Nhiều vùng sản xuất rau hữu cơ của Hà Nội đã phát triển thêm mô hình du lịch nông nghiệp mang lại nguồn thu nhập ổn định, bền vững.
Theo TS Ngô Kiều Oanh, chủ Trang trại Đồng Quê Ba Vì (Ba Vì, Hà Nội), du lịch nông nghiệp nông thôn tại Việt Nam những năm gần đây đã được nhiều địa phương chú trọng phát triển dưới các hình thức trải nghiệm theo điều kiện đặc thù của mình.
Theo định nghĩa của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), du lịch nông thôn là tất cả các hình thức du lịch hoạt động trong không gian nông thôn có đầy đủ chức năng là không gian mở, tiếp xúc với thiên nhiên, di sản, xã hội truyền thống, có sự kết nối với các cộng đồng gia đình làng xóm.
TS Ngô Kiều Oanh chia sẻ, từ năm 2008 đến nay, Trang trại Đồng quê Ba Vì đã thí điểm thực hiện xây dựng mô hình du lịch nông nghiệp mang tính gợi mở tại vùng phụ cận Vườn quốc gia Ba Vì.
Trang trại đã tiến hành các hoạt động nông nghiệp để kết nối cộng đồng du lịch trong và ngoài vùng Ba Vì. Đó là xây dựng các tour du lịch nông nghiệp, đóng góp vào việc bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc (có sự giao thoa Kinh, Mường, Dao), không gian cộng đồng nông nghiệp truyền thống và các sản vật gốc thiên nhiên.
Mục tiêu nhắm tới của mô hình là xác định phục vụ chu đáo các đối tượng du khách trong và ngoài nước đối với du lịch nông nghiệp, đặc biệt là các trường học và các gia đình, cơ quan đến từ trung tâm Hà Nội gắn với các mô hình nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ.
Mô hình cũng góp phần gắn kết chặt chẽ với cộng đồng nông dân của các làng nghề nông nghiệp truyền thống xung quanh trang trại, trên cơ sở nghiên cứu rất kỹ lưỡng lịch sử văn hóa hình thành sản vật trồng trọt và chăn nuôi.
Từ đó, mô hình không những có các thông tin thật sự hấp dẫn du khách mà còn trở thành đơn vị giới thiệu quảng bá rất hiệu quả và tích cực các sản phẩm nông nghiệp xanh – sạch – an toàn của vùng cho người tiêu dùng.
Đặc biệt, du khách đến từ thành phố sẽ được tham gia trực tiếp vào chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm rau hữu cơ nguồn gốc thiên nhiên như: Rau rừng, rau gia vị, rau thảo dược…
Trang trại cũng tiến hành đào tạo cho các cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp là con em tại địa phương nơi tất cả các kiến thức và kỹ năng du lịch nông nghiệp, tham gia vào việc đào tạo cho các nông hộ liên kết nằm trong tour du lịch nông nghiệp.
Trang trại cũng xây dựng các quan hệ liên kết trong và ngoài vùng thông qua thị trường du khách, tìm kiếm đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp đặc hữu của vùng như: Thảo dược, sữa, chè, rau sạch (rau gia vị và rau thảo dược), gà đồi, thịt bê. Đây là những sản phẩm được đăng ký thành sản phẩm OCOP của TP Hà Nội.
Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Hà Nội, hiện có rất nhiều vùng rau an toàn, rau hữu cơ, VietGAP trên địa bàn Thủ đô đã hình thành các khu du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp, nông thôn có thương hiệu và hoạt động hiệu quả.
Rất nhiều sản phẩm rau an toàn, rau VietGAP, đặc biệt rau hữu cơ tại các vùng quy hoạch của Thủ đô trong những năm qua đã được cấp chứng nhận OCOP 3 sao, 4 sao, là tiền đề quan trọng để hình thành nên các vùng du lịch nông nghiệp sinh thái.
Hiện đã có một số trang trại rau hữu cơ phát triển hiệu quả loại hình du lịch nông nghiệp như: Trang trại Hoa Viên, Thung lũng Ngọc Linh (Thạch Thất), Nông trại hữu cơ Tuệ Viên (Long Biên), Nông trại hữu cơ Dfarm (Gia Lâm), Trang trại Đồng Quê, Bavi Biofarm, Organica, Khu sinh thái Tiên Linh (Bà Vì)…
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam mới đây đã phối hợp với Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội tổ chức Hội thảo đóng góp ý kiến cho Dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) sửa đổi.
Theo đó, Luật Bảo vệ môi trường lần đầu được thông qua năm 1993 và được sửa đổi hai lần vào các năm 2005, 2014. Để phù hợp với tình hình mới, Dự thảo Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi lần thứ ba sẽ được trình Quốc hội trong kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV sắp tới.
Sửa đổi để phù hợp với tình hình mới
Phát biểu tại Hội thảo lấy ý kiến, ông Nghiêm Vũ Khải – Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cho biết, hơn 5 năm qua, bối cảnh kinh tế – xã hội, hiện trạng môi trường của đất nước và xu thế môi trường thế giới đã nhiều thay đổi so với thời điểm Luật BVMT mới ra đời. Đặc biệt, với tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó, có rất nhiều quy định liên quan đến các bộ luật khác, trong đó có nhiều vấn đề chồng chéo, gây khó khăn cho quá trình thực thi. Qua tổng kết đánh giá, việc triển khai Luật BVMT tại các địa phương còn nhiều khó khăn, vướng mắc có liên quan đến một số quy định, chính sách được quy định trong luật.
Phát triển kinh tế xã hội giúp chúng ta đạt được những thành tựu lớn, tuy nhiên, song song với đó là môi trường đang diễn biến ngày càng phức tạp, tình trạng ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng hơn. Việc sửa đổi Luật giúp phù hợp với tình hình thực tế. Dự kiến, dự thảo Luật BVMT (sửa đổi) bao gồm 16 chương và 192 điều, giảm 4 chương và tăng 21 điều so với Luật BVMT năm 2014.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Võ Tuấn Nhân khẳng định, việc xây dựng Luật BVMT (sửa đổi) nhằm hoàn thiện thể chế, chính sách, quy định pháp luật về BVMT phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất về BVMT, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về BVMT đáp ứng yêu cầu đặt ra của giai đoạn phát triển mới, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững.
Giảm bớt các thủ tục hành chính về môi trường
Tại Hội thảo, rất nhiều ý kiến xác đáng trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở đã góp ý cho dự thảo luật BVMT sửa đổi lần này. TS Hoàng Dương Tùng, Ủy viên thường vụ Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam cho rằng, dự thảo Luật BVMT (sửa đổi) đã có nhiều nội dung mới như giấy phép môi trường, nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường, kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, giảm bớt các thủ tục hành chính về môi trường, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Tăng cường thanh tra, tăng mức xử phạt hành chính, công khai thông tin. Ngoài ra, thống nhất quản lý, tăng cường trách nhiệm của cơ quan bảo vệ môi trường, phân cấp mạnh mẽ cho địa phương.
Về nội dung về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và giấy phép môi trường, theo TS Hoàng Dương Tùng, Dự thảo cần có thêm quy định yêu cầu phải áp dụng công nghệ thông tin để công bố các giấy phép môi trường trên hệ thống mạng, góp phần nâng cao công tác quản lý. Thêm vào đó, theo Luật BVMT năm 2014, các loại giấy phép như xả thải, khí thải… vẫn đang được cấp riêng rẽ, cần tích hợp vào trong một giấy phép môi trường.
Đại diện Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và môi trường, ông Nguyễn Trọng Hiệu cho rằng cần bổ sung hoạt động tổ chức quan trắc khí tượng thủy văn theo dõi và giám sát diễn biến của khí hậu và tổ chức các hoạt động giáo dục, đào tạo, truyền thông nâng cao nhận thức về BĐKH cho công chúng theo các cam kết đối với Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC).
Về các quy định thực hiện cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu, theo TS Nguyễn Như Mai, các nội dung quy định tại Dự thảo về cơ bản đáp ứng các yêu cầu thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam gồm những quy định chung, nguyên tắc; những quy định chi tiết, kỹ thuật, tổ chức bộ máy sẽ được quy định ở các văn bản pháp quy; các luật khác có liên quan.
Bà Nguyễn Thụy Khanh, Trung tâm Phát triển sáng tạo xanh (GreenID) cho rằng, Dự thảo chưa có quy định cụ thể để khai thác và phát triển ngành công nghiệp môi trường quốc gia. Chúng ta muốn kiểm soát và quản lý tốt môi trường thì phải có chính sách ràng buộc các đơn vị tổ chức đầu tư vào khoa học công nghệ trong sản xuất và xử lý môi trường. Đồng thời, cần bổ sung vai trò của Bộ Tài nguyên và Môi trường vào giám sát môi trường không khí liên vùng, tỉnh. Tăng cường các công cụ kinh tế trong kiểm soát khí thải, cần quan tâm vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giám sát và quản lý môi trường…
Kết luận Hội thảo, Đại diện Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đánh giá cao các ý kiến tại Hội thảo và khẳng định sẽ tiếp thu các ý kiến, từ đó yêu cầu Ban soạn thảo thẩm tra, rà soát và bổ sung để hoàn thiện Dự thảo Luật BVMT một cách.
Cùng với đẩy mạnh sản xuất ứng dụng khoa học công nghệ, Hòa Bình đang chuyển mình sang sản xuất nông nghiệp giá trị cao, an toàn, bền vững theo hướng hữu cơ.
Hình thành sản xuất hàng hóa, bền vững
Do thói quen sản xuất, trình độ canh tác, điều kiện địa hình… nên trước đây, phần lớn diện tích đất vườn của các hộ dân tại tỉnh Hòa Bình chỉ được phát triển dưới hình thức vườn tạp. Từ năm 2016, Hòa Bình đã ban hành nghị quyết về cải tạo vườn tạp.
Theo đó, mỗi địa phương căn cứ trên điều kiện sản xuất đặc thù để cải tạo, xây dựng thành vùng sản xuất hàng hóa bằng các hình thức phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng. Tập trung cải tạo vườn tạp để có sản phẩm đặc thù gắn với địa phương như các loại cây ăn quả: Bưởi đỏ, bưởi da xanh, nhãn, ổi, táo, mía tím…
Các xã vùng cao tập trung cải tạo vườn tạp, gắn với phát triển theo hướng hữu cơ, bền vững, với sản phẩm chủ yếu: Rau su su, quýt ngọt, cây dược liệu, rau an toàn… Các xã vùng sâu tập trung cải tạo vườn tạp với sản phẩm chủ yếu: Cây dổi, một số cây bản địa, cây dược liệu…
Trên cơ sở đó, những loại cây trồng bản địa dần được thay thế bằng giống cây trồng mới. Việc cải tạo vườn tạp đã giúp giá trị sản xuất tăng cao. Đã có hàng nghìn hộ gia đình chuyển đổi, cải tạo vườn tạp sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao như cây ăn quả (nhãn, na, cây ăn quả có múi), rau, cây dược liệu…
Đến nay, toàn tỉnh có gần 450 ha diện tích sản xuất trồng trọt được chứng nhận đủ điều kiện an toan thực phẩm (ATTP), trong đó, hơn 166 ha được chứng nhận theo tiêu chuẩn VietGAP. Hơn 2.000 ha cây ăn quả có múi, 66,5 ha các cây trồng khác như chuối, nhãn, thanh long, nghệ đỏ được chứng nhận đủ điều kiện sản xuất ATTP, chứng nhận VietGAP. Toàn tỉnh đã xác định được 14 khu vực trồng trọt tập trung ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học tại 7 huyện với diện tích 289,5 ha…
Chúng tôi đến thăm mô hình trồng dưa lưới của anh Lê Xuân Hà, thôn Đồng Huống, xã Thống Nhất, huyện Lạc Thủy (Hòa Bình). Với tổng diện tích trang trại trên 34 ha, anh dành ra 2 ha đầu tư xây dựng 5 nhà màng công nghệ cao sản xuất dưa lưới Nhật Bản theo tiêu chuẩn GlobalGAP. Mỗi năm, anh xuất ra thị trường từ 200 – 300 tấn dưa lưới đảm bảo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm vào hệ thống các siêu thị và chuỗi cửa hàng tiện ích.
Anh Hà cho biết: Toàn bộ nhà màng trồng dưa lưới của anh được vận hành một cách tự động thông qua tủ điều khiển trung tâm và ứng dụng nhiều kỹ thuật chăm sóc hiện đại như: Sử dụng bạt trải sàn có màu trắng để phản xạ ánh sáng giúp cây quang hợp tốt hơn. Sử dụng máng cách ly, khay thu hồi nước hạn chế nấm, bệnh phát triển trong vườn. Công nghệ tưới nhỏ giọt có bù áp giúp cây phát triển đồng đều, hệ thống quạt giúp điều chỉnh nhiệt độ luôn duy trì ở mức 37°C độ ẩm nhỏ hơn 95%…
Nhờ áp dụng những kỹ thuật canh tác hiện đại, anh giảm thiểu được chi phí nhân công, phân bón, thuốc BVTV. Đồng thời, cây hấp thụ tốt hơn và đảm bảo đủ hàm lượng dinh dưỡng cho từng giai đoạn phát triển.
Bên cạnh đó, trồng dưa lưới trong nhà màng còn giúp kiểm soát tốt sâu bệnh và những ảnh hưởng bất lợi từ thời tiết hay biến đổi khí hậu thất thường… giúp cho cây phát triển khỏe mạnh, năng suất cao, hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc BVTV, cho ra sản phẩm đảm bảo an toàn.
Đến nay, Hòa Bình cũng đã xây dựng chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm cam quả của huyện Cao Phong; bảo hộ thành công nhãn hiệu tập thể bưởi đỏ Tân Lạc. Hình thành được nhiều vùng sản xuất hàng hóa có hiệu quả kinh tế cao như: Vùng sản xuất cây có múi thuộc HTX Nông nghiệp thương mại Mường Động (huyện Kim Bôi) với diện tích 125 ha được sản xuất theo chuỗi giá trị khép; Vùng sản xuất nhãn an toàn theo hướng hữu cơ thuộc HTX Nông nghiệp Sơn Thủy (huyện Kim Bôi) với diện tích 134 ha theo tiêu chuẩn VietGAP. Trong đó, đã có 18,8 ha được cấp mã số vùng trồng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang Trung Quốc…
Lan tỏa sản xuất sạch trong chăn nuôi, thủy sản
Không chỉ trong trồng trọt, các điển hình về áp dụng tiến bộ trong chăn nuôi cũng ngày càng được nhân rộng tại nhiều địa phương ở tỉnh Hòa Bình.
Trang trại gà của anh Trần Tiến Bốn, thôn Kim Đức, xã Vĩnh Tiến (Kim Bôi, Hòa Bình) hiện đang nuôi 12.000 con, trong đó gà bố mẹ 10.000 con, gà hậu bị 2.000 con. Trước đây anh trồng sắn, rau màu nhưng không hiệu quả. Sau đó, anh mạnh dạn chuyển diện tích đất vườn sang chăn nuôi gà. Khởi điểm anh nuôi 2.000 con, khi có hiệu quả anh đầu tư mở rộng trang trại, tăng đàn nuôi và đầu tư xây dựng lò ấp trứng. Mỗi năm anh xuất ra thị trường 21 vạn con.
Anh Bốn chia sẻ: Trước đây, chuồng trại nuôi không được đầu tư bài bản nên gà hay mắc bệnh, chậm lớn, phân thải của gà xử lý không hết nên bốc mùi hôi khó chịu, ấp trứng bằng phương pháp thủ công nên tỷ lệ đậu không cao.
Tuy nhiên, từ khi anh áp dụng nuôi gà bằng đệm lót sinh học tình trạng mùi phân không còn, nền chuồng tơi xốp nên gà khỏe mạnh, tránh được nhiều bệnh như rệp, bọ chó, ho hen… Bên cạnh đó anh đầu tư hệ thống máy ấp trứng hoàn toàn tự động nên tỷ lệ trứng nở đạt 99%.
Ngoài ra, Hòa Bình hiện nay còn rất nhiều mô hình sản xuất thủy sản theo hướng hữu cơ, đảm bảo an toàn thực phẩm, cho hiệu quả kinh tế cao như: Mô hình nuôi cá bỗng, cá trắm đen, cá tầm trên lòng hồ sông Đà; bảo tồn gen giống gà Lạc Thủy…
Ông Đỗ Đức Trường, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Hòa Bình đánh giá: Các mô hình sản xuất nông nghiệp theo VietGAP, GlobalGAP, theo hướng hữu cơ đang ngày càng nở rộ tại Hòa Bình, không chỉ nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và giá trị sản phẩm, mà còn giúp bà con ngày càng thay đổi tư duy sản xuất theo hướng an toàn, bền vững, hài hòa với môi trường sinh thái…
Tuy nhiên, việc nhân rộng mô hình sản xuất sạch, an toàn, theo hướng hữu cơ vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu do nguồn vốn của người dân không đủ để đầu tư, cộng với trình độ canh tác còn thấp, khi chuyển giao công nghệ gặp phải sự nghi hoặc của người dân, nên công tác quản lý, mở rộng gặp rất nhiều khó khăn…
Ngoài ra, thói quen sản xuất nông hộ, tiêu thụ nông sản chạy theo giá thị trường cũng là một rào cản lớn. Mặc dù, có các đơn vị ký kết hợp đồng bao tiêu lâu dài nhưng khi giá cả thị trường biến động, người dân lại chủ động phá vỡ mối liên kết đó, làm cho nhiều doanh nghiệp gặp khó trong công tác xây dựng vùng nguyên liệu.
Để khắc phục tình trạng này, theo ông Trường cần sự vào cuộc thực sự, quyết liệt của chính quyền ở các địa phương đóng vai trò then chốt. Bởi lẽ, chính quyền địa phương gần người dân nhất, việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, cũng như quản lý, thậm chí là các chế tài để duy trì các mối liên kết sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn rất nhiều so với các cơ quan chuyên môn cấp trên khi về địa phương xây dựng vùng sản xuất.
“Trong thời gian tới ngành nông nghiệp sẽ tiếp tục khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh nông sản an toàn, theo chuỗi giá trị. Chú trọng phát huy vai trò doanh nghiệp và các HTX, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất. Gắn kết chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển ngành nông nghiệp với chương trình xây dựng nông thôn mới, chương trình giảm nghèo bền vững”.
Ông Đỗ Đức Trường, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Hòa Bình.
Ứng dụng công nghệ thông minh trong sản xuất nông nghiệp đang có sự lan tỏa rất mạnh mẽ tại tỉnh Đồng Tháp
Đồng Tháp là địa phương đầu tiên trong cả nước được lựa chọn thí điểm xây dựng và thực hiện Đề án Tái cơ cấu nông nghiệp.
Đặc biệt ba năm trở lại đây, các doanh nghiệp, chính quyền địa phương và nông dân ở Đồng Tháp đã đặt nhiều niềm tin và kỳ vọng vào các máy móc, công nghệ thiết bị tự động mang lại hiệu quả thiết thực như: thiết bị giám sát sâu rầy, thiết bị tưới tự động khi ứng dụng công nghệ IoT vào thiết bị…
Nông nghiệp 4.0 được nhiều nông dân ứng dụng
Những ngày cận tết, chúng tôi về vùng trồng cây quýt đường và cam sành ở huyện Lai Vung, ai nấy cũng tất bật chăm sóc vườn của mình để chuẩn bị nông sản bán đúng vào dịp tết.
Vườn của ông Nguyễn Phú Thạnh ở xã Vĩnh Thới, huyện Lai Vung là một trong những người đã sáng chế thành công hệ thống tưới cây, phun thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) điều khiển bằng điện thoại di động khá hiện đại.
Ông Thạnh cho biết năm 2011, trong một lần thấy đứa con điều khiển chiếc xe ôtô điện tử, lúc này trong đầu ông Thạnh lóe lên ý nghĩ sẽ làm hệ thống tưới nước tự động và điều khiển bằng remote. Để có được kiến thức về điện, mạch, chíp, bán dẫn, sóng… ông tìm đến một vài người bạn trong lĩnh vực điện tử và tự mày mò trên Internet, rồi cẩn thận ghi chép lại tất cả các kiến thức hữu ích.
Sau đó, để có được các thiết bị phục vụ cho việc sáng chế, ông Thạnh tìm đến các điểm thu mua phế liệu, mua lại máy móc cũ, hư để nghiên cứu, làm thử nghiệm. Cuối cùng ông Thạnh đã thành công với hệ thống tưới nước, pha thuốc BVTV tự động điều khiển bằng remote. Tuy nhiên, khi đưa vào hoạt động, có một bất cập là khoảng cách điều khiển remote chỉ trong phạm vi 20 – 30 m và phải chạy khắp vườn để rà sóng.
Nghĩ đến điện thoại di động có thể phủ sóng mọi nơi, ông Thạnh lại lao vào tìm cách đấu nối, lắp sim số thế vào bộ điều khiển. Chỉ sau một tuần, ông đã chế thành công với hệ thống phun thuốc BVTV, tưới cây điều khiển bằng điện thoại di động.
Theo ông Thạnh, thay vì trước đây, để tưới cho 5 công vườn, ông phải làm từ 7 giờ sáng đến 2 giờ chiều. Còn bây giờ, chỉ với cái mô-tơ, thiết kế 6 van (mỗi van 100 béc phun), thời gian tưới nước của mỗi van là 10 phút, việc tưới nước chỉ mất 60 phút cho cả khu vườn.
Còn tại vùng trồng lúa huyện Tháp Mười, nông dân được mãn nhãn với hoạt động của Trạm giám sát sâu rầy thông minh, đặt tại đồng lúa của nông dân thuộc HTX dịch vụ nông nghiệp Thắng Lợi.
Nông nghiệp thông minh tạo ra sản xuất an toàn
Ông Nguyễn Phước Thiện, Giám đốc Sở NN-PTNT Đồng Tháp cho biết: Trong quá trình thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp gắn với tiếp cận kinh tế số, đã xuất hiện nhiều cá nhân, tổ chức mạnh dạn thay đổi và ứng dụng chuyển đổi số vào sản xuất nông nghiệp cũng như nhiều mô hình kinh tế giá trị cao.
Trong lĩnh vực trồng trọt và BVTV, bước đầu sử dụng máy bay không người lái phun thuốc BVTV (Drone), mô hình cánh đồng sản xuất lúa tiên tiến, tiết kiệm nước ứng dụng các giải pháp công nghệ 4.0 và cơ giới hóa toàn diện tại HTX dịch vụ nông nghiệp Mỹ Đông 2 (huyện Tháp Mười). Ứng dụng công nghệ GIS phục vụ công tác dự tính, dự báo dịch hại nhằm chủ động phòng chống.
Lĩnh vực chăn nuôi, đã ứng dụng thành công phần mềm báo cáo dịch bệnh trực tuyến VAHIS trong báo cáo dịch bệnh trên đàn vật nuôi, ứng dụng phần mềm Quantum GIS trong phân tích, đánh giá tình hình dịch bệnh trên đàn vật nuôi, xây dựng bản đồ dịch tễ.
Lĩnh vực thủy sản, thực hiện chương trình nâng cao chất lượng con giống cá tra cải thiện di truyền có gắn (chip) theo dõi, đến nay đã chuyển giao 21.610 con cá bố mẹ cho 13 cơ sở sản xuất giống trên địa bàn tỉnh.
Lĩnh vực thủy lợi và lâm nghiệp, hạ tầng thủy lợi đã được số hóa để quản lý và giám sát, xây dựng và lắp đặt 16 trạm cảnh báo sớm giông sét trên địa bàn các huyện, thành phố. Ứng dụng công nghệ viễn thám, công nghệ thông tin và hệ thống thông tin địa lý (GIS) trong điều tra, kiểm kê và theo dõi diễn biến rừng.
Ứng dụng công nghệ thông tin kết nối thị trường, truy xuất nguồn gốc gồm các mô hình “Cây xoài nhà tôi”, “Cây cam vườn tôi”, “Ruộng nhà mình”, tạo gắn kết giữa người sản xuất và người tiêu dùng sở hữu được sản phẩm mình yêu thích, giúp gia tăng giá trị.
HTX Xoài Mỹ Xương (huyện Cao Lãnh) đã thực hiện mô hình ứng dụng blockchain trong truy xuất nguồn gốc xoài. Ứng dụng thương mại điện tử, sàn giao dịch thương mại điện tử trong quảng bá và mở rộng thị trường tiêu thụ…
Trong công tác quản lí nhà nước trong ngành nông nghiệp, việc ứng dụng chuyển đổi số trong xây dựng hệ thống dữ liệu ngành nông nghiệp nhằm lưu trữ, phục vụ cho công tác quản lý nhà nước và nhu cầu khai thác của doanh nghiệp, hỗ trợ chia sẻ các thiết bị nông nghiệp qua các nền tảng số.
Theo ông Thiện, những kết quả bước đầu của việc chuyển đổi số trong nông nghiệp là đáng trân trọng, song chưa nhiều. Việc thích ứng với kinh tế số để vận dụng trong thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp hiện nay vẫn còn là thách thức.
Do vậy, để tăng cường việc chuyển đổi số trong nông nghiệp trong thời gian tới, ngành nông nghiệp chú trọng nông nghiệp thông minh để tạo ra sản phẩm an toàn, truy xuất nguồn gốc, tăng tỷ trọng của nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh trong nền kinh tế.
Ứng dụng công nghệ số để tự động hóa các quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý, giám sát nguồn gốc, chuỗi cung ứng sản phẩm, bảo đảm nhanh chóng, minh bạch, chính xác, an toàn, vệ sinh thực phẩm.
Đồng thời nhân rộng những nghiên cứu thực hiện ý tưởng “mỗi nông dân là một thương nhân”, thiết lập nhật ký điện tử trong chuỗi liên kết nông sản để phục vụ truy xuất nguồn gốc, bước đầu cần áp dụng tại các HTX kiểu mới của tỉnh.
Ông Nguyễn Văn Hùng, Giám đốc HTX Thắng Lợi cho biết, đây là mạng lưới mang lại rất nhiều tiện ích cho nông dân. Bây giờ chuyện sâu rầy không phải quá lo lắng nữa. Giờ chỉ cần mở phần mềm cài sẵn trên điện thoại là có thể biết được mật độ sâu rầy trong từng thời điểm, chủng loại gì, rồi mới quyết định phun thuốc hay không, chứ không phải như trước đây cứ thấy sâu rầy là xịt ngay vừa tốn tiền mà không đem lại hiệu quả.
Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định vai trò dẫn dắt của Bộ Khoa học và Công nghệ khi xây dựng chính sách thúc đẩy phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo.
Tại buổi làm việc với Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) sáng 27/5, Thủ tướng Phạm Minh Chính ghi nhận những thành tựu thời gian qua ngành KHCN cùng đội ngũ cán bộ, nhà khoa học với vai trò nòng cốt của Bộ đã làm được nhiều việc, góp phần vào thành tích chung của cả nước sau 35 năm đổi mới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng năng suất lao động, tăng cường hội nhập quốc tế.
Bộ trưởng Bộ KHCN Huỳnh Thành Đạt minh họa một số kết quả thể hiện KHCN trở thành động lực trong phát triển kinh tế xã hội. Trong đó chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011-2015 lên 45,2% giai đoạn 2016-2020 (vượt mục tiêu 35%).
Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam những năm gần đây liên tục tăng vượt bậc, năm 2020 xếp thứ 42/131 quốc gia, dẫn đầu nhóm quốc gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 trong ASEAN, sau Singapore và Malaysia.
Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Việt Nam bắt đầu được hình thành và phát triển. Nguồn lực tài chính từ xã hội cho KHCN tăng mạnh, nếu 10 năm trước chủ yếu dựa vào ngân sách (chiếm 70 đến 80%) thì nay đầu tư từ ngân sách nhà nước và doanh nghiệp đã tương đối cân bằng với tỷ lệ tương ứng 52% và 48%.
Số lượng bài báo công bố quốc tế ISI của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020 tăng trung bình 20%, riêng năm 2020 tăng 45% so với năm 2019.
Một số lĩnh vực như toán học, vật lý, hóa học tiếp tục giữ thứ hạng cao trong khu vực ASEAN. Hệ thống các tổ chức KH&CN phát triển mạnh, đội ngũ nhân lực có khoảng 72.290 cán bộ nghiên cứu, nhiều nhà khoa học có uy tín, được thế giới công nhận.
Ông cũng khẳng định, để KHCN và đổi mới sáng tạo thực sự là động lực chính trong tăng trưởng kinh tế, có 6 phương hướng trọng tâm, trong đó tập trung hoàn thiện thể chế; tăng cường đầu tư cho KHCN và đổi mới sáng tạo; phát triển thị trường KHCN và đổi mới sáng tạo; tập trung cho đổi mới công nghệ; chú trọng phát triển nguồn nhân lực; nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp.
Bộ trưởng đề xuất nhiều nội dung với mục tiêu là hoàn thiện hệ thống pháp luật về cơ chế, chính sách thúc đẩy hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo, trong đó có pháp luật về đầu tư, đầu tư công, ngân sách Nhà nước, về tài sản công và các văn bản hướng dẫn về xử lý tài sản hình thành từ nhiệm vụ KHCN, về chính sách thuế….
Ông cho rằng, phải đổi mới thực sự cơ chế, phương thức quản lý các chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học. Xây dựng cơ chế Bộ KHCN chịu trách nhiệm về chất lượng nghiên cứu để tháo gỡ vướng mắc quy trình, thủ tục liên quan đến các đề tài, nhiệm vụ KHCN sử dụng ngân sách Nhà nước theo hướng chấp nhận nguyên tắc rủi ro trong khoa học, tin các nhà khoa học thay vì quản lý theo hướng chống thất thoát. Công khai, minh bạch tất cả các nhiệm vụ, đề tài nghiên cứu để chính các nhà khoa học và cộng đồng giám sát.
Bộ cũng kiến nghị tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp trong việc sử dụng Quỹ phát triển KHCN đầu tư cho đổi mới công nghệ, trong đó đề nghị Bộ Tài chính sớm ban hành Thông tư sửa đổi Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BKH&CNBTC hướng dẫn nội dung chi và quản lý Quỹ… Bộ trưởng kiến nghị việc phân bổ nguồn vốn sự nghiệp KHCN vốn đầu tư phát triển KHCN trong năm 2020 và các năm tiếp theo để có đủ nguồn lực triển khai thực hiện hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo; bổ sung cấp vốn điều lệ (2.000 tỷ đồng) cho Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia trong nguồn vốn đầu tư công trung hạn 2021-2025…
Đánh giá cao những thành tựu của ngành, Thủ tướng khẳng định, KHCN “giai đoạn nào cũng cần” và quốc gia nào muốn phát triển đột phá cũng phải có KHCN đóng vai trò dẫn dắt, đột phá. Thủ tướng mong muốn Bộ KHCN đóng vai trò trung tâm điều phối, kết nối phát triển KHCN tại các bộ, ngành, địa phương và truyền cảm hứng cho các nhà khoa học.”Phải thiết kế thể chế, cơ chế, chính sách để hàng trăm nghìn doanh nghiệp, cả xã hội cùng vào cuộc để thúc đẩy KHCN tiếp tục phát triển”, Thủ tướng nói.
Tán thành với những hạn chế, bất cập được chỉ ra, Thủ tướng cũng thẳng thắn nhìn nhận ngành còn phát triển manh mún, chia cắt, chưa thực sự có trọng tâm, trọng điểm. Một trong những nguyên nhân là do thiếu mạnh mẽ, quyết liệt; cơ chế, thể chế, chính sách còn hạn hẹp; chưa đi đúng trọng tâm, trọng điểm, đúng hướng; nguồn lực đầu tư chưa xứng tầm…
Cho rằng cần kế thừa, phát huy những thành tựu, bài học kinh nghiệm, Thủ tướng yêu cầu cần ngành xác định đúng trọng tâm, trọng điểm: “Nghiên cứu, ứng dụng KHCN phải đi vào cái ta cần chứ không phải cái ta có; lấy khó khăn, thách thức là động lực vươn lên, trưởng thành, phát triển”, Thủ tướng nói và nhấn mạnh đầu tư KHCN phải tập trung cho 3 khâu đột phá chiến lược và phù hợp với tiềm năng, thế mạnh từng vùng miền, góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao chỉ số phát triển con người.
Đồng tình với các kiến nghị, Thủ tướng giao Bộ KHCN, Bộ Tài chính xây dựng cơ chế, chính sách ưu tiên, khuyến khích nghiên cứu KHCN phục vụ phòng chống dịch và sản xuất vaccine ngừa Covid-19, trong đó có quy định về đầu tư rủi ro. Đồng thời, sửa đổi các quy định về tài chính cho nghiên cứu, ứng dụng KHCN. Ông lưu ý: “đừng thiết kế một quy trình mà chứng từ thanh toán dày hơn cả công trình nghiên cứu”. Cần xây dựng cơ chế, tạo động lực phát triển KHCN, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo gắn với phát triển kinh tế, xã hội theo chiều sâu, bền vững, phát triển KHCN gắn với phát triển văn hóa và con người.
Việc được cấp mã số vùng trồng có vai trò vô cùng quan trọng đối với các HTX khi muốn mở rộng thị trường thông qua hình thức xuất khẩu. Tuy nhiên, không ít HTX đang gặp khó khăn trong việc hoàn thiện mã số vùng trồng, nên đầu ra cho nông sản chưa được như kỳ vọng.
Gần đây, các HTX sản xuất nông sản đang quan tâm đến yêu cầu rào cản kỹ thuật đối với sản phẩm xuất khẩu. Đặc biệt, một số nước EU, Trung Quốc, Mỹ, Úc, Nhật Bản yêu cầu nông sản tươi nhập khẩu buộc phải có thông tin mã số vùng trồng (yêu cầu trình tự, thủ tục cấp mã số vùng trồng sang thị trường các nước là khác nhau).
Chưa có tiêu chí cho cây gia vị
Điều 64, Luật Trồng trọt (có hiệu lực từ ngày 1/1/2020), mã số vùng trồng là mã số định danh cho một vùng trồng trọt nhằm theo dõi và kiểm soát tình hình sản xuất; kiểm soát chất lượng sản phẩm, truy xuất nguồn gốc cây trồng. Đối với các vùng trồng được cấp mã số, cơ quan chức năng nước nhập khẩu có thể sang Việt Nam kiểm tra đột xuất hoặc thông qua định vị GPS về tình hình sản xuất, việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng sản phẩm… tại các vùng trồng.
Hiểu được vai trò của việc cấp mã số vùng trồng, HTX sản xuất kinh doanh dịch vụ nông nghiệp xã An Ấp (Quỳnh Phụ, Thái Bình) đã chú trọng sản xuất theo quy trình an toàn với diện tích mỗi năm lên đến 80ha. Diện tích trồng ớt được trồng tập trung, áp dụng quy trình đồng nhất về canh tác, phòng trừ dịch bệnh, nhật ký đồng ruộng đầy đủ, đặc biệt là nhật ký về xử lý thuốc bảo vệ thực vật. Chính vì vậy, HTX đã được cấp chứng nhận quy trình sản xuất tiên tiến VietGAP.
Các thành viên HTX An Ấp vẫn chưa thể xuất khẩu ớt chính ngạch sang Trung Quốc vì chưa được cấp mã số vùng trồng.
Tuy nhiên, theo Giám đốc HTX Nguyễn Văn Sĩu, dù sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn với diện tích hàng chục ha nhưng khi đi xin cấp mã số vùng trồng thì địa phương cho biết Bộ NN&PTNT chưa hướng dẫn tiêu chuẩn cấp mã số vùng trồng cho ớt.
“Thế là niềm tin của thành viên và người dân vào việc xuất khẩu ớt chính ngạch sang Trung Quốc đành phải dừng lại”, ông Sĩu tâm sự.
Tương tự, HTX tỏi Vạn Hưng (Khánh Hòa) đang sản xuất trên diện tích 21 ha. Để giải quyết bài toán đầu ra, HTX thực hiện đăng ký cấp mã số vùng trồng, nhưng đến nay hồ sơ chưa hoàn thiện vì địa phương trả lời mới chỉ có tiêu chuẩn cấp mã số vùng trồng cho các loại cây ăn quả, còn đối với tỏi, dù đã tìm “đỏ mắt” vẫn chưa thấy hướng dẫn cụ thể.
Tình trạng HTX An Ấp và HTX Vạn Hưng đang gặp phải cũng là khó khăn của hầu hết các HTX đang sản xuất các loại cây gia vị trên cả nước trong việc hoàn thiện cấp mã số vùng trồng.
Theo ông Nguyễn Văn Đoan, Chuyên gia đánh giá, Trung tâm mã số, mã vạch quốc gia, đến nay cả nước đã có 2.733 mã số vùng trồng được cấp để xuất khẩu nhưng tập trung vào các loại cây ăn quả như: thanh long, xoài, nhãn, vải, chôm chôm, nhãn… Còn đối với các sản phẩm gia vị như gừng, tỏi, ớt, nghệ, sả… thì chưa có địa phương nào hoàn thiện việc cấp mã số vùng trồng.
Vấn đề này không hoàn toàn do nông dân, HTX chưa hoàn thiện các tiêu chuẩn sản xuất theo quy định, mà còn vì đến nay mới chỉ có bộ tiêu chuẩn rõ ràng cho cây ăn quả, vẫn chưa có bộ tiêu chí (hay tiêu chuẩn) riêng cho các dòng nông sản khác, nên nhiều địa phương không biết áp dụng theo cách nào. Đó cũng là lý do mà hiện nay, các nông sản khác, đặc biệt là gia vị phải xuất tiểu ngạch, đi bao biên và phía chịu thiệt hại chính là nông dân, HTX.
Hoàn thiện bộ tiêu chuẩn
“Nếu như trong việc cấp tiêu chuẩn hữu cơ, VietGAP… có thể áp dụng cho các loại cây trồng thì trong cấp mã số vùng trồng, nông dân, HTX, doanh nghiệp phải đạt đủ các điều kiện của nước nhập khẩu mới không bị trả hàng. Nhưng điều kiện như thế nào thì chưa thấy ở đâu để áp dụng được”, ông Đoan nhấn mạnh.
Chính vì vậy, theo ông Đoan, ngoài bộ tiêu chuẩn cấp mã số vùng trồng cho trái cây, Bộ NN&PTNT cần xây dựng bộ tiêu chuẩn vùng trồng cho từng loại cây, nhóm cây và hướng dẫn địa phương triển khai. Vì nếu Bộ NN&PTNT không có tiêu chuẩn cụ thể thì địa phương không thể thực hiện và HTX không thể xin được mã số vùng trồng.
Việc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn về cấp mã số vùng trồng sẽ giúp đầu ra cho cây gia vị rộng mở hơn.
Theo các chuyên gia, mã số vùng trồng giúp chứng minh cho sự quản lý chặt chẽ từ khâu tổ chức sản xuất, chứng nhận an toàn thực phẩm, đến khâu thu hoạch, sơ chế và đóng gói sản phẩm, phù hợp với xu thế phát triển trong tương lai, khi quá trình hội nhập, cạnh tranh ngày càng sâu rộng.
Để giúp người dân, HTX và địa phương không còn lúng túng trong quá trình hoàn thiện hồ sơ xin cấp mã số vùng trồng, Nhà nước cần sớm bổ sung hoàn thiện hệ thống Tiêu chuẩn kỹ thuật Việt Nam đối với từng mặt hàng nông sản theo hướng phù hợp với các tiêu chuẩn, quy chuẩn thế giới. Có như vậy mới phát triển và nhân rộng việc thực hiện cấp mã số vùng sản xuất, truy xuất nguồn gốc… đối với nông sản xuất khẩu, đồng thời giúp người dân, HTX nhân rộng mô hình sản xuất theo các tiêu chuẩn GlobalGAP, VietGAP…
Khi có tiêu chuẩn cụ thể, các địa phương cần phân công cho một cơ quan chuyên môn (Sở NN&PTNT, Chi cục trồng trọt, Chi cục bảo vệ thực vật…) làm đầu mối để thực hiện quản lý, giám sát và hướng dẫn nông dân, HTX đăng ký, kiểm tra và quản lý vùng trồng. Có như vậy mới bảo đảm thống nhất trong quá trình truy xuất nguồn gốc nông sản phục vụ xuất khẩu chính ngạch bền vững.
Người nông dân phải là chủ thể, là trung tâm. Mọi hoạt động của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn phải xoay quanh người nông dân…
Người nông dân phải là chủ thể, là trung tâm. Mọi hoạt động của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn phải xoay quanh người nông dân, phải nâng cao đời sống tinh thần, vật chất cho họ”, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ.
Ngày 19/5, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã làm việc với lãnh đạo Bộ NN-PTNT về tình hình thực hiện nhiệm vụ của ngành, một số nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách trong thời gian tới và giải quyết các kiến nghị, đề xuất của ngành với vai trò bệ đỡ của nền kinh tế.
Cùng dự buổi làm việc có Phó Thủ tướng Lê Văn Thành, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn.
Mở đầu cuộc họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ mong muốn lắng nghe Bộ NN-PTNT báo cáo kết quả nhiệm kỳ qua và 4 tháng đầu năm nay, “cái gì đạt thành quả ấn tượng nhất, cảm xúc nhất đối với các đồng chí, cái gì các đồng chí còn trăn trở, băn khoăn, lo lắng nhất, nguyên nhân là gì, nhất là nguyên nhân chủ quan”.
Qua tổ chức hoạt động, Bộ NN-PTNT rút ra bài học kinh nghiệm gì để “trong nhiệm kỳ này, trong năm nay, chúng ta chuyển từ trạng thái bị động, đối phó sang tích cực chủ động tấn công”.
Thủ tướng đề nghị thảo luận về trọng tâm đột phá trong năm nay và trong nhiệm kỳ này là gì. “Mình không tham bởi việc nhiều, thời gian ngắn, yêu cầu cao, năng lực có hạn, nguồn lực không nhiều, vậy thì phải chọn việc gì, làm gì”.
Cho rằng muốn làm cái mới thì phải tổng kết cái cũ, Thủ tướng đề nghị nêu những việc tồn đọng cần giải quyết dứt điểm, những việc đã chỉ đạo thì thực hiện đến đâu?
“5 năm qua, Bộ đã hoàn thành khối lượng lớn các công việc”, Bộ trưởng NN-PTNT Lê Minh Hoan cho biết. Bộ đã trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc trực tiếp ban hành 272 văn bản quy phạm pháp luật. Xây dựng mới, hoàn thiện đồng bộ 7 chiến lược phát triển toàn ngành, các tiểu ngành, lĩnh vực.
Đến hết năm 2020 và cả 5 năm 2016 – 2020, có 15/15 chỉ tiêu chủ yếu của ngành đều đạt và vượt mục tiêu đề ra, nổi bật như tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành 5 năm đạt 2,62%/năm, năm 2020 tăng 2,68%; tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm hơn 190 tỷ USD, năm 2020 đạt 41,53 tỷ USD, tỷ lệ che phủ rừng năm 2020 đạt 42%, cao hơn so với mức 40,7% của năm 2015. Hết năm 2020 có hơn 62% xã đạt chuẩn nông thôn mới, vượt xa mục tiêu (có 50%). Thu nhập cư dân nông thôn đạt 43 triệu đồng/người, tăng 1,92 lần năm 2015.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho rằng, quá trình phát triển vẫn còn nhiều yếu tố thiếu bền vững, tăng trưởng thiếu ổn định; những yêu kém nội tại của ngành, mặc dù đã được khắc phục nhưng chưa đáp ứng được đòi hỏi của nền sản xuất hàng hoá tập trung, quy mô lớn và tiêu chuẩn cao từ thị trường quốc tế.
Ngành NN-PTNT cần giải quyết các nút thắt, vướng mắc trên một số lĩnh vực, như cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tại Bộ và ngành NN-PTNT ở địa phương; quy định pháp lý trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất lâm nghiệp; một số cơ chế, chính sách, quy định về nông nghiệp, nông thôn không còn phù hợp với thực tiễn, cần phải sửa đổi, bổ sung…
Phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã là câu chuyện sống còn
Bày tỏ một trong những điểm trăn trở nhất, Bộ trưởng Lê Minh Hoan chỉ ra thách thức lâu nay, là điểm nghẽn, mà ông ví von là 3 “lời nguyền”, đó là sự manh mún, tự phát, nhỏ lẻ trong nền sản xuất nông nghiệp.
“Nếu không giải quyết được lời nguyền này thì sự phát triển của nông nghiệp sẽ luôn đụng trần, cả về năng suất, sản lượng, giá trị gia tăng, sức cạnh tranh hàng hóa…”.
Do đó, việc phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã là câu chuyện sống còn, là nền tảng để vượt qua lời nguyền nêu trên.
Với mục tiêu đặt ra đến năm 2025 đạt tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành từ 2,5 đến 3%, kim ngạch xuất khẩu 48 đến 50 tỷ USD, thời gian tới, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nêu rõ, ngành xác định tạo những bước chuyển mạnh mẽ.
Đó là chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tiếp tục cơ cấu lại nông nghiệp trong bối cảnh mới. Chuyển từ tư duy “sản xuất nông nghiệp” sang tư duy “kinh tế nông nghiệp”; coi nông nghiệp là ngành kinh tế, mục tiêu cốt lõi là hiệu quả. Chuyển từ “chuỗi liên kết cung ứng nông sản” sang “chuỗi liên kết giá trị ngành hàng”. Chuyển từ “nền nông nghiệp sản lượng cao” sang “nền nông nghiệp công nghệ cao, sinh thái, trách nhiệm, bền vững”. Chuyển từ “phát triển đơn ngành” sang “tích hợp đa ngành”, từ “đơn giá trị” sang “tích hợp đa giá trị ”. Chuyển từ “hỗ trợ đầu vào” sang “vừa hỗ trợ đầu vào, vừa chú trọng hỗ trợ, kết nối đầu ra”.
Ngoài quan tâm phát triển thị trường xuất khẩu, chú trọng phát triển thị trường nội địa với sức tiêu thụ của khoảng 100 triệu dân.
Chuyển từ mục tiêu “hỗ trợ kinh tế hộ” sang “hỗ trợ kinh tế tập thể”, tập trung nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của HTX nông nghiệp và các hình thức hợp tác khác; từng bước chuyên nghiệp hoá hoạt động của các chủ thể. Ngoài việc quan tâm thu hút doanh nghiệp lớn, cần có chính sách mạnh để “cân bằng, hỗ trợ doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã, kinh tế hộ”.
Chia sẻ thêm về những mặt ấn tượng nhất, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến nói, trong bối cảnh dịch bệnh, chuỗi sản xuất lớn không bị đứt gãy. Trước ảnh hưởng của lũ chồng lũ, bão chồng bão, ngành nông nghiệp vẫn đạt các chỉ tiêu quan trọng, đặt biệt là giữ được tăng trưởng. Xuất khẩu mỗi năm tăng thêm gần 1 tỷ USD. Thứ trưởng Tiến lấy ví dụ, có thời điểm, chỉ trong 3 ngày, lương thực thực phẩm đủ dự trữ 300%, giải tỏa tâm lý cho người dân.
Phụ trách lĩnh vực thủy lợi, Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp cho rằng, hiện hệ thống thủy lợi của Việt Nam được đánh giá là thuộc tốp đầu thế giới. Thời gian qua, đầu tư cho hạ tầng nông nghiệp khá lớn, chỉ sau đầu tư cho hạ tầng giao thông.
Tuy nhiên, ông bày tỏ trăn trở với cách làm hiện nay, gần như không có hình thức đầu tư PPP về hạ tầng nông nghiệp. Bộ muốn có cơ chế nào đó để triển khai PPP trong hạ tầng nông nghiệp, nhất là thủy lợi.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Trần Văn Sơn nhìn nhận, một trong những nguyên nhân giúp ngành NN-PTNT phát triển vượt bậc thời gian qua chính là nhờ thể chế, cơ chế, chính sách. Kinh tế hợp tác vẫn là cứu cánh, là nền tảng cho tái cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp. Bộ NN-PTNT cần quan tâm thúc đẩy các mô hình hợp tác xã điển hình…
Nghĩ thật, nói thật, làm thật, hiệu quả thật
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, thành tích của ngành NN-PTNT trong nhiệm kỳ qua và những tháng đầu năm 2021 góp phần quan trọng vào ổn định tình hình đất nước, đồng thời thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với thành quả như vậy, diện mạo, cảm quan, môi trường sinh thái, không gian sống của nông nghiệp, nông thôn, nông dân được cải thiện đáng kể. Đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân ngày càng nâng cao.
“Nghĩ phải thật, nói phải thật, làm phải thật, hiệu quả thật, người nông dân được hưởng thụ thật”, Thủ tướng nói.
Phải xác định trụ cột chính của ngành là nông nghiệp, nông thôn và nông dân, các trụ cột này sẽ góp phần tiếp tục ổn định chính trị và thúc đẩy phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Về mối quan hệ giữa các trụ cột, Thủ tướng nói rõ thêm, nông dân phải là trung tâm, nông thôn là nền tảng và nông nghiệp là động lực.
“Người nông dân phải là chủ thể, là trung tâm. Mọi hoạt động của các đồng chí phải xoay quanh người nông dân, phải nâng cao đời sống tinh thần vật chất cho họ”, Thủ tướng nêu rõ. Đây là điều quan trọng nhất.
Lấy nguồn lực bên trong là cơ bản, là chiến lược, là lâu dài, là quyết định; nguồn lực bên ngoài là quan trọng và đột phá. Nguồn lực bên trong bao gồm tài nguyên con người, truyền thống lịch sử văn hóa, tài nguyên đất đai, nước, không khí.
“Yếu tố con người quyết định tất cả. Do đó, người nông dân đóng vai trò trung tâm là như thế”, Thủ tướng nói.
Nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá, đó là khoa học quản lý, khoa học công nghệ, là nguồn vốn…
Phát huy tinh thần tự lực, tự cường, đổi mới sáng tạo, “có kế thừa nhưng phải có đổi mới, có ổn định nhưng phải có phát triển”. Không trông chờ ỷ lại, phải chủ động tiến công, linh hoạt, sáng tạo, từ đó, mới “biến khó thành dễ, biến cái không thể thành có thể…”, như vậy mới phát triển được.
Đừng làm manh mún
Thủ tướng nêu rõ tinh thần chỉ đạo là tăng cường phân cấp, phân quyền và đi đôi với kiểm tra, giám sát. Đẩy mạnh huy động nguồn lực bằng hình thức hợp tác công tư trên nguyên tắc cân bằng lợi ích và chia sẻ rủi ro giữa 3 chủ thể: người dân, Nhà nước, doanh nghiệp.
Thủ tướng chỉ ra một số mô hình mà Bộ NN-PTNT nghiên cứu áp dụng như lãnh đạo, công quản trị tư; đầu tư công, quản lý tư; đầu tư tư, sử dụng công. Đồng thời cũng gợi mở việc trích lập quỹ phát triển hạ tầng thủy sản, đây cũng là một mô hình hợp tác công tư, tập hợp nguồn lực đầu tư có trọng tâm, trọng điểm hơn.
Bộ NN-PTNT cần tập trung nguồn lực cho 3 đột phá chiến lược, “đừng làm manh mún”. Phải khai thác hiệu quả trên đất, nâng cao giá trị gia tăng, chứ không chỉ nghĩ đến trồng lúa, ngô, khoai, sắn. Cần sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp và tổ chức mô hình HTX nông nghiệp phù hợp với tình hình mới.
Về nhiệm vụ trọng tâm, Thủ tướng cho rằng, cần phát triển mạnh mẽ, hợp lý hệ thống hợp tác xã gắn với tái cơ cấu ngành NN-PTNT, nhất trí cho rằng cần xây dựng một nghị quyết của Chính phủ về vấn đề này.
Tán thành đề xuất của Bộ NN-PTNT về Chương trình OCOP (mỗi xã một sản phẩm) quốc gia 2021 – 2025, Thủ tướng cho rằng, Chương trình góp phần thúc đẩy sản xuất quy mô lớn. Chương trình cần xác định 5 điểm quan trọng: xác định thương hiệu sản phẩm; quy hoạch vùng nguyên liệu; có doanh nghiệp để có đầu vào, đầu ra; phải có sự tham gia của ngân hàng; áp dụng khoa học công nghệ.
Cần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn. Phải đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Tập trung phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Tổng kết các mô hình hay, cách làm mới trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Ngành cần coi trọng công tác thi đua, khen thưởng, bên cạnh siết chặt kỷ luật, kỷ cương; cần tạo điều kiện cho đổi mới sáng tạo, bảo vệ người dám nghĩ, dám làm.
Dù dịch COVID-19 tác động tiêu cực tới thị trường đầu ra, song nửa đầu năm 2021, ước tính sẽ thành lập mới được 733 HTX nông nghiệp, 800 doanh nghiệp nông lâm thủy sản.
Bộ NN&PTNT vừa có báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 1/1/2019 của Chính phủ trong 5 tháng đầu năm 2021.
Báo cáo đánh giá, thời gian qua, ngành nông nghiệp đã đẩy mạnh thực hiện các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp; nhân rộng các mô hình tổ chức sản xuất mới, hiệu quả đã được kiểm chứng; phát triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ theo chuỗi giá trị.
Bộ NN&PTNT ước tính 6 tháng tháng đầu năm 2021 sẽ thành lập mới được 733 HTX nông nghiệp, nâng tổng số HTX nông nghiệp lên khoảng 18.000 HTX; trong đó có trên 85% HTX hoạt động hiệu quả; cả nước có 31.000 tổ hợp tác và 34.500 trang trại…
Cũng thời gian này, số doanh nghiệp nông lâm thủy sản thành lập mới ước khoảng 800 doanh nghiệp, nâng tổng số doanh nghiệp nông nghiệp lên 13.900 doanh nghiệp. Bên cạnh sự đầu tư, phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, một số tập đoàn, doanh nghiệp lớn đã đẩy mạnh đầu tư vào nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Thời gian tới, Bộ NN&PTNT cho biết sẽ tiếp tục đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp. Ưu tiên hình thành các doanh nghiệp, HTX ứng dụng công nghệ quản trị tiên tiến, đủ sức tổ chức liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Trình Chính phủ ban hành, tổ chức thực hiện Nghị quyết về phát triển HTX nông nghiệp phục vụ cơ cấu lại nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp đẩy mạnh phát triển thương mại, thúc đẩy tiêu thụ, tăng cường xuất khẩu nông lâm thủy sản.
Trong đó, tăng cường năng lực nghiên cứu, dự báo và thông tin thị trường để kịp thời định hướng tổ chức sản xuất, tiêu thụ nông sản… Triển khai các biện pháp phòng vệ thương mại, các rào cản kỹ thuật phù hợp với cam kết quốc tế, đàm phán và ký kết các thỏa thuận công nhận lẫn nhau trong kiểm dịch, bảo vệ thực vật, vệ sinh an toàn thực phẩm. Hỗ trợ doanh nghiệp về pháp lý trong tranh chấp thương mại, giảm thiểu rủi ro trong hội nhập quốc tế.
Đáng chú ý, ngành sẽ tập trung xây dựng, triển khai các giải pháp thực hiện các phương án xuất nhập khẩu nông lâm thủy sản năm 2021 ứng phó với tác động của đại dịch COVID-19. Theo dõi, nắm bắt và tổng hợp thông tin, số liệu về giá cả, tình hình sản xuất và nguồn cung nông sản tại các địa phương, đặc biệt tại những địa phương bị ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch COVID – 19.
Bộ NN&PTNT cũng sẽ phối hợp với Bộ Công Thương và các địa phương để xây dựng phương án ứng phó trong sản xuất, lưu thông, tiêu thụ nông sản thực phẩm khi dịch bệnh COVID-19 xảy ra trên địa bàn.
Thủ tướng cho rằng cần phát triển mạnh mẽ, hợp lý hệ thống hợp tác xã gắn với tái cơ cấu ngành NN&PTNT, cũng như nhất trí cần xây dựng một Nghị quyết của Chính phủ về vấn đề này.
Ngày 19/5, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã làm việc với lãnh đạo Bộ NN&PTNT về tình hình thực hiện nhiệm vụ của ngành, một số nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách trong thời gian tới và giải quyết các kiến nghị, đề xuất của ngành với vai trò bệ đỡ của nền kinh tế.
Giải ‘lời nguyền’ bằng phát triển hợp tác xã
Báo cáo về tình hình phát triển của ngành Nông nghiệp, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan cho biết 5 năm qua, Bộ đã hoàn thành khối lượng lớn các công việc”. Đến hết năm 2020 và cả 5 năm 2016 – 2020, có 15/15 chỉ tiêu chủ yếu của ngành đều đạt và vượt mục tiêu đề ra, nổi bật như tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành 5 năm đạt 2,62%/năm, năm 2020 tăng 2,68%; tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm hơn 190 tỷ USD, trong đó năm 2020 đạt 41,53 tỷ USD; tỷ lệ che phủ rừng năm 2020 đạt 42%, cao hơn so với mức 40,7% của năm 2015; Thu nhập cư dân nông thôn đạt 43 triệu đồng/người, tăng 1,92 lần năm 2015.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính làm việc với lãnh đạo Bộ NN&PTNT.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho rằng, quá trình phát triển vẫn còn nhiều yếu tố thiếu bền vững, tăng trưởng thiếu ổn định; những yếu kém nội tại của ngành, mặc dù đã được khắc phục nhưng chưa đáp ứng được đòi hỏi của nền sản xuất hàng hoá tập trung, quy mô lớn và tiêu chuẩn cao từ thị trường quốc tế.
Bộ trưởng Hoan chỉ ra thách thức lâu nay, là điểm nghẽn, mà ông ví von là 3 “lời nguyền”, đó là sự manh mún, tự phát, nhỏ lẻ trong nền sản xuất nông nghiệp. “Nếu không giải quyết được lời nguyền này thì sự phát triển của nông nghiệp sẽ luôn đụng trần, cả về năng suất, sản lượng, giá trị gia tăng, sức cạnh tranh hàng hóa…”. Do đó, việc phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã (HTX) là câu chuyện sống còn, là nền tảng để vượt qua “lời nguyền” nêu trên.
Với mục tiêu đặt ra đến năm 2025 đạt tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành từ 2,5 – 3%, kim ngạch xuất khẩu 48 – 50 tỷ USD, thời gian tới, Bộ trưởng NN&PTNT nêu rõ, ngành xác định tạo những bước chuyển mạnh mẽ. Đó là chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tiếp tục cơ cấu lại nông nghiệp trong bối cảnh mới.
Chuyển từ tư duy “sản xuất nông nghiệp” sang tư duy “kinh tế nông nghiệp”; coi nông nghiệp là ngành kinh tế, mục tiêu cốt lõi là hiệu quả. Chuyển từ “Chuỗi liên kết cung ứng nông sản” sang “Chuỗi liên kết giá trị ngành hàng”. Chuyển từ “nền nông nghiệp sản lượng cao” sang “nền nông nghiệp công nghệ cao, sinh thái, trách nhiệm, bền vững”… Ngoài ra, quan tâm phát triển thị trường xuất khẩu, chú trọng phát triển thị trường nội địa với sức tiêu thụ của khoảng 100 triệu dân.
Đặc biệt, “ngành Nông nghiệp cần chuyển từ mục tiêu “hỗ trợ kinh tế hộ” sang “hỗ trợ kinh tế hợp tác, tập trung nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của HTX nông nghiệp và các hình thức hợp tác khác. Từng bước chuyên nghiệp hóa hoạt động của các chủ thể. Ngoài việc quan tâm thu hút doanh nghiệp lớn, cần có chính sách mạnh để “cân bằng, hỗ trợ doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp vừa và nhỏ, HTX, kinh tế hộ”, Bộ trưởng NN&PTNT nhấn mạnh.
Tổ chức mô hình HTX nông nghiệp phù hợp tình hình mới
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, thành tích của ngành NN&PTNT trong nhiệm kỳ qua và những tháng đầu năm 2021 góp phần quan trọng vào ổn định tình hình đất nước, đồng thời thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với thành quả như vậy, diện mạo, cảm quan, môi trường sinh thái, không gian sống của nông nghiệp, nông thôn, nông dân được cải thiện đáng kể. Đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân ngày càng nâng cao.
Về các khó khăn, vướng mắc, tán thành với ý kiến của Bộ NN&PTNT, Thủ tướng nhấn mạnh một số nội dung. Đó là, phải xác định trụ cột chính của ngành là nông nghiệp, nông thôn và nông dân, các trụ cột này sẽ góp phần tiếp tục ổn định chính trị và thúc đẩy phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Về mối quan hệ giữa các trụ cột, Thủ tướng nói rõ thêm, nông dân phải là trung tâm, nông thôn là nền tảng và nông nghiệp là động lực. “Người nông dân phải là chủ thể, là trung tâm. Mọi hoạt động của các đồng chí phải xoay quanh người nông dân, phải nâng cao đời sống tinh thần vật chất cho họ”, Thủ tướng nói đồng thời khẳng định đây là điều quan trọng nhất.
Bên cạnh đó, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá, đó là khoa học quản lý, khoa học công nghệ, là nguồn vốn…
Đặc biệt, Người đứng đầu Chính phủ lưu ý Bộ NN&PTNT cần tập trung nguồn lực cho 3 đột phá chiến lược, “đừng làm manh mún”. Phải khai thác hiệu quả trên đất, nâng cao giá trị gia tăng, chứ không chỉ nghĩ đến trồng lúa, ngô, khoai, sắn. Cần sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp và tổ chức mô hình HTX nông nghiệp phù hợp với tình hình mới.
Về nhiệm vụ trọng tâm, Thủ tướng cho rằng, cần phát triển mạnh mẽ, hợp lý hệ thống HTX gắn với tái cơ cấu ngành NN&PTNT, nhất trí cho rằng cần xây dựng một nghị quyết của Chính phủ về vấn đề này.
Tán thành đề xuất của Bộ NN&PTNT về Chương trình OCOP (mỗi xã một sản phẩm) quốc gia 2021 – 2025, Thủ tướng đánh giá, Chương trình góp phần thúc đẩy sản xuất quy mô lớn. Chương trình cần xác định 5 điểm quan trọng: Xác định thương hiệu sản phẩm; Quy hoạch vùng nguyên liệu; Có doanh nghiệp để có đầu vào, đầu ra; Phải có sự tham gia của ngân hàng; Áp dụng khoa học công nghệ.
Ngày 18/5/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp mặt giới trí thức, đến năm 2013 Việt Nam đã chọn ngày này để kỷ niệm, tôn vinh những người làm khoa học.
Cách đây 58 năm, tại Đại hội Đại biểu Hội Phổ biến khoa học và kỹ thuật Việt Nam toàn quốc lần thứ nhất (tiền thân của Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ đến dự và chúc mừng.
Tại sự kiện, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài phát biểu, tổng kết những luận điểm quan trọng nhất về phát triển khoa học công nghệ.
Người khẳng định: “Chúng ta đều biết rằng trình độ khoa học và công nghệ của ta hiện nay còn thấp kém. Lề lối sản xuất chưa cải tiến được nhiều. Cách thức làm việc còn nặng nhọc. Năng suất lao động còn thấp… Nhiệm vụ của khoa học là ra sức cải biến những cái đó… Khoa học phải tự sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi… Các cô, các chú phải ra sức đem hiểu biết khoa học và kỹ thuật của mình truyền bá rộng rãi trong nhân dân lao động, để nhân dân thi đua sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ…”.
Đến ngày 18/6/2013, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII, Luật Khoa học và Công nghệ được thông qua, thống nhất chọn ngày 18 tháng 5 hàng năm là Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Đây là ngày hội để tôn vinh những người làm khoa học, giới thiệu các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất.
Trong những ngày này nhiều hoạt động được Ngành Khoa học tổ chức, là dịp để nâng cao nhận thức và khơi dậy niềm tự hào về trí tuệ Việt Nam, tinh thần đam mê lao động sáng tạo trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam trong xây dựng và phát triển đất nước.