định rằng, ngành nông nghiệp đã phát huy được giá trị, đặc biệt trong hoàn cảnh xã hội bị ảnh hưởng bởi những biến cố như dịch bệnh, biến đổi khí hậu”, Bộ trưởng nói.

Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, thành tích của ngành nông nghiệp trong năm 2021, đến từ sự đồng hành của toàn xã hội, của sự chỉ đạo kịp thời, sáng suốt của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Nhà nước.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan: “Thành tích của ngành nông nghiệp trong năm 2021 đến từ sự đồng hành của toàn xã hội, của sự chỉ đạo kịp thời, sáng suốt của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Nhà nước…”

Dù đạt được một số thành tích như xuất khẩu đạt 48,6 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng ngành 2,8%, nhưng Bộ trưởng Lê Minh Hoan cũng xác định rằng, ngành Nông nghiệp vẫn gặp nhiều vấn đề. Có những thách thức chung, đến từ thế giới, được Bộ trưởng gói trong 4 từ: Biến động – Bất định – Phức tạp – Mơ hồ. Có những thách riêng của ngành, như thẻ vàng IUU, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún…

“Chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững, hướng đến một nền nông nghiệp trách nhiệm, xây dựng mô hình nông nghiệp kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp xanh sẽ được Bộ NN-PTNT tập trung trí tuệ nghiên cứu. Để hoàn thành nhiệm vụ này, ngành nông nghiệp rất cần sự đồng hành của cả hệ thống chính trị, các Bộ, ban, ngành liên quan”, lãnh đạo Bộ NN-PTNT nhấn mạnh.

Qua Hội nghị sáng 29/12, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cảm ơn những gợi mở của Thủ tướng Phạm Minh Chính, và cho biết sẽ tham mưu những chính sách phù hợp với điều kiện thực tế sản xuất của Việt Nam.

10h45

2022 sẽ là năm hành động với ngành Nông nghiệp

Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Thông tin & Truyền thông chia vui với ngành Nông nghiệp.

Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Thông tin & Truyền thông chia vui với ngành Nông nghiệp, khi “mặc dù Covid cả năm liên tục, ngành vẫn có mức tăng trưởng trung bình gần 3%, cao hơn GDP cả nước. Điều rất vui là phần phát biểu của các địa phương đều nhắc đến chuyển đổi số như là giải pháp trọng tâm trong thời gian tới”.

Ông Hùng nhắc tới các sàn thương mại điện tử, cụ thể là PostMart và Vỏ Sò – 2 sàn thương mại điện tử lớn nhất, phục vụ cho ngành nông nghiệp, giúp các hộ nông dân xây dựng thương hiệu như một doanh nghiệp, cung cấp thông tin đến từng cây, từng con.

Điều lợi thứ 3 là phi vật chất hóa, số hóa đất đai, cây trồng, môi trường… đến cả mô phỏng, phân tích, nhanh, không hao phí vật chất. Sau khi tối ưu trên thế giới ảo sẽ quay lại phục vụ thế giới thực.

Người đứng đầu ngành Thông tin & Truyền thông khẳng định năm 2022 sẽ là năm hành động với ngành Nông nghiệp. Cụ thể là trong 34 nền tảng số quốc gia vừa được Thủ tướng giao để làm hạ tầng phát triển Chính phủ số, Kinh tế số, Xã hội số, thì có đến 9 nền tảng dành cho ngành nông nghiệp như: dữ liệu số, truy xuất nguồn gốc nông sản, sàn thương mại điện tử, tối ưu hóa chuỗi cung ứng… Nền tảng được hiểu là một phần mềm nhưng phục vụ cho toàn quốc, đến từng tỉnh, từng xã.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đề nghị Bộ NN-PTNT thành lập Ban chỉ đạo chuyển đổi số ngành nông nghiệp với Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan là Trưởng ban, nâng cấp Trung tâm Chuyển đổi số thành cấp Cục.

Đồng thời, đề nghị Bộ NN-PTNT chọn một số doanh nghiệp công nghệ lớn làm đối tác, triển khai sớm trong nửa đầu năm 2022. “Chuyển đổi số góp phần thành lập giải bài toán thiên niên kỷ của nhân loại, cũng là giải một số bài toán của ngành nông nghiệp. Một trong những giải pháp là thành lập tổ công nghệ cộng đồng đến mức xã, thôn, lấy thanh niên làm nòng cốt”, ông Hùng nói.

10h30

Khẳng định thương hiệu nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế

Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại hội nghị.

Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên đánh giá ngành nông nghiệp đã hoàn thành nhiệm vụ được Chính phủ giao, đạt kim ngạch xuất khẩu 48,6 tỷ USD, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.

“Nhiều quốc gia để xảy ra lộn xộn trong thời gian dịch bệnh, song ngành nông nghiệp đã làm rất tốt, ổn định kinh tế, góp phần vào tăng trưởng dương của cả nước”, ông chia sẻ.

Tuy nhiên, dù có giá trị xuất khẩu lớn, nhưng ngành nông nghiệp chưa đáp ứng được những yêu cầu của thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản, theo Bộ trưởng Diên.

Theo lý giải của ông, nguyên nhân nằm ở việc sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, hàm lượng công nghệ thấp. Bên cạnh đó, các khâu sản xuất, chế biến, tiêu thụ, lưu thông chưa có sự gắn kết chặt chẽ, khiến nguy cơ đứt gãy dễ xảy ra.

Theo lãnh đạo ngành Công thương, để có giải pháp căn cơ bền vững, ngành nông nghiệp cần phối hợp, nâng cao quản lý chất lượng để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, nhất là đưa chính ngạch vào thị trường Trung Quốc. Bộ trưởng Diên cũng gợi ý, rằng ngành nông nghiệp cần xác định rõ thị trường xuất khẩu, trước khi tiếp cận, mở cửa thị trường, từ đó đưa ra những tiêu chuẩn, quy chuẩn phù hợp trong sản xuất.

Nhằm hướng tới việc “khẳng định thương hiệu nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế”, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị Bộ NN-PTNT tăng cường phối hợp với các Bộ, ban, ngành liên quan, đồng thời đẩy mạnh việc tích hợp đa giá trị, chuyển đổi số, và xây dựng những chuỗi liên kết bền vững.

Về phía Chính phủ, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên kiến nghị Thủ tướng xem xét, tạo điều kiện thuận lợi cho Bộ NN-PTNT trong vấn đề quản lý đất đai. Ngoài ra, ông kiến nghị Thủ tướng trao thêm quyền điều phối cho Bộ NN-PTNT trong những vấn đề liên quan tới sản xuất, chế biến, xuất khẩu nông sản.

10h20

Quy hoạch ngành tôm ‘thuận thiên’, bền vững

Dây chuyền chế biến sản phẩm tôm xuất khẩu tại nhà máy của Tập đoàn thủy sản Minh Phú tỉnh Cà Mau. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN.

Ông Lê Văn Quang, Tổng Giám đốc Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, chia sẻ rằng trong năm 2021 Minh Phú đã xuất khẩu được hơn 53.000 tấn tôm, kim ngạch đạt trên 657 triệu USD, giảm 1,81% về lượng nhưng tăng 11,3% về giá trị.

Ngành tôm trong 20 năm qua đạt được nhiều kết quả nổi bật, nhưng vì phát triển nhanh nên đã để lại nhiều hậu quả nặng nề về môi trường – xã hội, khiến vùng nước ĐBSCL bị nhiễm bệnh tôm trầm trọng. Điều này làm giá thành gia tăng, giảm tính cạnh tranh. Với tình hình hiện tại, nếu Việt Nam không có giải pháp hữu hiệu, chỉ trong 5-10 năm nữa ngành tôm sẽ mất lợi thế cạnh tranh và dần đi xuống.

Ông Lê Văn Quang nhận định rằng cần quy hoạch lại chuỗi giá trị ngành tôm theo hướng thuận thiên, bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu theo hướng kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, dựa trên nền tảng số, liên kết chuỗi giá trị để đảm bảo lợi nhuận cho mọi đối tác tham gia cũng như sinh kế của người dân.

Ông Lê Văn Quang đưa ra một số đề xuất: quy hoạch và đầu tư phát triển nguồn giống tôm nước lợ chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn của UAE đối với tôm thương phẩm; quy hoạch và phát triển chuỗi giá trị ngành tôm ĐBSCL; quy hoạch nuôi tôm rừng ngập mặn kết hợp nuôi trồng thủy sản dưới tán rừng, gắn với bảo vệ môi trường rừng sinh thái, tạo sản phẩm chất lượng cao, nâng cao thu nhập cho người dân; quy hoạch một số vùng có lợi thế về nguồn nước thành các vùng nuôi tôm siêu thâm canh công nghệ cao; quy hoạch các vùng quảng canh và quảng canh cải tiến an toàn sinh học, nuôi hữu cơ; quy hoạch tôm – lúa tạo ra vành đai an toàn sinh học; … đặc biệt ưu tiên quy hoạch và đầu tư công trình cấp nước, thoát nước, tích hợp quy hoạch phát triển kinh tế toàn vùng, kết nối giao thông toàn vùng.

10h10

Thế giới sẵn sàng đặt hàng số lượng lớn nếu chúng ta có những vùng nguyên liệu đạt chuẩn

Phát biểu tại Hội nghị, ông Đinh Cao Khuê (ảnh), Chủ tịch HĐQT Công ty CP Thực phẩm Xuất khẩu Đồng Giao (Doveco), nhận định năm 2021, không chỉ ngành nông nghiệp của Việt Nam mà các nước trên thế giới cũng gặp nhiều khó khăn.

“Tuy nhiên, với sự chỉ đạo, biện pháp kịp thời của Chính phủ, công tác sản xuất, chế biến và xuất khẩu của ngành hàng rau quả vẫn duy trì ổn định và không bị đứt gãy. Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam trong năm 2021 sang các thị trường quan trọng trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, châu Âu… đều tăng trưởng”, ông Đinh Cao Khuê chia sẻ.

Theo đó, để ngành chế biến rau quả có thể thích ứng, linh hoạt với dịch Covid-19 trong thời gian tới, ông Khuê cho rằng các đơn vị, doanh nghiệp chế biến cần tạo sự liên kết chặt chẽ với các HTX nông nghiệp. Các HTX sẽ giữ vai trò sản xuất và cung cấp nguyên liệu số lượng lớn đảm bảo nguồn cung cho doanh nghiệp xuất khẩu.

“Dư địa xuất khẩu rau quả của Việt Nam còn nhiều. Hiện nay, nhiều khách hàng tại thị trường châu Âu, Nhật Bản, Israeal sẵn sàng đặt hàng số lượng lớn nếu chúng ta có những vùng nguyên liệu đạt tiêu chuẩn GlobalGAP”, ông Đinh Cao Khuê cho biết.

Ngoài ra, đại diện Doveco cho rằng, với điều kiện đất đai thổ nhưỡng thuận lợi, Việt Nam có nhiều vùng có thể trồng nhiều loại cây rau quả ông đới phục vụ cho thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản như Tây Bắc, Tây Nguyên.

Theo đó, để đảm bảo chất lượng, nâng cao giá trị, kết hợp việc xuất khẩu rau quả tươi và sản phẩm chế biến, ông Đinh Cao Khuê đề nghị Bộ NN-PTNT và Bộ Công thương tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chế biến sâu nhiều loại, đa dạng sản phẩm chế biến trong thời gian tới.

che bien
Các doanh nghiệp chế biến cần liên kết chặt chẽ với các HTX nông nghiệp (Ảnh minh họa).

“Dịch Covid-19 đã tác động mạnh đến khâu logistics của Việt Nam. Vì vậy, Bộ NN-PTNT cũng như Bộ Công thương cần tổ chức công tác thông tin về thị trường một cách kịp thời, nhanh nhạy, giảm rủi ro cho các doanh nghiệp”, ông Khuê đề xuất.

Bên cạnh đó, Chủ tịch HĐQT Doveco cũng kiến nghị các ngân hàng tạo điều kiện hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư vào doanh nghiệp, kéo dài thời gian vay từ 8 – 10 năm để các doanh nghiệp có thời gian trồng, chế biến, xuất khẩu nông sản.

10h00

Ngành gỗ nêu 4 kiến nghị để phát huy hơn nữa giá trị gia tăng

Ông Cao Chí Công (ảnh), Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cho biết, có những tháng trong Quý III/2021, kim ngạch xuất khẩu gỗ sụt giảm nghiêm trọng. Tuy nhiên, với sự vào cuộc quyết liệt của Chính phủ, Bộ NN-PTNT, ngành gỗ tăng trưởng mạnh trong Quý IV, đạt kim ngạch 15,87 tỷ USD trong năm 2021.

Theo ông Công, ngành gỗ hiện gặp 3 khó khăn chính. Một, là giá cước vận chuyển tăng cao, đặc biệt là vấn đề thiếu container rỗng. Hai, là chi phí nguyên liệu đầu vào, chi phí phòng chống dịch bệnh, đảm bảo “3 tại chỗ” khiến chi phí sản xuất tăng trung bình 15-20%. Ba, là tình trạng thiếu lao động ở các trung tâm chế biến do công nhân về quê, hoặc chuyển ngành nghề.

Nhằm phát huy hơn nữa giá trị gia tăng của ngành gỗ, ông Công kiến nghị 4 vấn đề. Thứ nhất, Chính phủ, Bộ Y tế tạo điều kiện cho ngành gỗ được tiêm vacxin Covid-19, vật tư y tế với chi phí hợp lý và sớm nhất. Thứ hai, UBND tỉnh, thành phố chỉ đạo các Sở, ban, ngành liên quan kiểm tra, kiểm soát vấn đề nhập khẩu gỗ vào Việt Nam, tránh tình trạng nhập khẩu trái phép.

Thứ ba, Bộ Công thương, Bộ Giao thông vận tải có chính sách hỗ trợ việc vận chuyển, hàng hóa. Thứ tư, Bộ Ngoại giao chú trọng vào thị trường Mỹ, EU, Anh để thông tin kịp thời thông tin, chính sách, cảnh báo rủi ro cho các doanh nghiệp trong nước.

Ngành gỗ đạt kim ngạch 15,87 tỷ USD trong năm 2021. Ảnh minh họa: VGP.

9h20

Đồng Tháp duy trì chuỗi cung ứng, phát triển nông nghiệp tuần hoàn

Pham_Thien_Nghia_-_1_copy

Theo ông Phạm Thiện Nghĩa (ảnh), Phó Bí thư tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, tỉnh là một trong những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19 trong năm 2021, tuy nhiên vẫn tích cực duy trì chuỗi cung ứng lương thực. Các ngành hàng như gạo, trái cây, chăn nuôi, thủy sản tiếp tục duy trì được thế mạnh vùng, được tỉnh chủ trương thay đổi phát triển theo chuỗi, đạt kết quả tốt.

Năm vừa qua, Đồng Tháp duy trì xuất khẩu nông sản đạt 1,1 tỷ USD, tăng trưởng đạt hơn 3%. Tỉnh cũng phát triển các mô hình nông nghiệp gắn với nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn, ứng phó biến đổi khí hậu, ứng dụng và nhân rộng ra các địa phương, tạo sự lan tỏa giữa các HTX và Hội quán.

Đến nay, Đồng Tháp đạt 97/115 xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới (NTM), 3 thành phố và 1 huyện hiện đang nhận hồ sơ, 3 huyện phấn đấu năm 2024 hoàn thiện hồ sơ chứng nhận. Thời gian qua, tỉnh đã tích cực phát triển các sản phẩm OCOP, đạt 300 sản phẩm, trong đó năm nay đã có thêm 104 sản phẩm được công nhận.

Tuy nhiên, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và dịch bệnh diễn biến phức tạp, thu nhập của người dân tỉnh Đồng Tháp còn thiếu bền vững. Tỉnh đề nghị Bộ NN-PTNT nghiên cứu tham mưu cơ chế đầu tư nông nghiệp hữu cơ và kinh tế tuần hoàn; ưu tiên phát triển năng lượng sạch cho tỉnh và địa phương để giảm diện tích đất sản xuất sử dụng hóa chất; có chính sách cụ thể cho ng trồng lúa đảm bảo an ninh lương thực, phân bổ chi tiêu phải dựa trên sản lượng lúa hằng năm; sớm ban hành khung pháp lý xử phạt mạo danh mã vùng, đảm bảo quyền lợi cho các bên về truy xuất nguồn gốc.

Với Bộ Quy hoạch Đầu tư, tỉnh kiến nghị Bộ chỉ đạo Tổng cục Thống kê thống nhất tính toán thống kê giữa ngành nông nghiệp và các thống kê địa phương, bổ sung thu nhập doanh nghiệp, làm cơ sở nghiên cứu kinh tế nông nghiệp địa phương; mong Bộ quan tâm hơn về vấn đề tập trung bảo quản và logistics.

9h10

Đồng Nai huy động mọi nguồn lực xây dựng NTM

ntm-dong-nai

Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai Võ Văn Phi, từ năm 2010, tỉnh Đồng Nai bắt đầu xây dựng NTM, đến năm 2019 đã hoàn thành và tiếp tục triển khai chương trình xây dựng NTM nâng cao, đặt mục tiêu đến năm 2025, 100% xã sẽ đạt NTM nâng cao.

“Cùng nỗ lực để huy động mọi nguồn lực phát triển, xây dựng NTM, tính đến năm 2021, tỉnh Đồng Nai đã có 61/120 xã đạt chuẩn NTM nâng cao. Thu nhập bình quân của người nông dân đạt 61 triệu đồng/năm. Tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 0,09%”, ông Võ Văn Phi thông tin.

Bên cạnh đó, Đồng Nai đã xác định phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung cây trồng, vật nuôi chủ lực với năng lực cạnh tranh thị trường cao.

Tại Hội nghị, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai kiến nghị Chính phủ sớm có biện pháp tháo gỡ khó khăn trong xuất khẩu nông sản. Đồng thời kiến nghị Bộ NN-PTNT phối hợp Bộ TN-MT tháo gỡ vướng mắc trong quản lý đất nông lâm trường.

9h00

Bình Định: Chuyển từ 3 vụ lúa bấp bênh sang 2 vụ ăn chắc

Bình Định tập trung vào chính sách hỗ trợ từ 3 vụ lúa bấp bênh sang 2 vụ ăn chắc (Ảnh minh họa).

“Bình Định đang phải đối mặt bệnh viêm da nổi cục ở trâu bò. Cuối tháng 11, tỉnh hứng chịu mưa lũ lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, với vai trò bệ đỡ của ngành nông nghiệp, Bình Định trong năm 2021 cơ bản hoàn thành chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội. Trong 19 chỉ tiêu, có 15 chỉ tiêu đạt và vượt. Thu ngân sách hơn 3.000 tỷ đồng, vượt 2.000 tỷ đồng so với chỉ tiêu đặt ra”, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định Nguyễn Phi Long cho biết.

Lãnh đạo tỉnh Bình Định cho biết ngành nông nghiệp tỉnh đạt tăng trưởng 2,9%, các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi đều tăng trưởng dương. Bình Định tiếp tục tái cơ cấu ngành nông nghiệp với phương châm phát triển nông nghiệp công nghệ cao gắn với xây dựng nông thôn mới.

Cụ thể, trong lĩnh vực trồng trọt, Bình Định tập trung vào cây trồng có thế mạnh như lúa, lạc, các loại rau. Đầu tư hạ tầng, nâng cấp hồ chứa, kênh mương thủy lợi. Tỉnh cũng tập trung vào chính sách hỗ trợ từ 3 vụ lúa bấp bênh sang 2 vụ ăn chắc.

“Với đặc thù thường xuyên có mưa bão, thiên tai, Bình Định thấy rằng hướng đi chuyển từ 3 vụ lúa bấp bênh sang 2 vụ ăn chắc là rất đúng đắn, tăng giá trị sản xuất”, ông Long nói.

Người đứng đầu chính quyền tỉnh Bình Định cho biết hiện địa phương có 266 cánh đồng mẫu lớn về cây lúa. Tỉnh cũng cùng nông dân tổ chức liên kết sản xuất giống lúa, rau đạt chuẩn VietGAP.

Điểm sáng trong lĩnh vực chăn nuôi của Bình Định thời gian qua là phát triển đàn bò có 300.000 con, trong đó 89% bò lai, cung cấp giống cho cả nước. Thương hiệu Bò Việt chất lượng cao của Bình Định được Cục Sở hữu Trí tuệ, Bộ KHCN công nhận. Ngoài ra, địa phương duyên hải Nam Trung bộ này còn có 13 doanh nghiệp sở hữu lợn giống ông bà cụ kỵ có chất lượng, cung cấp cho cả nước. Xuất khẩu gia cầm đạt 100 triệu con.

Về trồng rừng, chế biến gỗ, Bình Định hiện là trung tâm lớn sau Đồng Nai, Bình Dương. Xuất khẩu gỗ đạt 800 triệu USD, tỉnh đang có đề án phát triển 6.000ha trồng rừng gỗ lớn. Cuối 2025, Bình Định phấn đấu có 10.000ha cây gỗ lớn.

Trong lĩnh vực thủy hải sản, Bình Định có lượng tàu chỉ sau Kiên Giang, Quảng Ngãi với 6.200 tàu, hơn 3.000 tàu đánh bắt xa bờ. Nổi bật về sản lượng có hơn 3.000 tấn cá ngừ đại dương. Ngư dân Bình Định còn kết hợp với doanh nghiệp Nhật Bản về đánh bắt, chế biến cá ngừ đại dương xuất khẩu. Ông Nguyễn Phi Long kiến nghị Bộ NN-PTNT có chính sách hỗ trợ với các hộ chăn nuôi có trâu bò bị bệnh viêm da nổi cục.

“Chính sách hỗ trợ cho hộ chăn nuôi có trâu bò chết đã có, song các hộ khác cũng bị thiệt hại. Do đó, tỉnh rất mong Bộ NN-PTNT sớm tham mưu Chính phủ để hỗ trợ cho nông dân. Trong năm 2021, tỉnh có 22.000 con trâu bò bị bệnh viêm da nổi cục, trong đó có 3.000 trâu bò bị chết”.

Ngoài ra, tỉnh Bình Định còn kiến nghị có chính sách hỗ trợ đầu tư trồng rừng gỗ lớn do đặc thù mưa bão nhiều, nhà đầu tư e ngại.

Đối với thế mạnh đánh bắt thủy sản, tỉnh đề nghị Bộ NN-PTNT xem xét quy hoạch, nâng cấp cảng cá Tam Quan lên loại 1, giúp truy xuất nguồn gốc, phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Liên quan tới bão lũ, tỉnh cũng đề nghị Bộ NN-PTNT xem xét thêm việc nâng cấp các hồ chứa. Bão lũ lớn nên vấn đề cắt lũ cho hạ du rất quan trọng. Theo đó, tỉnh kiến nghị nâng cấp hồ Định Bình lên thêm 40 triệu m3, từ đó đảm bảo nước tưới và cắt lũ, tránh ngập úng cho hạ du.

8h45

Nghệ An vẫn đảm bảo tăng trưởng đặc biệt trong ngành nông nghiệp

Sản xuất rau sạch công nghệ cao tại xã Quỳnh Liên – thị xã Hoàng Mai.

UBND tỉnh Nghệ An, ông Hoàng Nghĩa Hiếu cho biết, thời gian qua dù chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nhưng Nghệ An vẫn đảm bảo tăng trưởng đặc biệt trong ngành nông nghiệp, đạt hơn 5,8% so với năm 2020.

Tỉnh đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng để phù hợp với tiềm năng vùng, tích cực và quyết liệt kìm tỏa sự lây lan dịch bệnh từ tỉnh đến cơ sở. Từ chăn nuôi nhỏ lẻ, tỉnh chuyển sang tập trung quy mô lớn, chủ động kiểm soát dịch bệnh lây lan trên vật nuôi như dịch tả lợn Châu Phi, bệnh viêm da nổi cục.

Về thủy sản, Nghệ An đã chỉ đạo chuyển đổi, nâng cao diện tích nuôi, tập trung tàu thuyền đánh bắt xa bờ, tuân thủ các quy định về IUU, tăng trưởng đạt 7,5% so với năm 2020.

Là tỉnh có diện tích rừng lớn nhất cả nước (964.000 ha, đạt 58,5%), Nghệ An đã thành lập khu lâm nghiệp công nghệ cao, tạo điều kiện để thúc đẩy phát triển ngành lâm nghiệp, đảm bảo đời sống nhân dân.

Về chế biến lương thực thực phẩm, tỉnh đã phối hợp với Bộ NN-PTNT và các đơn vị để tổ chức và tham gia các diễn đàn xúc tiến, đồng thời chú trọng chế biến sâu, được các nhà máy địa bàn tiêu thụ đầy đủ.

Nhân dịp này, tỉnh Nghệ An chia sẻ một số đề xuất, nguyện vọng: Đề nghị Bộ NN-PTNT sớm phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc gia; phân bố các nguồn kinh phí, có chính sách hỗ trợ sớm ngay từ đầu năm để các địa phương có cơ sở triển khai sớm; nhấn mạnh tầm quan trọng của nông thôn, nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững, có hướng thị trường mở rộng.

8h35

Năm khó khăn, nông nghiệp Hải Dương vẫn tăng trưởng 6,9%

Sản xuất nông nghiệp là điểm sáng của tỉnh Hải Dương trong năm 2021.

Phát biểu tại Hội nghị, Chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương Triệu Thế Hùng cho biết, tỉnh có tiềm năng lớn để phát triển nông nghiệp với các sản phẩm nông sản phong phú. Nhiều sản phẩm nông sản địa phương không chỉ cung ứng cho thị trường nội địa mà còn được xuất khẩu sang các thị trường khó tính trên thế giới, điển hình như như Hoa Kỳ, châu Âu…

“Hải Dương đã xác định tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi gắn với xây dựng NTM với các trụ cột: nông nghiệp hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ…”, ông Triệu Thế Hùng cho hay.

Thời gian qua, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 tới kinh tế – xã hội của tỉnh là không hề nhỏ, tuy nhiên, theo Chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương, sản xuất nông nghiệp là điểm sáng của địa phương trong năm 2021 với mức tăng trưởng cao: 6,9%, đặc biệt sản xuất vụ đông năm 2021 đạt mức tăng trưởng 8,7%.

“Với việc đẩy mạnh xúc tiến thương mại gắn với chuyển đổi số, vừa qua, Hải Dương đã đưa hơn 300 sản phẩm nông sản, sản phẩm OCOP lên sàn thương mại điện tử, thu về 1.400 tỷ đồng”, ông Hùng thông tin.

Công tác xây dựng NTM năm 2021 của Hải Dương đã tạo bứt phá cho việc cải thiện môi trường nông thôn, nông nghiệp, nông dân. Năm 2021, Hải Dương có 178/178 xã đạt chuẩn NTM, 12/12 huyện đạt chuẩn NTM.

Tại Hội nghị, Chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương kiến nghị Chính phủ ban hành những cơ chế chính sách để hỗ trợ, tạo điều kiện phát triển ngành nông nghiệp trong điều kiện mới, thích ứng linh hoạt với dịch bệnh. Bên cạnh đó, ông Triệu Thế Hùng kiến nghị cần tháo gỡ, đẩy mạnh tích tụ ruộng đất, sản xuất tập trung gắn với cơ giới hóa, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho công nghiệp trong nông nghiệp.

“Hiện nay, tỉnh Hải Dương đang phải chịu áp lực rất lớn bởi thiên tai, biến đổi khí hậu, hệ thống đê điều của tỉnh đang bị xuống cấp. Thời gian tới, Hải Dương rất mong muốn được hỗ trợ nguồn lực để bảo vệ hệ thống đê và khắc phục tình trạng ô nhiễm sông”, ông Triệu Thế Hùng kiến nghị.

8h25

Lai Châu đứng tốp đầu cả nước về tốc độ phát triển nông nghiệp

Ông Trần Tiến Dũng, Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu, phát biểu tại đầu cầu UBND tỉnh Lai Châu.

Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu, ông Trần Tiến Dũng cho biết, tỉnh đã ban hành nhiều đề án về sản xuất hàng hóa tập trung, phát triển những mặt hàng nông, lâm, thủy sản đăc thù, đặc hữu, dựa trên nguồn lực của tỉnh. Vừa qua, cùng sự phối hợp với Bộ NN-PTNT, tỉnh Lai Châu đã tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu tư.

Hiện tốc độ phát triển nông nghiệp Lai Châu đứng tốp đầu của đất nước, vào khoảng 5%. Trong đó, tỉnh có những mặt hàng chủ lực như chè, quế, và đặc biệt là mắc ca. Thời gian tới, tỉnh sẽ phát triển thêm chăn nuôi đại gia súc, và phát triển kinh tế dưới tán rừng như sâm Lai Châu, hoa địa lan. Lai Châu là địa phương có thế mạnh về tỷ lệ che phủ rừng, khoảng hơn 51%, cao hơn mức trung bình chung cả nước (42%).

Mắc ca là một trong những mặt hàng chủ lực của tỉnh Lai Châu.

Về phát triển nông thôn mới, tỉnh định hướng phát triển gắn với du lịch và đã hình thành một số bản văn hóa như Sin Suối Hồ.

Để thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuẩn hóa gắn với chế biến sâu nông, lâm, thủy sản, tháo gỡ ùn tắc tại cửa khẩu, tỉnh Lai Châu kiến nghị một số nội dung:

Một, là kiến nghị Thủ tướng ban hành Đề án phát triển cây mắc ca, bởi đây là cây lâm nghiệp đa mục đích, rất phù hợp với thổ nhưỡng Lai Châu.

Hai, là kiến nghị Bộ NN-PTNT ban hành các chỉ tiêu về xây dựng nông thôn mới.

Ba, là kiến nghị xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển rừng, đặc biệt là kinh tế dưới tán rừng.

Bốn, là kiến nghị hỗ trợ tỉnh phát triển các trung tâm giống, các công nghệ, kỹ thuật, quy trình canh tác. “Với riêng Lai Châu, là sản phẩm sâm Lai Châu thuộc nhóm IIA, đảm bảo đủ chất lượng sản xuất trên quy mô lớn”, ông Trần Tiến Dũng thông tin tại hội nghị.

8h00

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến phát biểu khai mạc hội nghị.

Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến giới thiệu, tại điểm cầu chính ở trụ sở Bộ NN-PTNT có Thủ tướng Phạm Minh Chính, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ Khoa học & Công nghệ Huỳnh Thành Đạt, Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên, Bộ trưởng Bộ Thông tin & Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Hà Thị Nga.

Tại các điểm cầu trực tuyến, có sự tham dự của Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu Giàng Páo Mỷ, Bí thư Thành ủy Hải Phòng Trần Lưu Quang, Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu Lữ Văn Hùng, Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên Nguyễn Thanh Hải.

Nguồn Nongnghiep.vn

Chúng ta đang tạo ra một nền nông nghiệp Việt Nam rất mới

‘Cơ hội với nông nghiệp Việt Nam đang mở ra ngày một lớn hơn’, Tiến sĩ Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương.

Trước hết có thể nói rằng, trong những năm gần đây nhìn về nông nghiệp, nông dân, nông thôn chúng ta thấy đã có những thay đổi rất căn cơ.

Sự thay đổi bao trùm tất nhiên là tư duy rất mới trong nông nghiệp như xây dựng nền nông nghiệp hữu cơ, công nghệ cao, tuần hoàn… xây dựng nông dân thông minh, nông dân chuyên nghiệp, khởi nghiệp, xây dựng nông thôn hiện đại, nông thôn số hóa, xanh, truyền thống… Những mục tiêu thay đổi đó đã được cụ thể hóa thành chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng, Nhà nước.

Tuy nhiên, cá nhân tôi cho rằng có một số điểm mới thể hiện rõ sự thay đổi của nông nghiệp, nông dân, nông thôn so với trước đây. Từ đó thói quen tiêu dùng, tư duy về lối sống và quan niệm về sự phát triển đang chuyển biến, thay đổi rất sâu sắc.

Tiến sĩ Võ Trí Thành: Tư duy bền vững, trách nhiệm trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn đang được thể hiện ngày một rõ nét hơn.

Tiến sĩ Võ Trí Thành: Tư duy bền vững, trách nhiệm trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn đang được thể hiện ngày một rõ nét hơn.

Thứ nhất là lối sống, cách sống, quan niệm sống ở nông thôn, tư duy tiêu dùng trong nông nghiệp đã có nhiều sự thay đổi, nhất là qua đại dịch Covid-19. Nông thôn trở thành nền tảng thực sự để cưu mang, đùm bọc lẫn nhau khi có những biến cố xảy ra. Nông thôn trở thành bệ đỡ tạo công ăn việc làm, trở thành bảo hiểm, đảm bảo đời sống cho hàng triệu người lao động.

Từ những giá trị như vậy thì tư duy bền vững, trách nhiệm trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn đang được thể hiện ngày một rõ nét hơn. Tổ chức sản xuất, liên kết ở nông thôn không còn đơn thuần là giá trị kinh tế mà còn là văn hóa, chính trị, xã hội…

Thứ hai, trước kia và cho đến bây giờ, chúng ta vẫn thường đặt mục tiêu tăng trưởng, giá trị gia tăng trong nông nghiệp đạt khoảng từ 3-4% là rất tốt. Và thực tế trong nhiều năm cho thấy nông nghiệp bên cạnh những giá trị, vai trò là bệ đỡ lúc nền kinh tế khủng hoảng thì giá trị gia tăng trong nông nghiệp ngày càng đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của nền kinh tế đất nước. Tăng trưởng trong nông nghiệp không những đóng vai trò là trụ đỡ, là chỗ dựa mỗi khi nền kinh tế khủng hoảng mà đang trở thành lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.

Cụ thể như năm 2021, trong bối cảnh đời sống kinh tế xã hội chúng ta gặp muôn vàn những khó khăn khi đại dịch Covid-19 tác quai tác quái thì nông nghiệp là điểm sáng, đạt rất nhiều thành tựu tích cực.

Nông nghiệp không chỉ đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước mà chính những thành tựu xuất siêu rất nhiều nông lâm thủy sản đã góp phần cải thiện cán cân thương mại, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, nguồn thu ngoại tệ về cho Việt Nam.

Bây giờ nhìn về nông nghiệp Việt Nam không chỉ là góc độ quy mô hàng chục ngàn tỷ sản phẩm tiêu dùng mỗi năm mà còn là giá trị gia tăng rất cao, đã định vị được giá trị nông sản Việt và giá trị nông nghiệp Việt Nam tiếp tục được khẳng định ngày một tốt hơn.

Nói cách khác, từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, những thay đổi mang tính cách mạng khi sản xuất nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, gắn với những dịch vụ đi kèm, gắn với xây dựng thương hiệu nông sản đã tạo nên một nền nông nghiệp Việt Nam rất khác.

Thứ ba, trước đây chúng ta nói rằng đầu tư vào nông nghiệp là rủi ro, thậm chí còn xem như làm từ thiện, nhưng với tư duy mới, cách làm mới thì ngày càng có nhiều các nhà đầu tư, các quỹ đầu tư, các dòng tiền quan tâm và đầu tư vào nông nghiệp.

Ngày càng có nhiều các nhà đầu tư, các quỹ đầu tư, các dòng tiền quan tâm và đầu tư vào nông nghiệp. Ảnh: Tùng Đinh.

Ngày càng có nhiều các nhà đầu tư, các quỹ đầu tư, các dòng tiền quan tâm và đầu tư vào nông nghiệp. Ảnh: Tùng Đinh.

Doanh nghiệp dần khẳng định vai trò dẫn dắt trong chuỗi liên kết. Cùng với hệ thống chính sách, cơ chế rất đặc thù trong thu hút đầu tư thì vấn đề cách thức tổ chức sản xuất, các mô hình liên kết sản xuất như hợp tác xã, tư duy liên kết mới mẻ xuất hiện ngày càng nhiều hơn.

Từ đó, cách nhìn nhận về nông nghiệp, tiếp cận nông nghiệp cũng đã có những sự thay đổi. Nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ mới không chỉ đem lại năng suất mà điều quan trọng là giá trị gia tăng trong nông nghiệp đã được nâng cao hơn hẳn.

Thứ tư, từ những thay đổi về tư duy, nhận thức có thể thấy nông nghiệp của chúng ta không chỉ đáp ứng về mặt sản lượng mà ngày càng đáp ứng được những đòi hỏi về thương mại, những tiêu chí, tiêu chuẩn của thị trường, của xu thế tiêu dùng trên thế giới.

Chất lượng và thương hiệu nông sản Việt Nam ngày càng được khẳng định. Tư duy tận dụng những lợi thế và cơ hội của chúng ta khi tham gia vào những hiệp định thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp những năm gần đây cũng được cải thiện hết sức rõ rệt.

II.

Với tình hình thế giới hiện nay và xu thế của thời đại tôi cho rằng cơ hội của nông nghiệp Việt Nam đang ngày một mở ra quá lớn. Tất nhiên cũng phải nói thị trường nông sản thế giới sẽ ngày càng cạnh tranh khốc liệt hơn khi có rất nhiều quốc gia sản xuất nhưng dung tích thị trường tiêu dùng của thế giới đối với nông sản là vô biên.

Như tôi đã phân tích, tư duy mới rất phù hợp và chiến lược phát triển, tầm nhìn nông nghiệp dài hạn sẽ là nền tảng căn cơ để tăng giá trị gia tăng trong lĩnh vực nông nghiệp.

Thêm nữa, Việt Nam là quốc gia có rất nhiều lợi thế cạnh tranh về nông nghiệp và mức độ mở cửa của mình rất lớn, tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do, nhất là những hiệp định gắn với các thị trường lớn sẽ mở ra nhiều cơ hội hơn cho nông nghiệp.

Với tư duy nông nghiệp mới thì tôi tin rằng nếu chúng ta làm tốt hơn nữa công tác tổ chức sản xuất, nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số mạnh mẽ hơn nữa trong nông nghiệp thì chắc chắn giá trị gia tăng của lĩnh vực này sẽ ngày càng cao và thương hiệu nông sản Việt Nam ngày càng được khẳng định.

Thực tế tổ chức sản xuất nông nghiệp của chúng ta đã có nhiều thay đổi rất lớn. Trước kia từ hợp tác xã chuyển thành hộ gia đình, bây giờ có nhiều mô hình khác nhau như liên kết hợp tác xã kiểu mới, liên kết giữa hộ sản xuất và doanh nghiệp, liên kết năm nhà…

Tuy nhiên tôi vẫn luôn nghĩ cần phải có nghiên cứu chiến lược để gắn kết tốt hơn nữa giữa truyền thống văn hóa nông thôn và sản xuất theo chuỗi của cơ chế thị trường.

Cuối cùng, khu vực nông nghiệp hiện nay đã thu hút rất nhiều doanh nghiệp, các quỹ đầu tư và các dòng tiền đầu tư, trách nhiệm của Nhà nước là loại bỏ rào cản về mặt thể chế để nông nghiệp thực sự là lĩnh vực đáng để đầu tư.

Nguồn Nongnghiep.vn

HTX Trung Hiếu ứng dụng công nghệ để giảm ô nhiễm môi trường trong sản xuất

Để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường do tồn dư hóa chất sử dụng trong quá trình sản xuất phát thải ra môi trường, HTX sản xuất kinh doanh dịch vụ Trung Hiếu vừa nhận bàn giao thiết bị hệ thống sấy hút ẩm đối lưu công nghiệp. 

Nam Điền là một trong những xã có làng nghề truyền thống sản xuất các sản phẩm mây, tre, cói và đặc biệt là sản phẩm cói. Cói Nam Điền đã có mặt tại rất nhiều tỉnh, thành trong nước và cả nước ngoài. Người ta biết đến sản phẩm cói Nam Điền với chất cói dai, chắc, dày dặn và rất bền. Mặc dù là làng nghề có truyền thống sản xuất cói từ lâu đời nhưng trước đây người dân địa phương chỉ coi dệt cói là nghề phụ, sản xuất lúc nông nhàn và sản xuất theo hộ gia đình nhỏ lẻ.

HTX Sản xuất Kinh doanh, Dịch vụ Trung Hiếu được thành lập từ năm 2018 tại xóm 4, xã Nam Điền. Ngay sau khi thành lập, HTX đã vận động, tập trung các hộ làm nghề tham gia vào HTX. Tính đến nay, HTX đã có gần 400 thành viên.

Với sự năng động, sáng tạo, Hội đồng quản trị HTX đã đứng ra đảm nhận các khâu đầu vào, đầu ra cho sản phẩm, đồng thời đầu tư một số máy móc, thiết bị như máy ép cói, máy se lõi để nâng cao năng suất lao động giúp thành viên yên tâm sản xuất. Hiện nay, thu nhập bình quân của người lao động trong HTX đạt 4-6 triệu đồng/người/tháng; trung bình mỗi tuần HTX xuất đi 8.000 sản phẩm.

Lễ nghiệm thu, bàn giao các hạng mục hỗ trợ thuộc nhiệm vụ bảo vệ môi trường.

Tuy đã đạt được những thành quả rất khả quan, nhưng một vấn đề làm đau đầu Ban quản trị HTX và chính quyền địa phương chính là vấn đề ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất do tồn dư hóa chất sử dụng trong quá trình sản xuất phát thải ra môi trường.

Vấn đề nan giải nhất mà các hộ sản xuất kinh doanh mặt hàng mây tre cói ở đây đều phải đối mặt là vấn đề nấm mốc, sâu mọt phá hoại do đặc tính nguyên liệu này đặc biệt dễ bị ẩm mốc, nứt và bị sâu mọt phá hoại hơn rất nhiều những nguyên liệu khác. Thông thường, các hộ sản xuất nhỏ ở đây đều chủ yếu sử dụng lưu huỳnh (diêm sinh) để ủ sấy mây tre cói. Lưu huỳnh vừa có tác dụng chống mốc, mọt vừa có tác dụng làm trắng, lên màu vàng đẹp cho nhiều mặt hàng mây tre cói, thêm nữa giá của lưu huỳnh rất rẻ, cách sử dụng ủ sấy cũng rất đơn giản và tiện lợi.

Tuy nhiên, việc sử dụng này gây độc cho sản phẩm, gây ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của người trực tiếp sản xuất cũng như người tiêu dùng và phát thải ô nhiễm môi trường. Hơn nữa, lưu huỳnh cũng chỉ có tác dụng chống mốc, mọt trong một thời gian ngắn, sau khi bay hơi hết thì các hiện tượng mốc mọt vẫn xảy ra. Trên thị trường hiện nay cũng có một số loại thuốc chống mốc mọt nhập khẩu về từ Trung Quốc, giá rẻ và có hiệu quả ngay tức thì nhưng đây cũng là các chất độc bị cấm.

Nam Điền là một trong những xã có làng nghề truyền thống sản xuất các sản phẩm mây, tre, cói và đặc biệt là sản phẩm cói.

Hiểu được mối lo trên của HTX và chính quyền địa phương, Ban chủ nhiệm nhiệm vụ đã nghiên cứu, khảo sát, tìm hiểu các loại thiết bị công nghệ và đưa vào ứng dụng tại HTX hệ thống sấy hút ẩm đối lưu công nghiệp. Đây là hệ thống sấy, hút ẩm, khử khuẩn sản phẩm tiêu chuẩn Nhật Bản và Châu Âu giúp thay thế hầu như hoàn toàn hóa chất mà vẫn đảm bảo được màu sắc, đặc tính của sản phẩm.

Năm 2021, trước tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến rất phức tạp và khó lường ở các địa phương ảnh hưởng rất lớn đến công tác di chuyển, triển khai nhiệm vụ, nhưng với sự vào cuộc quyết liệt cũng như sự phối hợp nhiệt tình từ Liên minh HTX các tỉnh, Ban chủ nhiệm nhiệm vụ đã tiến hành khảo sát và lựa chọn HTX Sản xuất Kinh doanh, Dịch vụ Trung Hiếu tại xã Nam Điền, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định thực hiện mô hình.

Vấn đề nan giải nhất mà các hộ sản xuất kinh doanh mặt hàng mây tre cói đều phải đối mặt là vấn đề nấm mốc, sâu mọt phá hoại do đặc tính nguyên liệu này đặc biệt dễ bị ẩm mốc, nứt và bị sâu mọt phá hoại hơn rất nhiều những nguyên liệu khác.

Ngày 23/12, Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường (COSTE) thuộc Liên minh HTX Việt Nam đã tổ chức lễ bàn giao nghiệm thu và đưa vào sử dụng các hạng mục hỗ trợ mô hình thuộc nhiệm vụ bảo vệ môi trường “Ứng dụng công nghệ khắc phục, giảm thiểu ô nhiễm, cải thiện môi trường tại các HTX, làng nghề sản xuất các sản phẩm từ mây, tre, cói” cho HTX Sản xuất Kinh doanh, Dịch vụ Trung Hiếu tại xã Nam Điền, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

Tham dự lễ bàn giao, đại diện Liên minh HTX tỉnh có ông Trần Văn Phiệt – Phó Chủ tịch phụ trách Liên minh HTX tỉnh Nam Định. Đại diện chính quyền địa phương có ông Nguyễn Minh Tân – Phó Chủ tịch UBND xã Nam Điền. Về phía đơn vị chủ trì triển khai nhiệm vụ có ông Lê Tuấn An – Tổng Giám đốc COSTE và các thành viên thực hiện nhiệm vụ. Đại diện cho HTX có ông Trần Văn Trình – Chủ tịch HĐQT và đông đảo các thành viên HTX.

Hệ thống sấy hút ẩm đối lưu công nghiệp.

Đại diện HTX, ông Trần Văn Trình – Chủ tịch HĐQT rất phấn khởi đón nhận hệ thống và cảm ơn sự hỗ trợ của COSTE, đồng thời cam kết sẽ sử dụng tài sản được hỗ trợ một cách an toàn, hiệu quả. Đây là sự hỗ trợ rất thiết thực để HTX và các sản phẩm của HTX ngày càng được nâng cao về chất lượng, mẫu mã, sức cạnh tranh để đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu song song với việc khắc phục, giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại địa phương cũng như lan tỏa đến các HTX, làng nghề thủ công mỹ nghệ nói chung và sản xuất các sản phẩm mây tre cói nói riêng.

HTX Sản xuất Kinh doanh, Dịch vụ Trung Hiếu có các ngành nghề chủ yếu bao gồm: Sản xuất sản phẩm từ gỗ, sản xuất sản phẩm từ tre, nứa, rơm, rạ và vật liệu tết bện… sản xuất các sản phẩm dệt, bện, đan bằng cói, mây, tre, nứa các loại. Là một người con lớn lên trên mảnh đất nhiều truyền thống anh hùng, ông Trần Văn Trình – Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX đã không ngừng học hỏi và mạnh dạn đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến để phát triển HTX ngày càng lớn mạnh.

Nguồn vnbusiness.vn